Hiền

Chia sẻ bởi Ngô Thị Hiền | Ngày 21/10/2018 | 42

Chia sẻ tài liệu: Hiền thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

Tính mơ hồ và đa nghĩa là một trong những đặc điểm nổi đặc trưng và quan trọng góp phần tạo sự thành công cho một tác phẩm văn học. Ngôn từ là yếu tố cơ bản tạo nên văn bản văn học. Đọc văn bản văn học bao giờ cũng bắt đầu từ việc đọc van bản ngôn từ, vì vậy cần nhận rõ đặc trưng cơ bản của nó?tính mơ hồ và đa nghĩa là một trong những đặc trưng nổi bật đó. Bây giờ sẽ là vài net cơ bản vủa tính mơ hồ và đa nghĩa trong tác phẩm văn học.
từ ngữ trong văn học thường mang tính chất đa nghĩa, tính chất mơ hồ(mờ). Trong văn tâm điêu long LƯU HIỆP đã nói văn thơ”phức ý vy công”nghĩa là đa nghĩa mới khéo. Arisstote trong tác phẩm bàn về thơcũng nói đến nhưng từ hai nghĩa, ba nghĩa, bốn nghĩa,. Dante trong thư gửi đại thân vương Âcla cũng nói đến từ ngữ trong thơ có nhiều nghĩa: nghĩa mặt chữ, nghĩa ngụ ý, nghĩa triết lí, nghĩa bí hiểm. Epson trong bẩy lọai hình mơ hồ cũng khẳng định tính đa nghĩa: nghĩa bề mặt và nghĩa bề sâu. Nghĩa bề mặt là nghĩa đen rõ ràng, khá xác định. Nghĩa bề sâu là nghĩa ngoài lời hoặc nghĩa bị che giấu, chúng thường là hàm súc, kín đáo, không xác định, co dãn thậm chí có nhiều nghĩa, giải thích thế nào cũng có vẻ thông, nhưng không loại trừ nhau.
Nghĩa song quan (hai cửa) là net tiêu biểu của bài Cái quạt, Bánh trôi nước. Trong nghĩa mỉa mai ý nghĩa bề sâu ngược hẳn với nghĩa bề mặt. Ví dụ Nguyễn khuyến kết bài Tiến sĩ giấy bằng một câu ngớ ngẩn rất chân lí: tương rằng đò thật hoá đồ chơi. Văn của Nguyễn công hoan, Vũ Trọng phụng có rất nhiều lời mỉa mai.
Nghiã ví von, hoán dụ, ẩn dụ là lợi dụng chỗ giống nhau của hai sự vật khác nhau, mượn sự vật này để làm nảy sinh ý nghĩa về sự vật khác. Câu thơ NGUYỄN TRÃI:”nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc. Nước chảy âu khôn xiết bóng non” chắc không chỉ nói chuyện thiên nhiên. Trong lí luận hiện đại ở phương tây người ta coi trọng ẩn dụ hơn, ví dụ: ‘ vợ tôi có mớ tóc của lửa gỗ , có tư duy ánh chớp của nhiệt, có vóc hình của đòng hồ cát…(A. Breton: tự do kết hôn.nghĩa tương trưng là lấy sự vật mà nghĩa mặt chữ biểu đạt làm kí hiệu để biểu hiện một quan niệm hay sự vạt nào đó. Ý nghĩa tượng trưng thường khó nắm bắt.
Nghĩa lấp lửng như câu thơ NGUYỄN DU:
“Bốn dây nhỏ năm đầu ngón tay”
Dây nhỏ máu hay ngón tay nhỏ máu?”
Thực ra là cõi lòng chảy máu, đớn đau đến đứt ruột.
Nghĩa ngoài lời xuất hiện tại chỗ trống của nghĩa mặt chữ, nghĩa mặt chữ không khêu gợi, chỉ do người thể nghiệm mà cảm thấy. Ví dụ câu thơ của Vi Ứng Vật đời Đường:
“Cây lá vàng trong mưa
Người đầu bạc dưới đèn.”
Hoặc câu kết trong bài Đồng chí của Chính Hữu:
“Đầu súng trăng treo”
Ý nghĩa mặt chữ ai cũng hiểu, nhưng nghĩa ngoài lời thì mỗi người giải thích một khác
Tính đa nghĩa của ngôn từ văn học nhiều khi do sự bỏ bớt ngữ cảnh tạo nên. ngữ cảnh là điều kiện để người đọc hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ nhưng tác giả cố ý tỉnh lược ngữ cảnh. Ví dụ trong bài thu vịnh của nguyễn khuyến có câu:
“ Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông đào”
Vì sao thẹn, ngữ cảnh trong bài không đủ để lí giải, tuỳ sức suy đoán, tưởng tượng của người đọc mà giải quyết. Hoặc như câu cuối trong bài đây mùa thu tới của Xuân Diệu:
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?”
Nghĩ ngợi gì ở đây , có người nêu, nghĩ về tình yêu, nhưng có thể nghĩ về tuổi xuân chóng qua, cuộc đời ngắn ngủi…
Trong ca dao cổ truyền đã nghiên cứu văn chương dân gian( theo cách tiếp cận mới).
Ca dao cổ truyền có hình thức biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa. Hay nói cách khác trong ca dao cổ truyền có một số nghĩa có tính mơ hồ. Có những trường hợp một là ca dao cổ truyền có chứa hai đến ba hình thức biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa. Tức trong một lời ca dao cổ truyền ba loại ý nghĩa mơ hồ. Ví dụ:
cái cò mà đi ăn đêm
đậu phải cành mềm lộn cổ xuóng ao
ông ơi ông vớt tôi nao
tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
có xáo thì xáo nước trong
đừng xáo nước đục đau lòng cò con
ở lời ca dao trên ý nghĩa mơ hồ: “nói vật này mà như nói tới vật khác” (có ý chỉ người nông dân). Còn có thêm loại ý nghĩa mơ hồ do sự đa nghĩa của từ trong văn cảnh cụ thể này mang lại:
con cò là con cò bé
Hay là con của của con cò mẹ
Như vậy có thể nói, oỏơ những lời ca dao ấy mơ hồ chôngf lên mơ hồ, đa nghĩa càng thêm đa nghĩa.
Tính mơ hồ đa nghĩa phải chăng là những ma lực chính tạo sự hút lâu bền cho ca dao cổ truyền
Đến đây ta có thể đưa ra khái niệm tính mơ hồ đa nghĩ của tác phẩm văn học.
Không phải tới tận bây giờ tính mơ hồ đa nghĩa mới được phát hiện, biết tới. Vì từ xa xưa người ta đã quan tâm đến tính mơ hồ đa nghia cua tác phẩm văn học. Đó là ý toại (ý ngoài lời của văn và thơ). Nhà triết học Đổng Trọng Thư đời tây hán đã cho rằng thơ kinh thi không thể giải thích được rõ ràng “ thi vô đạt hỗ”. Tuy nhiên ngày nay khi tính tích cực sáng tạo của người tiếp nhận được ý thức rõ rệt, tính bản thể của ngôn ngữ văn học được phát hiên thì tính mơ hồ đa nghĩa_ một thuộc tính của văn học nghệ thuật _càng được đặc biệt coi trọng.
Theo empơsơn mơ hồ là ý nghĩa không xác định, một ý định muốn biểu đạt nhiều loại sự vật, cho phép có nhiều cách giải thích. Vậy tính mơ hồ đa nghĩa trong tác phẩm văn học có thể hiểu là:
Một ý nghĩa không xác định, một hình thức thẩm mĩ muốn biểu hiện nhiều sự vật, cho phép nhiều cách giải thích nhiều hình tượng nghệ thuật
Bài soạn đã kết thúc hjhjjjjjjj
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Ngô Thị Hiền
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)