Giới trong y tế
Chia sẻ bởi Mai Thuy Phong |
Ngày 21/10/2018 |
24
Chia sẻ tài liệu: giới trong y tế thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
VẤN ĐỀ GIỚI TRONG Y TẾ
Nhóm 3
Nguyễn Thị Huyền
Nguyễn Thị Huyền Trân
Nguyễn Thị Thu Thủy
Nội dung
Một số vấn đề về tiếp cận với y tế ở hai giới
II. Vấn đề sức khỏe sinh sản và sử dụng biện pháp tránh thai
III. Vấn đề đáng quan tâm: HIV/AIDS.
Tuổi thọ Trung bình, tỷ lệ tử vong mẹ của VN so với một số nước
Tuổi thọ TB của phụ nữ cao hơn, tỷ lệ tử vong mẹ thấp hơn.
Cơ hội tiếp cận y tế của nam và nữ của nước ta ngày càng tăng
Một số vấn đề về tiếp cận với y tế ở hai giới
+ Y tế nhà nước:
Có hệ thống trung tâm bảo vệ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình.
Hầu hết các xã có trạm y tế (4 nhân viên/trạm)
Trên 30% số TYT có bác sĩ và 82% số TYT có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi.
(Nguồn: Báo cáo “ tóm tắt tình hình thế giới”)
=> Đã có đầu tư về cơ sở y tế trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ
+Y tế tư nhân
Sự phát triển của y tế tư nhân góp phần tăng thêm dịch vụ khám chữa bệnh cho phụ nữ và nam giới.
Ví dụ:
Có nhiều nhà thuốc tư nhân khám và bán thuốc chữa bệnh ngay cả ở những vùng nông thôn)
=> Cả 2 giới có mức độ tự mua thuốc chữa bệnh hơn đến khám chữa bệnh và mua thuốc theo chỉ định của bác sĩ
=>Tuy nhiên, dịch vụ y tế tư nhân mang tính chất cao(giá thành)
-> chỉ người có điều kiện KT tiếp cận.
Một số vấn đề
Nam giới và phụ nữ có những vấn đề sức khỏe khác nhau:
VD: Tỉ lệ nữ ốm đau cao hơn nhiều so với nam(%)
( Nguồn :Báo cáo “Khác biệt giới trong nền kt chuyển đổi ở VN”)
=> Nhưng: phụ nữ lại sớm quay trở lại làm việc hơn nam giới sau khi bị ốm => ??
Mức độ sử dụng dịch vụ y tế(%)
Phụ nữ sử dụng dịch vụ y tế nhiều hơn nam.
Sức khỏe của phụ nữ thường yếu hơn nam. Trong khi đó phụ nữ phải đảm đương số lượng công việc nhiều hơn nam giới, đặc biệt là ở nông thôn=> bất bình đẳng ?
(Ví dụ: Trong lĩnh vực hoạt động nông nghiệp: 1989 - phụ nữ: 60%, 1999 – phụ nữ: 54%( Tổng điều tra dân số 1999)
( Nguồn :Báo cáo “Khác biệt giới trong nền kt chuyển đổi ở VN”)
Tiếp cận dịch vụ y tế (%) ( Nguồn :Báo cáo “Khác biệt giới trong nền kt chuyển đổi ở VN”)
Trình độ học vấn của bà mẹ có ảnh hưởng đến:
Trình độ học vấn của bà mẹ có ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ y tế cho con.
=> Phải chăng trẻ em trai được coi trọng nhiều hơn trẻ em gái.(TT)
Mục tiêu các hoạt động can thiệp về y tế thường là phụ nữ và các bà mẹ hơn là nam giới và những người cha
Gánh nặng gia tăng cho phụ nữ.
Ví dụ: về vấn đề tuyên truyền dinh dưỡng:
Các chương trình đưa ra tập trung riêng biệt giới( nhất là phụ nữ)=> quy gán đây chỉ là việc của phụ nữ
tuyên truyền
III.Sức khỏe sinh sản và sử dụng biện pháp tránh thai
Thành tựu đạt được:
- Tỷ lệ tử vong do tai biến giảm.
- Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai cũng tăng (55,9% các cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại)
Dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe sinh sản
ngày càng nhiều và hiệu quả
- Ở thành thị và nông thôn việc sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại cao hơn hẳn => nếu 1 trong 2 đứa con đầu lòng là con trai
Ở vùng sâu, xa, miền núi:
Tỷ lệ tử vong mẹ do tai biến thai sản và tỷ lệ tử vong khi sinh con cao.
Chủ yếu dùng vòng tránh thai do yếu tố giá thành => phụ nữ bị các bệnh phụ khoa, viêm nhiễm.
Việc tuyên truyền KHGĐ, SKSS hầu như tập trung cho nữ giới.
ví dụ: tuyên truyền KHHGĐ chủ yếu cho nữ
Hạn chế:
- tỷ lệ dùng BCS : 6%
- tỷ lệ đặt vòng tránh thai.NT:73%, TT:61%
- vẫn còn việc tránh thai truyền thống
Điều kiện sinh con theo dân tộc của bà mẹ.
Việc tiếp cận các dịch vụ y tế chăm sóc tiền sản ở phụ nữ gặp khó khăn đối với phụ nữ là dân tộc thiểu số.
Quyền quyết định trong việc sử dụng biện pháp tránh thai
=> Phụ nữ phải chịu trách nhiệm về việc tránh thai trong khi đó đàn ông lại cố gắng kiểm soát biện pháp KHHGĐ.
+ Nguyên nhân: Phụ nữ có địa vị thấp và mong muốn có con trai nên tiếp tục sinh đẻ.
III.HIV/AIDS
Dịch HIV/AIDS lan nhanh ở các nước mà:
địa vị phụ nữ thấp, không có quyền kiểm soát về QHTD an toàn
Đàn ông QHTD ngoài hôn nhân phổ biến.
PN bị buộc trao đổi tình dục vì tiền, vì sự thăng tiến
Một số vấn đề:
Tỷ lệ nhiễm HIV của Bộ Y tế 2002(%)
=>Tỷ lệ phụ nữ mắc HIV ở Việt Nam thấp hơn nam đến hơn 5 lần.
Nhưng có bằng chứng( UBQGVSTBCPN,2000): PN bị HIV bị phân biệt đối xử đặc biệt hơn nam giới. Vì tình trạng nhiễm bệnh bị gán là hành vi tình dục và “lầm lỡ” => bất bình đẳng?
Phụ nữ dế bị tổn thương vì nam giới ngại dùng bao cao su và họ yếu thế hơn trong quyết định tình dục của bản thân cũng như thương lượng về tình dục an toàn
Vấn đề quan hệ đồng giới: chủ yếu với người đã có gia đình nhưng không sử dụng BCS
=> Nguy cơ nhiễm bệnh của những người vợ( phụ nữ bị thiệt thòi)
Kết luận
Ngành y tế của nước ta đang có những bước tiến trong chăm sóc sức khỏe cũng như skss cho cả 2 giới.
Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề nóng đáng quan tâm và đó dường như đó là biểu hiện của bất bình đẳng giới như:
-Các chính sách y tế còn đặt lên vai người phụ nữ
-Nam giới kiểm soát các biện pháp tránh thai, bên cạnh đó phụ nữ dễ gặp rui ro như nhiễm trùng, HIV/AIDS.
Nhóm 3
Nguyễn Thị Huyền
Nguyễn Thị Huyền Trân
Nguyễn Thị Thu Thủy
Nội dung
Một số vấn đề về tiếp cận với y tế ở hai giới
II. Vấn đề sức khỏe sinh sản và sử dụng biện pháp tránh thai
III. Vấn đề đáng quan tâm: HIV/AIDS.
Tuổi thọ Trung bình, tỷ lệ tử vong mẹ của VN so với một số nước
Tuổi thọ TB của phụ nữ cao hơn, tỷ lệ tử vong mẹ thấp hơn.
Cơ hội tiếp cận y tế của nam và nữ của nước ta ngày càng tăng
Một số vấn đề về tiếp cận với y tế ở hai giới
+ Y tế nhà nước:
Có hệ thống trung tâm bảo vệ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình.
Hầu hết các xã có trạm y tế (4 nhân viên/trạm)
Trên 30% số TYT có bác sĩ và 82% số TYT có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi.
(Nguồn: Báo cáo “ tóm tắt tình hình thế giới”)
=> Đã có đầu tư về cơ sở y tế trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ
+Y tế tư nhân
Sự phát triển của y tế tư nhân góp phần tăng thêm dịch vụ khám chữa bệnh cho phụ nữ và nam giới.
Ví dụ:
Có nhiều nhà thuốc tư nhân khám và bán thuốc chữa bệnh ngay cả ở những vùng nông thôn)
=> Cả 2 giới có mức độ tự mua thuốc chữa bệnh hơn đến khám chữa bệnh và mua thuốc theo chỉ định của bác sĩ
=>Tuy nhiên, dịch vụ y tế tư nhân mang tính chất cao(giá thành)
-> chỉ người có điều kiện KT tiếp cận.
Một số vấn đề
Nam giới và phụ nữ có những vấn đề sức khỏe khác nhau:
VD: Tỉ lệ nữ ốm đau cao hơn nhiều so với nam(%)
( Nguồn :Báo cáo “Khác biệt giới trong nền kt chuyển đổi ở VN”)
=> Nhưng: phụ nữ lại sớm quay trở lại làm việc hơn nam giới sau khi bị ốm => ??
Mức độ sử dụng dịch vụ y tế(%)
Phụ nữ sử dụng dịch vụ y tế nhiều hơn nam.
Sức khỏe của phụ nữ thường yếu hơn nam. Trong khi đó phụ nữ phải đảm đương số lượng công việc nhiều hơn nam giới, đặc biệt là ở nông thôn=> bất bình đẳng ?
(Ví dụ: Trong lĩnh vực hoạt động nông nghiệp: 1989 - phụ nữ: 60%, 1999 – phụ nữ: 54%( Tổng điều tra dân số 1999)
( Nguồn :Báo cáo “Khác biệt giới trong nền kt chuyển đổi ở VN”)
Tiếp cận dịch vụ y tế (%) ( Nguồn :Báo cáo “Khác biệt giới trong nền kt chuyển đổi ở VN”)
Trình độ học vấn của bà mẹ có ảnh hưởng đến:
Trình độ học vấn của bà mẹ có ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ y tế cho con.
=> Phải chăng trẻ em trai được coi trọng nhiều hơn trẻ em gái.(TT)
Mục tiêu các hoạt động can thiệp về y tế thường là phụ nữ và các bà mẹ hơn là nam giới và những người cha
Gánh nặng gia tăng cho phụ nữ.
Ví dụ: về vấn đề tuyên truyền dinh dưỡng:
Các chương trình đưa ra tập trung riêng biệt giới( nhất là phụ nữ)=> quy gán đây chỉ là việc của phụ nữ
tuyên truyền
III.Sức khỏe sinh sản và sử dụng biện pháp tránh thai
Thành tựu đạt được:
- Tỷ lệ tử vong do tai biến giảm.
- Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai cũng tăng (55,9% các cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại)
Dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe sinh sản
ngày càng nhiều và hiệu quả
- Ở thành thị và nông thôn việc sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại cao hơn hẳn => nếu 1 trong 2 đứa con đầu lòng là con trai
Ở vùng sâu, xa, miền núi:
Tỷ lệ tử vong mẹ do tai biến thai sản và tỷ lệ tử vong khi sinh con cao.
Chủ yếu dùng vòng tránh thai do yếu tố giá thành => phụ nữ bị các bệnh phụ khoa, viêm nhiễm.
Việc tuyên truyền KHGĐ, SKSS hầu như tập trung cho nữ giới.
ví dụ: tuyên truyền KHHGĐ chủ yếu cho nữ
Hạn chế:
- tỷ lệ dùng BCS : 6%
- tỷ lệ đặt vòng tránh thai.NT:73%, TT:61%
- vẫn còn việc tránh thai truyền thống
Điều kiện sinh con theo dân tộc của bà mẹ.
Việc tiếp cận các dịch vụ y tế chăm sóc tiền sản ở phụ nữ gặp khó khăn đối với phụ nữ là dân tộc thiểu số.
Quyền quyết định trong việc sử dụng biện pháp tránh thai
=> Phụ nữ phải chịu trách nhiệm về việc tránh thai trong khi đó đàn ông lại cố gắng kiểm soát biện pháp KHHGĐ.
+ Nguyên nhân: Phụ nữ có địa vị thấp và mong muốn có con trai nên tiếp tục sinh đẻ.
III.HIV/AIDS
Dịch HIV/AIDS lan nhanh ở các nước mà:
địa vị phụ nữ thấp, không có quyền kiểm soát về QHTD an toàn
Đàn ông QHTD ngoài hôn nhân phổ biến.
PN bị buộc trao đổi tình dục vì tiền, vì sự thăng tiến
Một số vấn đề:
Tỷ lệ nhiễm HIV của Bộ Y tế 2002(%)
=>Tỷ lệ phụ nữ mắc HIV ở Việt Nam thấp hơn nam đến hơn 5 lần.
Nhưng có bằng chứng( UBQGVSTBCPN,2000): PN bị HIV bị phân biệt đối xử đặc biệt hơn nam giới. Vì tình trạng nhiễm bệnh bị gán là hành vi tình dục và “lầm lỡ” => bất bình đẳng?
Phụ nữ dế bị tổn thương vì nam giới ngại dùng bao cao su và họ yếu thế hơn trong quyết định tình dục của bản thân cũng như thương lượng về tình dục an toàn
Vấn đề quan hệ đồng giới: chủ yếu với người đã có gia đình nhưng không sử dụng BCS
=> Nguy cơ nhiễm bệnh của những người vợ( phụ nữ bị thiệt thòi)
Kết luận
Ngành y tế của nước ta đang có những bước tiến trong chăm sóc sức khỏe cũng như skss cho cả 2 giới.
Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề nóng đáng quan tâm và đó dường như đó là biểu hiện của bất bình đẳng giới như:
-Các chính sách y tế còn đặt lên vai người phụ nữ
-Nam giới kiểm soát các biện pháp tránh thai, bên cạnh đó phụ nữ dễ gặp rui ro như nhiễm trùng, HIV/AIDS.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Mai Thuy Phong
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)