GD CD: Lịch sử phong trào cộng sản
Chia sẻ bởi Trần Việt Thao |
Ngày 11/05/2019 |
104
Chia sẻ tài liệu: GD CD: Lịch sử phong trào cộng sản thuộc Giáo dục đặc biệt
Nội dung tài liệu:
CÂU 1: (Sự ra đời của chủ nghĩa Mác và tuyên ngôn của Đảng cộng sản .) Khi nói về ý nghĩa sự ra đời của chủ nghĩa Mác, Lênin viết: “có thể vắn tắt nêu công lao của Mác và Aênghen đối với giai cấp công nhân như sau: hai ông đã dạy cho giai cấp công nhân tự nhận thức được mình và có ý thức về mình và đã đem khoa học thay thế cho mộng tưởng.” (Lênin toàn tập, tập2, NXB Tiến Bộ Matxcova, 1974, trang 5). Đồng chí hãy làm rõ sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
Bài làm:
Vào nửa thế kỷ 19, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chiếm vị trí thống trị, giai cấp tư bản đã giành được quyền thống trị xã hội. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bên cạnh những mặt tích cực của nó, nó cũng thể hiện rõ bản chất áp bức, bóc lột, bất công, người bóc lột người. Cùng với sự thống trị của giai cấp tư sản là sự xuất hiện của đội ngũ giai cấp vô sản, đây là giai cấp không có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề. Từ đó đã làm nảy sinh mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn đó là cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã trải qua nhiều giai đoạn, nhưng ở thời kỳ đầu phong trào vô sản còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức. Hình thức đấu tranh cơ bản lúc này là đấu tranh kinh tế mang tính chất bạo động tự phát (nổi loạn). Giai cấp vô sản chưa hiểu được nguyên nhân chủ yếu của địa vị thống khổ của mình, nguyên nhân lúc đó là do chưa có một học thuyết khoa học cách mạng dẫn đường. Mặc dù, trước Mác cũng đã xuất hiện một số nhà tư tưởng tiến bộ như: Xanh xi mông, Phu ri ê, Ô oen… Họ nhìn thấy và phê phán sự bóc lột bất công của xã hội tư bản, tất cả họ đều muốn thay đổi xã hội chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp hơn. Nhưng họ chưa đưa ra được một phương pháp cách mạng, chưa đưa ra đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để lật đổ chủ nghĩa tư bản. Chính vì lẽ đó các nhà tư tưởng trước Mác chỉ dừng lại ở chỗ không tưởng.
Khi các nước tư bản đã phát triển, tạo điều kiện cho chủ nghĩa Mác ra đời. Thông qua những cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp vô sản, chứng tỏ giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị, thông qua đấu tranh, họ tập hợp lực lượng ngày càng to lớn. Đồng thời, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản xuất hiện mâu thuẫn đối kháng, xuất hiện những lý luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng, về kinh tế, về triết học để giải thích những mâu thuẫn đó. Xuất hiện những tiến bộ trong khoa học tự nhiên như: học thuyết về tế bào, định luật bảo toàn năng lượng, học thuyết tiến hoá luận… Những yếu tố trên đặt ra trong lịch sử phải có một thứ lý luận mới dẫn đường, chính Mác đáp ứng được đòi hỏi đó. Do đó khi nói về ý nghĩa sự ra đời của chủ nghĩa Mác, Lênin viết: “có thể vắn tắt nêu công lao của Mác và Aênghen đối với giai cấp công nhân như sau: hai ông đã dạy cho giai cấp công nhân tự nhận thức được mình và có ý thức về mình và đã đem khoa học thay thế cho mộng tưởng.”
Các Mác (1818-1883) và Ănghen (1820-1895), hai ông đều là người Đức, là hai nhà bác học thống nhất quan điểm, là chiến sĩ cách mạng trong phong trào công nhân. Năm 1844, hai ông gặp nhau ở Paris và bắt đầu cùng làm việc, theo Lênin nói: “sự nghiệp đấu tranh của hai ông gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản”.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác không phải là một sự sáng tạo ngẫu nhiên mang yếu tố chủ quan, mà sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác là sản phẩm tất yếu của những điều kiện kinh tế-xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ 19, đó là những tiền đề mang tính khách quan như:
-Tiền đề về kinh tế-xã hội quyết định sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự trưởng thành của giai cấp công nhân:
Vào những năm 40 của thế kỷ 19, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chiếm ưu thế tuyệt đối, nền công nghiệp ở nhiều nước tư bản đã phát triển mạnh, chủ nghĩa tư bản đã bóc lột bản chất
Bài làm:
Vào nửa thế kỷ 19, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chiếm vị trí thống trị, giai cấp tư bản đã giành được quyền thống trị xã hội. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bên cạnh những mặt tích cực của nó, nó cũng thể hiện rõ bản chất áp bức, bóc lột, bất công, người bóc lột người. Cùng với sự thống trị của giai cấp tư sản là sự xuất hiện của đội ngũ giai cấp vô sản, đây là giai cấp không có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề. Từ đó đã làm nảy sinh mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn đó là cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã trải qua nhiều giai đoạn, nhưng ở thời kỳ đầu phong trào vô sản còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức. Hình thức đấu tranh cơ bản lúc này là đấu tranh kinh tế mang tính chất bạo động tự phát (nổi loạn). Giai cấp vô sản chưa hiểu được nguyên nhân chủ yếu của địa vị thống khổ của mình, nguyên nhân lúc đó là do chưa có một học thuyết khoa học cách mạng dẫn đường. Mặc dù, trước Mác cũng đã xuất hiện một số nhà tư tưởng tiến bộ như: Xanh xi mông, Phu ri ê, Ô oen… Họ nhìn thấy và phê phán sự bóc lột bất công của xã hội tư bản, tất cả họ đều muốn thay đổi xã hội chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp hơn. Nhưng họ chưa đưa ra được một phương pháp cách mạng, chưa đưa ra đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để lật đổ chủ nghĩa tư bản. Chính vì lẽ đó các nhà tư tưởng trước Mác chỉ dừng lại ở chỗ không tưởng.
Khi các nước tư bản đã phát triển, tạo điều kiện cho chủ nghĩa Mác ra đời. Thông qua những cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp vô sản, chứng tỏ giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị, thông qua đấu tranh, họ tập hợp lực lượng ngày càng to lớn. Đồng thời, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản xuất hiện mâu thuẫn đối kháng, xuất hiện những lý luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng, về kinh tế, về triết học để giải thích những mâu thuẫn đó. Xuất hiện những tiến bộ trong khoa học tự nhiên như: học thuyết về tế bào, định luật bảo toàn năng lượng, học thuyết tiến hoá luận… Những yếu tố trên đặt ra trong lịch sử phải có một thứ lý luận mới dẫn đường, chính Mác đáp ứng được đòi hỏi đó. Do đó khi nói về ý nghĩa sự ra đời của chủ nghĩa Mác, Lênin viết: “có thể vắn tắt nêu công lao của Mác và Aênghen đối với giai cấp công nhân như sau: hai ông đã dạy cho giai cấp công nhân tự nhận thức được mình và có ý thức về mình và đã đem khoa học thay thế cho mộng tưởng.”
Các Mác (1818-1883) và Ănghen (1820-1895), hai ông đều là người Đức, là hai nhà bác học thống nhất quan điểm, là chiến sĩ cách mạng trong phong trào công nhân. Năm 1844, hai ông gặp nhau ở Paris và bắt đầu cùng làm việc, theo Lênin nói: “sự nghiệp đấu tranh của hai ông gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản”.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác không phải là một sự sáng tạo ngẫu nhiên mang yếu tố chủ quan, mà sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác là sản phẩm tất yếu của những điều kiện kinh tế-xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ 19, đó là những tiền đề mang tính khách quan như:
-Tiền đề về kinh tế-xã hội quyết định sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự trưởng thành của giai cấp công nhân:
Vào những năm 40 của thế kỷ 19, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chiếm ưu thế tuyệt đối, nền công nghiệp ở nhiều nước tư bản đã phát triển mạnh, chủ nghĩa tư bản đã bóc lột bản chất
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Việt Thao
Dung lượng: |
Lượt tài: 3
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)