HỆ TIÊU HÓA NGƯỜI!!
Chia sẻ bởi Ong Thuc Dao |
Ngày 23/10/2018 |
41
Chia sẻ tài liệu: HỆ TIÊU HÓA NGƯỜI!! thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Hệ tiêu hóa
NGƯỜI
Hệ tiêu hoá phụ thuộc vào tác động lên các thức chúng ta ăn của các chất được gọi là enzyme (men). Các enzyme này được các cơ quan gắn vào đường tiêu hoá sản xuất ra và chúng chịu trách nhiệm về nhiều phản ứng hoá học có liên quan đến sự tiêu hoá.
Những biến đổi này bắt đầu trong miệng. Khi thức ăn được nhai, các tuyến nước bọt bên dưới lưỡi tăng cường chất tiết và enzyme ptyalin chúng sản xuất ra bắt đầu phân hoá một số carbohydrate thành các phân tử nhỏ hơn có tên là đường maltose và glucose.
BAO TỬ
Thức ăn sau đó đi xuống thực quản và đi vào bao tử, nơi mà sự pha chộn các chất hoá học mới lại bắt đầu, được khởi phát bởi các xung lực thần kinh.
Số lượng chất dịch bao tử đã phóng thích bị chi phối cả ở đây lẫn trong ruột bởi các xung lực thần kinh, sự hiện diện của chính thức ăn và sự tiết các hoócmon.
Hoócmon gastrin kích thích các tế bào bao tử phóng thích hydrochloric acid và pepsin sau khi thức ăn đang ở trong bao tử, để cho thức ăn có thể được phân hoá thành các protein peptone. Sự tiết dịch nhầy ngăn ngừa lớp lót bao tử khỏi bị tổn hại bởi acid. Khi độ chua đạt tới một điểm nào đó, thì sự sản xuất gastrin ngừng lại.trong ruột non
RUỘT NON
Thức ăn rời khỏi bao tử - một lớp chất lỏng chua, hơi sệt được gọi là dịch nuôi – sau đó đi vào tá tràng, phần đầu của ruột non. Tá tràng sản xuất và phóng thích nhiều dịch nhầy, dịch này bảo vệ tá tràng khỏi tổn hại vì acid trong dịch nuôi và các enzyme khác. Tá tràng còn nhận các dịch tiêu hoá của tuỵ tạng và một số mật đáng kể, lượng mật này được gan sản xuất ra lưu trữ trong túi mật cho đến khi được cần đến.
Hai hoócmon gây ra sự phóng thích các dịch tụy. Hoócmon secretin, kích thích sự sản xuất số lượng lớn các dịch kiềm trung hoà acid, một phần dịch nuôi được tiêu hoá. Các enzyme dịch tụy được sản xuất để phản ứng lại sự phóng thích hoócmon thứ hai.
Mật cũng được phóng thích và tá tràng từ túi mật để phân hoá các giọt chất béo.
Các enzyme dịch tụy giúp tiêu hoá các carbohydrate và protein, ngoài ra còn có các chất béo. Các enzyme này bao gồm trysin, nó phá vỡ các peptone thành các đơn vị nhỏ hơn gọi là peptone thành các đơn vị nhỏ hơn gọi là peptide phân các chất béo thành các phân tử glycerol nhỏ hơn và các carbohydrate thành đường maltose.
Thức ăn được tiêu hoá sau đó đi vào không tràng và hồi tràng - phần ruột non xuống thêm chút nữa, nơi mà các giai đoạn biến đổi hoá học cuối cùng xảy ra. Các enzyme được phóng thích từ các tế bào trong những chỗ lõm nhỏ trong các thành không tràng và hồi tràng được gọi là c
ác khe Leiberkihn.
TÚI MẬT
ĐẠI TRÀNG ( HỒI TRÀNG )
Hầu hết sự hút thụ thực phẩm xảy ra trong hồi tràng – nó chứa đựng hàng triệu chồi nhỏ bé gọi là nhung mao trên thành của nó. Mỗi nhung mao có một mao mạch và một nhánh bịt kín nhỏ bé của hệ bạch huyết gọi là ống dẫn dưỡng chất. Khi thực phẩm tiêu hoá tiếp xúc với các nhung mao, glycerol, các acid béo và các vitamin hoà tan đi vào các ống dẫn dưỡng chất, được chuyển vào hệ thống bạch huyết và sau đó chúng được đổ dồn vào trong máu.
Các amino acid từ sự tiêu hoá protein và các chất đường từ carbohydrate, cộng với các vitamin và các chất khoáng quan trọng như là vôi, sắt và íôt được hấp thụ trực tiếp vào các mao mạch trong nhung mao. Các mao mạch này dẫn vào tĩnh mạch của gan, tĩnh mạch này vận chuyển dưỡng chất trực tiếp đến gan. Gan lần lượt lọc ra một số chất để sử dụng cho riêng nó và dự trữ, số còn lại trong các chất này chuyển vào vòng tuần hoàn chung của cơ thể.
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LÁCH
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LÁCH
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LÁCH
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LÁCH
Lách là một trong những bộ lọc máu quan trọng nhất. Các tế bào lưới không những loại bỏ các hồng cầu già cũ, mà chúng còn loại bỏ bất kỳ tế bào khác thường nào. Bộ lọc này đặc biệt có hiệu quả đối với các hồng cầu, nhưng các bạch cầu và tiểu cầu cũng được lách lọc kỹ khi cần thiết.
Lách cũng sẽ loại bỏ các vật thể khác thường lơ lửng trong dòng máu. Vì vậy, nó đóng góp phần quan trọng trong việc tống khứ những vi trùng có hại. Nó còn là phương tiện để sản xuất các kháng thể các protein lưu thông trong máu này trói buộc và giữ chặt một protein là, để cho các bạch cầu được gọi là các thực tế bào có thể tiêu diệt nó. Các tiểu thể Malpighi sản xuất ra kháng thể.
Trong một vài tình huống, lách có một vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất các hồng cầu mới. Điều này không xảy ra ở người trưởng thành bình thường, mà xảy ra ở những người bị bệnh về tuỷ xương, lách và gan là các địa điểm chính sản xuất hồng cầu. Ngoài vấn đề này ra, lách còn sản xuất rất nhiều máu cho bào thai trong lúc nó ở trong tử cung trong suốt thai kỳ.
KHÁM LÁCH
Lách không thể sờ mó được ở những người khoẻ mạnh bình thường, nhưng có rất nhiều bệnh khiến cho lách to lên, vì thế lúc đó có thể khám qua thành bụng. Cách thức rất đơn giản: cho bệnh nhân nằm ngữa, bác sĩ bắt đầu sờ nắm phần dưới bụng và sau đó di chuyển hướng lên trên góc trái. Lách di chuyển khi bệnh nhân hít thở, vì thế bệnh nhận được yêu cầu hít thở sâu để sự chuyển động này có thể được sờ thấy.
Sự lớn lên của lách cũng có thể được phát hiện bằng X - quang hoặc bằng cách sử dụng máy nội soi đồng vị phóng xạ.
SỰ PHÂN HOÁ TINH BỘT
Một trong những nhiệm vụ của hệ tiêu hoá là phân hoá các carbohydraten gốc tinh bột, như là khoai tây và bánh mì, thành các phần tử đường riêng biệt. Quá trình này bắt đầu trong miệng, nơi có một enzyme phân hoá tinh bột (hay men hoá học) được gọi là amylase được pha trộn với thực phẩm nhiều hơn khi nó đi xuống bao tử vào trong ruột.
Amylase phân hoá tinh bột thành các cặp phân tử đường mà sau đó được tách ra bởi hàng loạt enzyme khác trong ruột non, sao cho các phân tử đường riêng biệt để hấp thụ. Cuối cùng các chất đường được đưa chuyển hết đến gan theo dòng máu.
CHỨC NĂNG GAN
Gan biến đổi toàn bộ đường fructose và các hợp chất tương tự khác đường glucose.
Cơ thể có nhiều cơ cấu bảo đảm có một mức đường glucose đầy đủ trong máu để cung cấp cho các nhu cầu của nó. Cơ cấu này phụ thuộc vào sự đóng hay mở sự phóng thích gluycose được tích trữ trong gan.
Glucose được tích trữ như một hợp chất được gọi là glycogen – là một mạng lưới liên kết lỏng lẻo của các phân tử glucose. Glucose còn được lưu trữ trong các cơ.
Ngay khi glucose được phóng thích vào máu, nó được các tế bào hấp thụ.
TUYẾN TUỴ
Để làm được điều này, insulin là yếu tố cần thiết. Insulin, giống như amilase, cũng xuất phát từ tuyến tuỵ, từ các đảo mô đặc biệt được gọi là các tiểu đảo Langerhans. Nhưng, không giống amylase ở chỗ nó được tiết vào máu mà không tiết vào trong ruột.
Khi glucose ở bên trong các tế bào, nó được đốt cùng với oxy để tạo ra năng lượng. Carbon đioxide và nước là các phế phẩm của quá trình này. Carbon dioxide được vận chuyển theo đường máu đến phổi, nơi nó được bài tiết trở vào không khí, trong khi đó nước đơn giản kết hợp với tế bào tạo nên 70% trọng lượng cơ thể.
Cũng như gan tích trữ glucose dưới hình thức glycogen, vì thế năng lượng được tạo ra từ sự đốt glucose tự nó phải được tích trữ trong mỗi tế bào, để được sử dụng dần dần cung cấp năng lượng cho các phản ứng hóa học mà tế bào phụ thuộc. Các tế bào thực hiện điều này bằng cách tạo ra các hợp chất phosphate năng lượng cao để dễ dàng phân hoá và phóng thích năng lượng. Các hợp chất phosphate này giống như từ một bộ pin có thể được sử dụng và nạp điện theo ý muốn để cung cấp số lượng nhỏ năng lượng khi chúng được cần đến. Sự nạp năng lượng lại xuất phát từ sự đốt glucose.
CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG KHẨN CẤP
Khối lượng dự trữ glucogen tạo ra glucose trong cơ thể không nhiều lắm. Thí dụ, nếu chúng cạn kiệt vì sự nhịn đói, thì các nguồn năng lực khác là cần thiết. Cơ thể có hai giải pháp cho vấn đề này. Thứ nhất nó có thể bắt đầu biến đổi protein - hợp chất có cấu trúc quan trọng của cơ thể - thành glucose. Thứ hai, nó có thể bắt đầu đốt mỡ trong các mô thay thế cho glucose. Mỡ cung cấp nguồn năng lượng cũng tốt như glucose, nhưng khi đốt mỡ như vậy chúng lại sản xuất ra thêm các chất thải được gọi là ketone.
KIỂM SOÁT MỨC ĐỘ GLUCOSE
Bởi vì glucose là một nhiên liệu quan trọng nên mức độ của nó trong máu cần được tích luỹ trong những giới hạn khá gõ ràng, nếu chúng ta muốn duy trì sức khoẻ tốt. Một mức độ đường huyết quá cao sẽ sinh ra bệnh đái tháo đường. Nếu mức đường glucose xuống qua thấp, não có thể hoạt động không còn chính xác và dẫn đến bất tỉnh - hiện tượng này gọi là giảm đường huyết (thiếu máu não).
Mức đường huyết trong cơ thể chúng ta được giữ không thay đổi nhờ sự cần bằng insulin (insulin làm giảm đường huyết bằng cách thúc đẩy glucose vào trong các tế bào) cùng với một loạt hoócmon khác, tất cả các hoócmon này có khuynh hướng đẩy đường huyết lên, bằng cách phóng thích glucose từ gan. Quan trọng nhất là hoócmon adrenalin và cortisone, cả hai đều xuất xứ từ tuyến thượng thận. Một hoócmon khác nữa gọi là hoócmon tăng trưởng, xuất phát từ tuyến yên trong não. Hoócmon này cũng có khuynh hướng tăng thêm lượng đường glucose trong máu.
MIỆNG
Miệng con người là một kiểu hang có chứa lưỡi và răng. Nó bị giới hạn bởi đôi môi, trong khi ở nối ra của nó, miệng liên kết với các đường dẫn vào đường tiêu hoá và vào đến phổi. Vì mối quan hệ với hai hệ thống cơ thể quan trọng bậc nhất này, miệng chắc chắn có liên quan với cả sự tiêu hoá lẫn quá trình hô hấp. Ngoài ra, nó còn liên quan đến hoạt động nói.
Chính đôi môi đem lại cho miệng sự biểu hiện của nó. Chúng được tạo nên từ các sợi cơ rải rác có mô đàn hồi và được cung cấp rất nhiều dây thần kinh làm cho đôi môi vô cùng nhạy cảm.
Bao phủ đôi môi là một dạng thay đổi của da, là một kiểu cấu trúc trung gian giữa da thật bao phủ mặt và màng lót bên trong của miệng. Không giống như da thật, da đôi môi không có lông, tuyến mồ hôi hoặc tuyến tiết bã nhờn.
Miệng được lót bằng màng nhầy (niêm mạc), chứa đựng các tuyến sản xuất chất dịch trong hơi dính được gọi là niêm dịch. Sự tiết ra liên tục của các tuyến này giữ cho bên trong miệng thưỡng xuyên ẩm ướt, được giúp đỡ bởi hoạt động của các tuyến nước bọt. Niêm mạc lót trong hai má nhận lãnh mức độ hao mòn rất lớn và có khả năng tái sinh đặc biệt.
Hướng về phía trước miệng, ở phía trên là vòm miệng cứng còn vòm miệng mềm hướng về phía sau. Vòm cứng do đáy xương hàm trên tạo thành, cho phép lưỡi ép vào bề mặt cứng chắc và vì vậy làm cho thức ăn có thể được pha trộn và làm mềm. Độ mềm của vòm cần thiết vì nó có thể di chuyển về phía trên khi thức ăn được nuốt vào và như vậy ngăn chặn thức ăn khỏi bị ép lên đi vào mũi, mà các đường đi vào mũi ở phía sau miệng.
Thòng xuống từ trung tâm của vòm mềm là một miếng mô gọi là lưỡi gà. Chức năng chính xác của nó là một điều bí mật, nhưng một số người cho rằng nó tạo thành một miếng bịt có hiệu quả ở các đường khí khi thức ăn được nuốt vào, và vì vậy ngăn chặn sự nghẽn thở.
LƯỠI
Lưỡi có hình dạng khá giống một hình tam giác - rộng ở đáy, thuôn dài ra và nhọn ở đỉnh, đáy hoặc rễ của nó gắn chặt vào hàm dưới và vào xương móng của xương sọ. Các mép rễ lưỡi được nối vào các thành của hầu, một khoang hình thành phía sau miệng.
Phần giữa của lưỡi có bề mặt trên cong, trong khi đó mặt dưới của nó nối liền với sàn miệng bằng một dải mô mỏng – cái hãm lưỡi. Đầu lưỡi tự do chuyển động nhưng khi một người không ăn hoặc nói chuyện, thì nó thường nằm gọn trong miệng với đầu lưỡi đạt tựa vào răng phía dưới.
Các động tác của lưỡi được quyết định các cơ mà nó được hình thành và đối với cơ mà nó nối và theo cách lưỡi được gắn vào trong miệng.
Bản thân lưỡi có các sợi cơ vừa chạy theo chiều dọc vừa chạy theo chiều ngang và các cơ này có khả năng tạo ra chuyển động nào đó, nhưng các động tác của lưỡi được coi là rất linh hoạt do sự co bóp của nhiều cơ có vị trí trong cổ và bên trong hàm. Thí dụ, cơ trâm thiệt trong cổ, có nhiệm vụ đưa lưỡi lên trên và về phía sau, trong khi cơ móng lưỡi, cũng ở trong cổ, đưa lưỡi hạ xuống vào lại vị trí nghỉ bình thường.
Trong khi đang ăn, một trong những công việc chính của lưỡi là đưa thức ăn đến răng để nhai và năn thức ăn đã mềm thành viên tròn sẵn sàng để nuốt. Các động tác này được thực hiện bằng hàng loạt chuyển động cong lên cong xuống. Khi nhiệm vụ vừa hoàn thành (hoặc ngay khi người ăn nuốt thức ăn) lưỡi đẩy viên thức ăn vào hầu ở phía sau miệng, từ đó thức ăn đi vào thực quản và được nuốt vào bao tử.
CÁC TUYẾN NƯỚC BỌT
Mỗi ngày tất cả chúng ta thường sản xuất khoảng 1,7 lít nước bọt - một chất tiết giống như nước gồm có chất nhầy và chất dịch. Nó có chứa enzyme ptyalin giúp tiêu hoá chất được gọi là lyozyme có vai trò của một chất diệt khuẩn giúp bảo vệ miêng khỏi bị vi trùng. Vì vậy nước bọt là một chất sat khuẩn nhẹ.
Nước bọt được ba đôi tuyến có vị trí trong mặt và cổ sản xuất: đôi tuyến mang tai, đôi tuyến dưới hàm và đôi tuyến dưới lưỡi. Ngoài ra còn có nhiều tuyến nhỏ hơn nằm rải rác quanh miệng. Mỗi tuyến nước bọt được cấu tạo bởi các ống phân nhánh, được sắp xếp chung với nhau và lót bằng các tế bào phân tiết. Chức năng của các tế bào phân tiết thay đổi giữa các tuyến và các chất dịch chúng tiết ra cũng khác nhau.
Tuyến mang tai là tuyến lớn nhất trong các tuyến nước bọt và vị trí ở cổ, nằm tại góc hàm và kéo dài lên ngang xương má ngay phía trước tai. Nước bọt của tuyến mang tai chảy vào má từ các ống dẫn chạy tới từ chính các tuyến. So với các tuyến nước bọt khác, tuyến mang tai sản xuất một chất tiết giống như nước và có chứa một số lượng ptyalin tăng lên - một enzyme để tiêu hoá tinh bột.
Mặc dù các tuyến mang tai là tuyến nước bọt lớn nhất nhưng chúng chỉ sản xuất khoảng một phần tư tổng số lượng nước bọt. Các tuyến dưới hàm, đúng như tên nó, nằm ở dưới hàm bên dưới các răng sau và các tuyến dưới lưỡi. Các tuyến dưới lưỡi chủ yếu là tuyến ra các tuyến nước bọt đầy dịch chứa ptyalin và tuyến này tạo nên phần lớn hơn trong tổng số lượng nước bọt được tiết ra trong miệng suốt bất kỳ thời gian nào.
VAI TRÒ CỦA NƯỚC BỌT
Chức năng quan trọng của nước bọt là giúp đỡ trong quá trình tiêu hoá. Nó giữ cho miệng ẩm ướt và thoải mái khi chúng ta ăn và giúp làm ướt thức ăn khô cho phép nó được nhai và nuốt dễ dàng hơn. Dịch nhầy trong nước bọt tẩm viêm thức ăn và có tác dụng như một chất làm trơn giúp chúng ta nuốt.
Enzyme ptyalin được tiết ra trong nước bọt bắt đầu giai đoạn đầu của sự tiêu hoá. Nó bắt đầu phân huỷ thức ăn có tinh bột thành các chất đường đơn giản hơn, nhưng tác động của nó bị ngưng lại vì acid trong bao tử. Tuy nhiên, nếu các viêm thức ăn đủ lớn và được nhai kỹ thì acid không thể thấm vào trung tâm trong khoảng thời gian nào đó và sự phân huỷ tinh bột được tiếp tục.
Nước bọt cũng cho phép chúng ta thưởng thức thức ăn và thức uống. Cảm giác về vị được tạo ra nhờ nhiều ngàn chồi vị giác mà chủ yếu nằm ở các niêm mạc lưỡi.
Tuy nhiên, các chồi vị giác nàychỉ có thể phản ứng với chất lỏng và thức ăn cứng trpng miệng khô sẽ tạo ra cảm giác về vị nào cả: đó là điều quan trọng cho nước bọt hoà tan trước một số thức ăn. Chất dịch này có chứa các dịch thức ăn, lúc đó có thể chảy qua các chồi vị giác mà về hoá học được kích thích để chuyển các thông tin đến não giải mã mùi vị của thức ăn.
Nước bọt được sản xuất liên tục suốt ngày đêm với một tốc độ chậm: số lượng được kiểm soát bởi hệ thần kinh tự trị - hệ thần kinh kiểm soát tất cả hoạt động không ý thức củachúng ta. Nhưng tại những thời điểm khác nhau, tốc độ tiết nước bọt bị thay đổi do sự kích thích thần kinh.Sự kích thích của hệ thần kinh giao cảm làm giảm lưu lượng nước bọt, điều này được thấy rõ do miệng chúng ta bị khô khi chúng ta lo lắng, sự nói có thể trở nên khó khăn vì môi và lưỡi chúng ta không được trơn đủ để chuyển động tự do. mặt khác,sự tiết nước bọt tăng lên là một hoạt động phản xạ đượ hệ thần kinh phó giao cảm truyền đến: Các dây thần kinh mang cảm giác về vị đến não kích thích sự chảy nước bọt khi thức ăn đang ở trong miệng. Điều này được biết đến như một phản xạ bẩm sinh, nhưng sự chảy nươc bọt gia tăng cũng có thể được tạo ra do chỉ là ý nghĩ về thức ăn.Vì vậy chỉ cần nhìn vào thức ăn cũng có thể làm cho miệng các bạn đầy nước là đúng và điều này gọi là phản xạ có đ/kiện.
RĂNG
Răng có cấu trúc giống như xương cứng được cắm chặt vào các hốc răng của hàm. Hai hàm răng lần lượt xuất hiện trong cả cuộc đời.
Mỗi răng gồm có hai phần: thân răng đó là phần có thể nhìn thấy bên trong miệng và chân răng là phần được cắm bên trong xương hàm. Chân răng thường dài hơn thân răng. Răng cửa chỉ có một chân, trong khi các răng mọc xa về phía sau thường có hai hoặc ba chân.
Nguyên tố cấu trúc quan trọng nhất của răng gồm có mô đã vôi hoá được gọi là ngà răng. Ngà răng là một chất liệu giống như xương cứng có chứa các tế bào sống. Nó là một mô nhảy cảm và gây ra cảm giác đau khi bị kích thích bằng nhiệt hoặc bằng hoá chất. Ngà của chân răng được một lớp men bảo vệ bao bọc, lớp men này là một mô tế bào tự do rất cứng và không cảm giác. Chân răng được bao bọc bằng một lớp xương răng, một chất hơi tương tự với ngà răng giúp giữ chặt răng trong hốc răng.
Giữa răng có hình dạng một hốc rỗng chứa đầy mô liên kết nhạy cảm được gọi là tuỷ răng. Tuỷ này kéo dài từ bên trong thân răng thẳng xuống đến cuối chân răng. Chân răng có lỗ mơơr phần sâu nhất trong xương hàm. Qua lỗ mở này, các mạch máu và dây thần kinh nhỏ bé chạy vào hốc tuỷ răng.
SỰ NÂNG ĐỠ RĂNG
Mỗi răng đều có chân được dính chặt vào xương hàm; phần hàm nâng đỡ răng được gọi là mỏm ổ răng. Tuy nhiên, phương thức gắn vào phức tạp và các răng được dính chặt vào hàm nhờ các sợi được gọi là dây chằng nha chu. Ở đây gồm có một loạt sợi collagen cứng, chạy từ xương răng bao bọc chân răng đến sát bên xương ổ răng. Các sợi này nằm rải rác với các mô liên kết, trong mô liên kết cũng có chứa các mạch máu và sợi thần kinh.
Cách thức gắn răng đưa đến một mức độ chuyển động tự nhiên rất nhỏ. Điều này có tác dụng như một loại giảm xóc có thể bảo vệ răng và xương khỏi bị tổn hại khi cắn.
Khu vực quan trọng chủ yếu trong hệ thống này là ở cổ răng, nơi tiếp giáp giữa thân và chân răng. ở vùng này nứu răng thắt chặt vào răng có tác dụng bảo vệ các mô nâng đỡ nằm dưới khỏi bị nhiễm trùng và các ảnh hưởng có hại khác
CÁC LOẠI RĂNG
Răng người có hai đợt. Răng sữa là những chiếc răng xuất hiện trong thời thơ ấu và thường thường tất cả đều rụng. Răng sữa có thể được chia thành ba loại: răng cửa, răng nanh và răng hàm. Răng vĩnh viễn là những chiếc răng thay thế và còn dàn rộng ra đợt răng ban đầu. Các răng này có thể được chia thành các loại tương tự như các loại răng sữa và ngoài ra có thêm một loại răng nữa được gọi là răng tiềm hàm, chúng ta trung gian về hình thức lẫn vị trí giữa răng nanh và răng hàm.
Đặc điểm của răng cửa là có mép rạch giống như phiến đá hẹp và các răng cửa ở hai hàm đối diện hoạt động bằng cách cắt qua nhau như hai lưỡi kéo. Răng nanh và các răng nhọn là nhưng răng thích ứng tốt cho hoạt động xé, trong khi các răng hàm và tiền hàm có tác dụng nghiền thức ăn hơn là cắt nó.
Các răng tạo thành một vành cung vòng ovan đều đặn với răng cửa ở phía trước và các răng hàm có vị trí lùi dần về phía sau. Hai hàm răng bình thường vừa khít nhau để cho khi cắn các răng đối diện sẽ khớp với nhau.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA RĂNG
Dấu hiệu đầu tiên về sự phát triển của răng xuất hiện khi bào thai chỉ sáu tuần tuổi. Ở giai đoạn này các giai đoạn các tế bào mô của miệng nguyên thuỷ tăng lên về số lượng và hình thành một băng dầy có hình dáng của hàm răng. Tại một chuỗi các điểm tương ứng với răng riêng rẽ, băng này tạo ra các điểm mọc vào trong như chồi trong mô mà biểu mô bao phủ. Sau đó các chồi này trở thành hình chuông và dần dần tạo lên để tạo ra hình dạng nối liền sau giữa men răng và ngà răng. Một số tế bào nào đó sau khi tiếp tục hình thành ngà răng, trong khi đó các tế bào khác tạo thành ngà răng.
Các rìa chuông tiếp tục phát triển sâu hơn và cuối cùng các chân răng trọn vẹn hình thành, nhưng quá trình này không hoàn thành cho đến khoảng một năm sau khi các răng sữa đã xuất hiện. Lúc mới sinh dấu hiệu duy nhất của khớp cắn được cung cấp bằng các đệm nướu chúng là các băng làm dày của mô nướu. Khoảng sáu tháng tuổi răng cửa dưới bắt đầu nhú qua nướu, một quá trình được gọi là sự mọc răng. Tuổi mọc răng có thể thay đổi: có một ít số em bé mọc răng lúc mới sinh, trong khí đó có em bé đến một tuổi mới mọc răng.
Sau khi các răng cửa dưới xuất hiện, các răng cửa dưới bắt đầu mọc và tiếp theo là các răng nanh và răng hàm, tuy vậy sự chính xác có thể thay đổi. Những vấn đề mọc răng có thể được kết gợp với bất kỳ răng nào trong số các răng sữa.
KHoảng hai tuổi rữa đến ba tuổi, đứa trẻ thường có một bộ đâyd đủ 20 chiếc răng sữa. Chúng sẽ được đặt cách nhau một cách lý tưởng để cung cấp các răng lớn hơn.
Sau đó sau sáu tuổi, các răng cửa sữa trên và dưới trở nên lung lay và được thay thế bởi các răng vĩnh viễn. Các răng hàm vĩnh viễn phát triển không đúng vị trí của răng hàm sữa mà ở phía sau chúng. Các răng hàm vĩnh viễn đầu tiên phát hiện lúc 6 tuổi, răng hàm thứ 2 lúc 12 tuổi và răng hàm thứ 3 hay còn gọi là răng khôn khoảng 18 tuổi. Tuy nhiên có sự thay đổi đáng kể về thời gian xuất hiện của tất cả các răng khôn hoặc nhiều hơn. Lý do của vấn đề này là do tiến hoá: khi hàm trở nên nhỏ hơn thì số hàm trở nên nhỏ bé thì số răng giảm đi. Một số răng khôn có thể không bao giờ mọc qua nướu và nếu chúng bj lèn chặt chúng có thể cần được nhổ bỏ. Điều này xảy ra trong 50% người.
NGƯỜI
Hệ tiêu hoá phụ thuộc vào tác động lên các thức chúng ta ăn của các chất được gọi là enzyme (men). Các enzyme này được các cơ quan gắn vào đường tiêu hoá sản xuất ra và chúng chịu trách nhiệm về nhiều phản ứng hoá học có liên quan đến sự tiêu hoá.
Những biến đổi này bắt đầu trong miệng. Khi thức ăn được nhai, các tuyến nước bọt bên dưới lưỡi tăng cường chất tiết và enzyme ptyalin chúng sản xuất ra bắt đầu phân hoá một số carbohydrate thành các phân tử nhỏ hơn có tên là đường maltose và glucose.
BAO TỬ
Thức ăn sau đó đi xuống thực quản và đi vào bao tử, nơi mà sự pha chộn các chất hoá học mới lại bắt đầu, được khởi phát bởi các xung lực thần kinh.
Số lượng chất dịch bao tử đã phóng thích bị chi phối cả ở đây lẫn trong ruột bởi các xung lực thần kinh, sự hiện diện của chính thức ăn và sự tiết các hoócmon.
Hoócmon gastrin kích thích các tế bào bao tử phóng thích hydrochloric acid và pepsin sau khi thức ăn đang ở trong bao tử, để cho thức ăn có thể được phân hoá thành các protein peptone. Sự tiết dịch nhầy ngăn ngừa lớp lót bao tử khỏi bị tổn hại bởi acid. Khi độ chua đạt tới một điểm nào đó, thì sự sản xuất gastrin ngừng lại.trong ruột non
RUỘT NON
Thức ăn rời khỏi bao tử - một lớp chất lỏng chua, hơi sệt được gọi là dịch nuôi – sau đó đi vào tá tràng, phần đầu của ruột non. Tá tràng sản xuất và phóng thích nhiều dịch nhầy, dịch này bảo vệ tá tràng khỏi tổn hại vì acid trong dịch nuôi và các enzyme khác. Tá tràng còn nhận các dịch tiêu hoá của tuỵ tạng và một số mật đáng kể, lượng mật này được gan sản xuất ra lưu trữ trong túi mật cho đến khi được cần đến.
Hai hoócmon gây ra sự phóng thích các dịch tụy. Hoócmon secretin, kích thích sự sản xuất số lượng lớn các dịch kiềm trung hoà acid, một phần dịch nuôi được tiêu hoá. Các enzyme dịch tụy được sản xuất để phản ứng lại sự phóng thích hoócmon thứ hai.
Mật cũng được phóng thích và tá tràng từ túi mật để phân hoá các giọt chất béo.
Các enzyme dịch tụy giúp tiêu hoá các carbohydrate và protein, ngoài ra còn có các chất béo. Các enzyme này bao gồm trysin, nó phá vỡ các peptone thành các đơn vị nhỏ hơn gọi là peptone thành các đơn vị nhỏ hơn gọi là peptide phân các chất béo thành các phân tử glycerol nhỏ hơn và các carbohydrate thành đường maltose.
Thức ăn được tiêu hoá sau đó đi vào không tràng và hồi tràng - phần ruột non xuống thêm chút nữa, nơi mà các giai đoạn biến đổi hoá học cuối cùng xảy ra. Các enzyme được phóng thích từ các tế bào trong những chỗ lõm nhỏ trong các thành không tràng và hồi tràng được gọi là c
ác khe Leiberkihn.
TÚI MẬT
ĐẠI TRÀNG ( HỒI TRÀNG )
Hầu hết sự hút thụ thực phẩm xảy ra trong hồi tràng – nó chứa đựng hàng triệu chồi nhỏ bé gọi là nhung mao trên thành của nó. Mỗi nhung mao có một mao mạch và một nhánh bịt kín nhỏ bé của hệ bạch huyết gọi là ống dẫn dưỡng chất. Khi thực phẩm tiêu hoá tiếp xúc với các nhung mao, glycerol, các acid béo và các vitamin hoà tan đi vào các ống dẫn dưỡng chất, được chuyển vào hệ thống bạch huyết và sau đó chúng được đổ dồn vào trong máu.
Các amino acid từ sự tiêu hoá protein và các chất đường từ carbohydrate, cộng với các vitamin và các chất khoáng quan trọng như là vôi, sắt và íôt được hấp thụ trực tiếp vào các mao mạch trong nhung mao. Các mao mạch này dẫn vào tĩnh mạch của gan, tĩnh mạch này vận chuyển dưỡng chất trực tiếp đến gan. Gan lần lượt lọc ra một số chất để sử dụng cho riêng nó và dự trữ, số còn lại trong các chất này chuyển vào vòng tuần hoàn chung của cơ thể.
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LÁCH
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LÁCH
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LÁCH
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LÁCH
Lách là một trong những bộ lọc máu quan trọng nhất. Các tế bào lưới không những loại bỏ các hồng cầu già cũ, mà chúng còn loại bỏ bất kỳ tế bào khác thường nào. Bộ lọc này đặc biệt có hiệu quả đối với các hồng cầu, nhưng các bạch cầu và tiểu cầu cũng được lách lọc kỹ khi cần thiết.
Lách cũng sẽ loại bỏ các vật thể khác thường lơ lửng trong dòng máu. Vì vậy, nó đóng góp phần quan trọng trong việc tống khứ những vi trùng có hại. Nó còn là phương tiện để sản xuất các kháng thể các protein lưu thông trong máu này trói buộc và giữ chặt một protein là, để cho các bạch cầu được gọi là các thực tế bào có thể tiêu diệt nó. Các tiểu thể Malpighi sản xuất ra kháng thể.
Trong một vài tình huống, lách có một vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất các hồng cầu mới. Điều này không xảy ra ở người trưởng thành bình thường, mà xảy ra ở những người bị bệnh về tuỷ xương, lách và gan là các địa điểm chính sản xuất hồng cầu. Ngoài vấn đề này ra, lách còn sản xuất rất nhiều máu cho bào thai trong lúc nó ở trong tử cung trong suốt thai kỳ.
KHÁM LÁCH
Lách không thể sờ mó được ở những người khoẻ mạnh bình thường, nhưng có rất nhiều bệnh khiến cho lách to lên, vì thế lúc đó có thể khám qua thành bụng. Cách thức rất đơn giản: cho bệnh nhân nằm ngữa, bác sĩ bắt đầu sờ nắm phần dưới bụng và sau đó di chuyển hướng lên trên góc trái. Lách di chuyển khi bệnh nhân hít thở, vì thế bệnh nhận được yêu cầu hít thở sâu để sự chuyển động này có thể được sờ thấy.
Sự lớn lên của lách cũng có thể được phát hiện bằng X - quang hoặc bằng cách sử dụng máy nội soi đồng vị phóng xạ.
SỰ PHÂN HOÁ TINH BỘT
Một trong những nhiệm vụ của hệ tiêu hoá là phân hoá các carbohydraten gốc tinh bột, như là khoai tây và bánh mì, thành các phần tử đường riêng biệt. Quá trình này bắt đầu trong miệng, nơi có một enzyme phân hoá tinh bột (hay men hoá học) được gọi là amylase được pha trộn với thực phẩm nhiều hơn khi nó đi xuống bao tử vào trong ruột.
Amylase phân hoá tinh bột thành các cặp phân tử đường mà sau đó được tách ra bởi hàng loạt enzyme khác trong ruột non, sao cho các phân tử đường riêng biệt để hấp thụ. Cuối cùng các chất đường được đưa chuyển hết đến gan theo dòng máu.
CHỨC NĂNG GAN
Gan biến đổi toàn bộ đường fructose và các hợp chất tương tự khác đường glucose.
Cơ thể có nhiều cơ cấu bảo đảm có một mức đường glucose đầy đủ trong máu để cung cấp cho các nhu cầu của nó. Cơ cấu này phụ thuộc vào sự đóng hay mở sự phóng thích gluycose được tích trữ trong gan.
Glucose được tích trữ như một hợp chất được gọi là glycogen – là một mạng lưới liên kết lỏng lẻo của các phân tử glucose. Glucose còn được lưu trữ trong các cơ.
Ngay khi glucose được phóng thích vào máu, nó được các tế bào hấp thụ.
TUYẾN TUỴ
Để làm được điều này, insulin là yếu tố cần thiết. Insulin, giống như amilase, cũng xuất phát từ tuyến tuỵ, từ các đảo mô đặc biệt được gọi là các tiểu đảo Langerhans. Nhưng, không giống amylase ở chỗ nó được tiết vào máu mà không tiết vào trong ruột.
Khi glucose ở bên trong các tế bào, nó được đốt cùng với oxy để tạo ra năng lượng. Carbon đioxide và nước là các phế phẩm của quá trình này. Carbon dioxide được vận chuyển theo đường máu đến phổi, nơi nó được bài tiết trở vào không khí, trong khi đó nước đơn giản kết hợp với tế bào tạo nên 70% trọng lượng cơ thể.
Cũng như gan tích trữ glucose dưới hình thức glycogen, vì thế năng lượng được tạo ra từ sự đốt glucose tự nó phải được tích trữ trong mỗi tế bào, để được sử dụng dần dần cung cấp năng lượng cho các phản ứng hóa học mà tế bào phụ thuộc. Các tế bào thực hiện điều này bằng cách tạo ra các hợp chất phosphate năng lượng cao để dễ dàng phân hoá và phóng thích năng lượng. Các hợp chất phosphate này giống như từ một bộ pin có thể được sử dụng và nạp điện theo ý muốn để cung cấp số lượng nhỏ năng lượng khi chúng được cần đến. Sự nạp năng lượng lại xuất phát từ sự đốt glucose.
CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG KHẨN CẤP
Khối lượng dự trữ glucogen tạo ra glucose trong cơ thể không nhiều lắm. Thí dụ, nếu chúng cạn kiệt vì sự nhịn đói, thì các nguồn năng lực khác là cần thiết. Cơ thể có hai giải pháp cho vấn đề này. Thứ nhất nó có thể bắt đầu biến đổi protein - hợp chất có cấu trúc quan trọng của cơ thể - thành glucose. Thứ hai, nó có thể bắt đầu đốt mỡ trong các mô thay thế cho glucose. Mỡ cung cấp nguồn năng lượng cũng tốt như glucose, nhưng khi đốt mỡ như vậy chúng lại sản xuất ra thêm các chất thải được gọi là ketone.
KIỂM SOÁT MỨC ĐỘ GLUCOSE
Bởi vì glucose là một nhiên liệu quan trọng nên mức độ của nó trong máu cần được tích luỹ trong những giới hạn khá gõ ràng, nếu chúng ta muốn duy trì sức khoẻ tốt. Một mức độ đường huyết quá cao sẽ sinh ra bệnh đái tháo đường. Nếu mức đường glucose xuống qua thấp, não có thể hoạt động không còn chính xác và dẫn đến bất tỉnh - hiện tượng này gọi là giảm đường huyết (thiếu máu não).
Mức đường huyết trong cơ thể chúng ta được giữ không thay đổi nhờ sự cần bằng insulin (insulin làm giảm đường huyết bằng cách thúc đẩy glucose vào trong các tế bào) cùng với một loạt hoócmon khác, tất cả các hoócmon này có khuynh hướng đẩy đường huyết lên, bằng cách phóng thích glucose từ gan. Quan trọng nhất là hoócmon adrenalin và cortisone, cả hai đều xuất xứ từ tuyến thượng thận. Một hoócmon khác nữa gọi là hoócmon tăng trưởng, xuất phát từ tuyến yên trong não. Hoócmon này cũng có khuynh hướng tăng thêm lượng đường glucose trong máu.
MIỆNG
Miệng con người là một kiểu hang có chứa lưỡi và răng. Nó bị giới hạn bởi đôi môi, trong khi ở nối ra của nó, miệng liên kết với các đường dẫn vào đường tiêu hoá và vào đến phổi. Vì mối quan hệ với hai hệ thống cơ thể quan trọng bậc nhất này, miệng chắc chắn có liên quan với cả sự tiêu hoá lẫn quá trình hô hấp. Ngoài ra, nó còn liên quan đến hoạt động nói.
Chính đôi môi đem lại cho miệng sự biểu hiện của nó. Chúng được tạo nên từ các sợi cơ rải rác có mô đàn hồi và được cung cấp rất nhiều dây thần kinh làm cho đôi môi vô cùng nhạy cảm.
Bao phủ đôi môi là một dạng thay đổi của da, là một kiểu cấu trúc trung gian giữa da thật bao phủ mặt và màng lót bên trong của miệng. Không giống như da thật, da đôi môi không có lông, tuyến mồ hôi hoặc tuyến tiết bã nhờn.
Miệng được lót bằng màng nhầy (niêm mạc), chứa đựng các tuyến sản xuất chất dịch trong hơi dính được gọi là niêm dịch. Sự tiết ra liên tục của các tuyến này giữ cho bên trong miệng thưỡng xuyên ẩm ướt, được giúp đỡ bởi hoạt động của các tuyến nước bọt. Niêm mạc lót trong hai má nhận lãnh mức độ hao mòn rất lớn và có khả năng tái sinh đặc biệt.
Hướng về phía trước miệng, ở phía trên là vòm miệng cứng còn vòm miệng mềm hướng về phía sau. Vòm cứng do đáy xương hàm trên tạo thành, cho phép lưỡi ép vào bề mặt cứng chắc và vì vậy làm cho thức ăn có thể được pha trộn và làm mềm. Độ mềm của vòm cần thiết vì nó có thể di chuyển về phía trên khi thức ăn được nuốt vào và như vậy ngăn chặn thức ăn khỏi bị ép lên đi vào mũi, mà các đường đi vào mũi ở phía sau miệng.
Thòng xuống từ trung tâm của vòm mềm là một miếng mô gọi là lưỡi gà. Chức năng chính xác của nó là một điều bí mật, nhưng một số người cho rằng nó tạo thành một miếng bịt có hiệu quả ở các đường khí khi thức ăn được nuốt vào, và vì vậy ngăn chặn sự nghẽn thở.
LƯỠI
Lưỡi có hình dạng khá giống một hình tam giác - rộng ở đáy, thuôn dài ra và nhọn ở đỉnh, đáy hoặc rễ của nó gắn chặt vào hàm dưới và vào xương móng của xương sọ. Các mép rễ lưỡi được nối vào các thành của hầu, một khoang hình thành phía sau miệng.
Phần giữa của lưỡi có bề mặt trên cong, trong khi đó mặt dưới của nó nối liền với sàn miệng bằng một dải mô mỏng – cái hãm lưỡi. Đầu lưỡi tự do chuyển động nhưng khi một người không ăn hoặc nói chuyện, thì nó thường nằm gọn trong miệng với đầu lưỡi đạt tựa vào răng phía dưới.
Các động tác của lưỡi được quyết định các cơ mà nó được hình thành và đối với cơ mà nó nối và theo cách lưỡi được gắn vào trong miệng.
Bản thân lưỡi có các sợi cơ vừa chạy theo chiều dọc vừa chạy theo chiều ngang và các cơ này có khả năng tạo ra chuyển động nào đó, nhưng các động tác của lưỡi được coi là rất linh hoạt do sự co bóp của nhiều cơ có vị trí trong cổ và bên trong hàm. Thí dụ, cơ trâm thiệt trong cổ, có nhiệm vụ đưa lưỡi lên trên và về phía sau, trong khi cơ móng lưỡi, cũng ở trong cổ, đưa lưỡi hạ xuống vào lại vị trí nghỉ bình thường.
Trong khi đang ăn, một trong những công việc chính của lưỡi là đưa thức ăn đến răng để nhai và năn thức ăn đã mềm thành viên tròn sẵn sàng để nuốt. Các động tác này được thực hiện bằng hàng loạt chuyển động cong lên cong xuống. Khi nhiệm vụ vừa hoàn thành (hoặc ngay khi người ăn nuốt thức ăn) lưỡi đẩy viên thức ăn vào hầu ở phía sau miệng, từ đó thức ăn đi vào thực quản và được nuốt vào bao tử.
CÁC TUYẾN NƯỚC BỌT
Mỗi ngày tất cả chúng ta thường sản xuất khoảng 1,7 lít nước bọt - một chất tiết giống như nước gồm có chất nhầy và chất dịch. Nó có chứa enzyme ptyalin giúp tiêu hoá chất được gọi là lyozyme có vai trò của một chất diệt khuẩn giúp bảo vệ miêng khỏi bị vi trùng. Vì vậy nước bọt là một chất sat khuẩn nhẹ.
Nước bọt được ba đôi tuyến có vị trí trong mặt và cổ sản xuất: đôi tuyến mang tai, đôi tuyến dưới hàm và đôi tuyến dưới lưỡi. Ngoài ra còn có nhiều tuyến nhỏ hơn nằm rải rác quanh miệng. Mỗi tuyến nước bọt được cấu tạo bởi các ống phân nhánh, được sắp xếp chung với nhau và lót bằng các tế bào phân tiết. Chức năng của các tế bào phân tiết thay đổi giữa các tuyến và các chất dịch chúng tiết ra cũng khác nhau.
Tuyến mang tai là tuyến lớn nhất trong các tuyến nước bọt và vị trí ở cổ, nằm tại góc hàm và kéo dài lên ngang xương má ngay phía trước tai. Nước bọt của tuyến mang tai chảy vào má từ các ống dẫn chạy tới từ chính các tuyến. So với các tuyến nước bọt khác, tuyến mang tai sản xuất một chất tiết giống như nước và có chứa một số lượng ptyalin tăng lên - một enzyme để tiêu hoá tinh bột.
Mặc dù các tuyến mang tai là tuyến nước bọt lớn nhất nhưng chúng chỉ sản xuất khoảng một phần tư tổng số lượng nước bọt. Các tuyến dưới hàm, đúng như tên nó, nằm ở dưới hàm bên dưới các răng sau và các tuyến dưới lưỡi. Các tuyến dưới lưỡi chủ yếu là tuyến ra các tuyến nước bọt đầy dịch chứa ptyalin và tuyến này tạo nên phần lớn hơn trong tổng số lượng nước bọt được tiết ra trong miệng suốt bất kỳ thời gian nào.
VAI TRÒ CỦA NƯỚC BỌT
Chức năng quan trọng của nước bọt là giúp đỡ trong quá trình tiêu hoá. Nó giữ cho miệng ẩm ướt và thoải mái khi chúng ta ăn và giúp làm ướt thức ăn khô cho phép nó được nhai và nuốt dễ dàng hơn. Dịch nhầy trong nước bọt tẩm viêm thức ăn và có tác dụng như một chất làm trơn giúp chúng ta nuốt.
Enzyme ptyalin được tiết ra trong nước bọt bắt đầu giai đoạn đầu của sự tiêu hoá. Nó bắt đầu phân huỷ thức ăn có tinh bột thành các chất đường đơn giản hơn, nhưng tác động của nó bị ngưng lại vì acid trong bao tử. Tuy nhiên, nếu các viêm thức ăn đủ lớn và được nhai kỹ thì acid không thể thấm vào trung tâm trong khoảng thời gian nào đó và sự phân huỷ tinh bột được tiếp tục.
Nước bọt cũng cho phép chúng ta thưởng thức thức ăn và thức uống. Cảm giác về vị được tạo ra nhờ nhiều ngàn chồi vị giác mà chủ yếu nằm ở các niêm mạc lưỡi.
Tuy nhiên, các chồi vị giác nàychỉ có thể phản ứng với chất lỏng và thức ăn cứng trpng miệng khô sẽ tạo ra cảm giác về vị nào cả: đó là điều quan trọng cho nước bọt hoà tan trước một số thức ăn. Chất dịch này có chứa các dịch thức ăn, lúc đó có thể chảy qua các chồi vị giác mà về hoá học được kích thích để chuyển các thông tin đến não giải mã mùi vị của thức ăn.
Nước bọt được sản xuất liên tục suốt ngày đêm với một tốc độ chậm: số lượng được kiểm soát bởi hệ thần kinh tự trị - hệ thần kinh kiểm soát tất cả hoạt động không ý thức củachúng ta. Nhưng tại những thời điểm khác nhau, tốc độ tiết nước bọt bị thay đổi do sự kích thích thần kinh.Sự kích thích của hệ thần kinh giao cảm làm giảm lưu lượng nước bọt, điều này được thấy rõ do miệng chúng ta bị khô khi chúng ta lo lắng, sự nói có thể trở nên khó khăn vì môi và lưỡi chúng ta không được trơn đủ để chuyển động tự do. mặt khác,sự tiết nước bọt tăng lên là một hoạt động phản xạ đượ hệ thần kinh phó giao cảm truyền đến: Các dây thần kinh mang cảm giác về vị đến não kích thích sự chảy nước bọt khi thức ăn đang ở trong miệng. Điều này được biết đến như một phản xạ bẩm sinh, nhưng sự chảy nươc bọt gia tăng cũng có thể được tạo ra do chỉ là ý nghĩ về thức ăn.Vì vậy chỉ cần nhìn vào thức ăn cũng có thể làm cho miệng các bạn đầy nước là đúng và điều này gọi là phản xạ có đ/kiện.
RĂNG
Răng có cấu trúc giống như xương cứng được cắm chặt vào các hốc răng của hàm. Hai hàm răng lần lượt xuất hiện trong cả cuộc đời.
Mỗi răng gồm có hai phần: thân răng đó là phần có thể nhìn thấy bên trong miệng và chân răng là phần được cắm bên trong xương hàm. Chân răng thường dài hơn thân răng. Răng cửa chỉ có một chân, trong khi các răng mọc xa về phía sau thường có hai hoặc ba chân.
Nguyên tố cấu trúc quan trọng nhất của răng gồm có mô đã vôi hoá được gọi là ngà răng. Ngà răng là một chất liệu giống như xương cứng có chứa các tế bào sống. Nó là một mô nhảy cảm và gây ra cảm giác đau khi bị kích thích bằng nhiệt hoặc bằng hoá chất. Ngà của chân răng được một lớp men bảo vệ bao bọc, lớp men này là một mô tế bào tự do rất cứng và không cảm giác. Chân răng được bao bọc bằng một lớp xương răng, một chất hơi tương tự với ngà răng giúp giữ chặt răng trong hốc răng.
Giữa răng có hình dạng một hốc rỗng chứa đầy mô liên kết nhạy cảm được gọi là tuỷ răng. Tuỷ này kéo dài từ bên trong thân răng thẳng xuống đến cuối chân răng. Chân răng có lỗ mơơr phần sâu nhất trong xương hàm. Qua lỗ mở này, các mạch máu và dây thần kinh nhỏ bé chạy vào hốc tuỷ răng.
SỰ NÂNG ĐỠ RĂNG
Mỗi răng đều có chân được dính chặt vào xương hàm; phần hàm nâng đỡ răng được gọi là mỏm ổ răng. Tuy nhiên, phương thức gắn vào phức tạp và các răng được dính chặt vào hàm nhờ các sợi được gọi là dây chằng nha chu. Ở đây gồm có một loạt sợi collagen cứng, chạy từ xương răng bao bọc chân răng đến sát bên xương ổ răng. Các sợi này nằm rải rác với các mô liên kết, trong mô liên kết cũng có chứa các mạch máu và sợi thần kinh.
Cách thức gắn răng đưa đến một mức độ chuyển động tự nhiên rất nhỏ. Điều này có tác dụng như một loại giảm xóc có thể bảo vệ răng và xương khỏi bị tổn hại khi cắn.
Khu vực quan trọng chủ yếu trong hệ thống này là ở cổ răng, nơi tiếp giáp giữa thân và chân răng. ở vùng này nứu răng thắt chặt vào răng có tác dụng bảo vệ các mô nâng đỡ nằm dưới khỏi bị nhiễm trùng và các ảnh hưởng có hại khác
CÁC LOẠI RĂNG
Răng người có hai đợt. Răng sữa là những chiếc răng xuất hiện trong thời thơ ấu và thường thường tất cả đều rụng. Răng sữa có thể được chia thành ba loại: răng cửa, răng nanh và răng hàm. Răng vĩnh viễn là những chiếc răng thay thế và còn dàn rộng ra đợt răng ban đầu. Các răng này có thể được chia thành các loại tương tự như các loại răng sữa và ngoài ra có thêm một loại răng nữa được gọi là răng tiềm hàm, chúng ta trung gian về hình thức lẫn vị trí giữa răng nanh và răng hàm.
Đặc điểm của răng cửa là có mép rạch giống như phiến đá hẹp và các răng cửa ở hai hàm đối diện hoạt động bằng cách cắt qua nhau như hai lưỡi kéo. Răng nanh và các răng nhọn là nhưng răng thích ứng tốt cho hoạt động xé, trong khi các răng hàm và tiền hàm có tác dụng nghiền thức ăn hơn là cắt nó.
Các răng tạo thành một vành cung vòng ovan đều đặn với răng cửa ở phía trước và các răng hàm có vị trí lùi dần về phía sau. Hai hàm răng bình thường vừa khít nhau để cho khi cắn các răng đối diện sẽ khớp với nhau.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA RĂNG
Dấu hiệu đầu tiên về sự phát triển của răng xuất hiện khi bào thai chỉ sáu tuần tuổi. Ở giai đoạn này các giai đoạn các tế bào mô của miệng nguyên thuỷ tăng lên về số lượng và hình thành một băng dầy có hình dáng của hàm răng. Tại một chuỗi các điểm tương ứng với răng riêng rẽ, băng này tạo ra các điểm mọc vào trong như chồi trong mô mà biểu mô bao phủ. Sau đó các chồi này trở thành hình chuông và dần dần tạo lên để tạo ra hình dạng nối liền sau giữa men răng và ngà răng. Một số tế bào nào đó sau khi tiếp tục hình thành ngà răng, trong khi đó các tế bào khác tạo thành ngà răng.
Các rìa chuông tiếp tục phát triển sâu hơn và cuối cùng các chân răng trọn vẹn hình thành, nhưng quá trình này không hoàn thành cho đến khoảng một năm sau khi các răng sữa đã xuất hiện. Lúc mới sinh dấu hiệu duy nhất của khớp cắn được cung cấp bằng các đệm nướu chúng là các băng làm dày của mô nướu. Khoảng sáu tháng tuổi răng cửa dưới bắt đầu nhú qua nướu, một quá trình được gọi là sự mọc răng. Tuổi mọc răng có thể thay đổi: có một ít số em bé mọc răng lúc mới sinh, trong khí đó có em bé đến một tuổi mới mọc răng.
Sau khi các răng cửa dưới xuất hiện, các răng cửa dưới bắt đầu mọc và tiếp theo là các răng nanh và răng hàm, tuy vậy sự chính xác có thể thay đổi. Những vấn đề mọc răng có thể được kết gợp với bất kỳ răng nào trong số các răng sữa.
KHoảng hai tuổi rữa đến ba tuổi, đứa trẻ thường có một bộ đâyd đủ 20 chiếc răng sữa. Chúng sẽ được đặt cách nhau một cách lý tưởng để cung cấp các răng lớn hơn.
Sau đó sau sáu tuổi, các răng cửa sữa trên và dưới trở nên lung lay và được thay thế bởi các răng vĩnh viễn. Các răng hàm vĩnh viễn phát triển không đúng vị trí của răng hàm sữa mà ở phía sau chúng. Các răng hàm vĩnh viễn đầu tiên phát hiện lúc 6 tuổi, răng hàm thứ 2 lúc 12 tuổi và răng hàm thứ 3 hay còn gọi là răng khôn khoảng 18 tuổi. Tuy nhiên có sự thay đổi đáng kể về thời gian xuất hiện của tất cả các răng khôn hoặc nhiều hơn. Lý do của vấn đề này là do tiến hoá: khi hàm trở nên nhỏ hơn thì số hàm trở nên nhỏ bé thì số răng giảm đi. Một số răng khôn có thể không bao giờ mọc qua nướu và nếu chúng bj lèn chặt chúng có thể cần được nhổ bỏ. Điều này xảy ra trong 50% người.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Ong Thuc Dao
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)