GD CD: Dân số( gồm nhiều file)
Chia sẻ bởi Trần Việt Thao |
Ngày 11/05/2019 |
97
Chia sẻ tài liệu: GD CD: Dân số( gồm nhiều file) thuộc Giáo dục đặc biệt
Nội dung tài liệu:
Câu 1: Anh chị hãy trình bày quá trình biến động của dân số.
Dân số học nghiên cứu quy mô, cơ cấu, phân bố và các dạng biến động dân cư trên một vùng, một lãnh thổ hay một quốc gia.
Dân số luôn biến động về qui mô, cơ cấu với tốc độ khác nhau. Có hai hình thức là biến động tự nhiên và biến động cơ học. Trên phạm vi toàn thế giới và trong từng quốc gia hiện nay chủ yếu là biến động dân số tự nhiên, đó là hiệu số giữa mức sinh và mức chết. Do vậy, để tìm hiểu quá trình biến động dân số ta phải tìm hiểu mức sinh và mức chết là chính.
1/ Biến động dân số tự nhiên.
*Mức sinh. Là số con sinh ra còn sống của một phụ nữ hay một nhóm dân cư nào đó. Đứa trẻ sinh ra khỏi cơ thể người mẹ mà còn có dấu hiệu của sự sống gọi là sinh sống và được tính vào mức sinh.
Mức sinh thay thế là mức sinh mà một nhóm, một cộng đồng người có đủ số con để thay thế mình trong dân số. Đạt được mức sinh thay thế thì sau một thời gian mức sinh sẽ bằng mức chết và nếu không có nhập cư và xuất cư thì dân số sẽ trở thành số cố định.
Mức sinh chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như yếu tố tự nhiên sinh vật, yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội… có thể chia thành hai nhóm yếu tố chủ yếu.
Nhóm các yếu tố sinh học tự nhiên tùy thuộc kả năng vô sinh của người phụ nữ như tuổi nhỏ, tuổi mãn kinh và khoảng cách giữa hai lần sinh.
Mọi sinh vật đều phải tuân theo quy luật tự nhiên, đều phải trải qua các giai đoạn sinh, trưởng thành, phát triển và diệt vong. Con người cũng như vậy, khả năng sinh sản chỉ có một nhóm tuổi nhất định. Vì thế, vùng nào có dân số trong độ tuổi sinh đẻ càng cao, đặc biệt là nữ giới, thì mức sinh càng cao và ngược lại.
Mức sinh còn chịu ảnh hưởng của cơ cấu giới tính, những quốc gia nào, vùng nào mà có cơ cấu giới tính, đặc biệt là trong độ tuổi sinh đẻ cân bằng nhau thì mức sinh cao và ngược lại.
Dân tộc cũng là yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh. Về mặt sinh học mỗi dân tộc là một giống người có khả năng sinh sản khác nhau.
Điều kiện tự nhiên và môi trường sống cũng ảnh hưởng mức sinh. Nơi nào có điều kiện thuận lợi cho việc sinh sản thì có mức sinh cao và ngược lại.
Yếu tố xã hội ảnh hưởng đến mức sinh:
Cơ cấu kinh tế-xã hội ảnh hưởng lớn đến mức sinh. Nhìn chung những nước phát triển như các nước Tây Aâu, Mỹ, Nhật… do cuộc sống công nghiệp nên các cặp vợ chồng thường chỉ có một đến hai con, dẫn đến mức sinh giảm. Ngược lại, các nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu cần nhiều sức lao động cơ bắp cho việc đồng áng thì mức sinh cao.
Phong tục tập quán và tâm lý xã hội cũng ảnh hưởng đến mức sinh. Như những quan điểm “con đàn cháu đống”, “trời sinh voi sinh cỏ”, trọng nam khinh nữ… cũng làm tăng mức sinh.
Tuổi kết hôn kéo dài và khoảng cách giữa các lần sinh con cũng ảnh hưởng đến mức sinh.
Trình độ học vấn, thời gian tham gia lao động xã hội của người phụ nữ tỷ lệ nghịch với mức sinh.
Chính sách dân số-kế hoạch hóa gia đình và luật hôn nhân có vai trò quan trọng trong việc điều tiết mức sinh.
*Mức chết. Ở một thời điểm nào đó sau khi có sự kiện sinh sống xảy ra, chết là hiện tượng tự nhiên.
Chết là sự mất đi vĩnh viễn tất cả những biểu hiện của sự sống của con người, nhưng ở mỗi giai đoạn lịch sử xã hội, mỗi lứa tuổi, mỗi giới, mỗi cộng đồng người đều diễn ra khác nhau.
Mức chết chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau:
Mức sống của dân cư càng cao, con người càng có khả năng chống đỡ với bệnh tật nên mức chết thấp và ngược lại.
Trình độ phát triển y học, mạng lưới y tế vệ sinh phòng bệnh càng phát triển, tạo khả năng làm giảm mức chết.
Chiến tranh là nguyên nhân trực tiếp gây chết người hàng loạt trong một khoảng thời gian ngắn.
Môi trường sống trong sạch nâng cao tuổi thọ.
Cơ cấu dân số, đặc biệt cơ cấu dân số già thì mức chết càng cao.
Ngoài ra, tai nạn và tệ nạn cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến mức chết.
2/ Biến động dân số cơ học.
Di dân là sự di chuyển dân cư từ vùng này sang vùng khác nhằm thiết lập nơi ở và nơi làm việc mới trong một khoảng
Dân số học nghiên cứu quy mô, cơ cấu, phân bố và các dạng biến động dân cư trên một vùng, một lãnh thổ hay một quốc gia.
Dân số luôn biến động về qui mô, cơ cấu với tốc độ khác nhau. Có hai hình thức là biến động tự nhiên và biến động cơ học. Trên phạm vi toàn thế giới và trong từng quốc gia hiện nay chủ yếu là biến động dân số tự nhiên, đó là hiệu số giữa mức sinh và mức chết. Do vậy, để tìm hiểu quá trình biến động dân số ta phải tìm hiểu mức sinh và mức chết là chính.
1/ Biến động dân số tự nhiên.
*Mức sinh. Là số con sinh ra còn sống của một phụ nữ hay một nhóm dân cư nào đó. Đứa trẻ sinh ra khỏi cơ thể người mẹ mà còn có dấu hiệu của sự sống gọi là sinh sống và được tính vào mức sinh.
Mức sinh thay thế là mức sinh mà một nhóm, một cộng đồng người có đủ số con để thay thế mình trong dân số. Đạt được mức sinh thay thế thì sau một thời gian mức sinh sẽ bằng mức chết và nếu không có nhập cư và xuất cư thì dân số sẽ trở thành số cố định.
Mức sinh chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như yếu tố tự nhiên sinh vật, yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội… có thể chia thành hai nhóm yếu tố chủ yếu.
Nhóm các yếu tố sinh học tự nhiên tùy thuộc kả năng vô sinh của người phụ nữ như tuổi nhỏ, tuổi mãn kinh và khoảng cách giữa hai lần sinh.
Mọi sinh vật đều phải tuân theo quy luật tự nhiên, đều phải trải qua các giai đoạn sinh, trưởng thành, phát triển và diệt vong. Con người cũng như vậy, khả năng sinh sản chỉ có một nhóm tuổi nhất định. Vì thế, vùng nào có dân số trong độ tuổi sinh đẻ càng cao, đặc biệt là nữ giới, thì mức sinh càng cao và ngược lại.
Mức sinh còn chịu ảnh hưởng của cơ cấu giới tính, những quốc gia nào, vùng nào mà có cơ cấu giới tính, đặc biệt là trong độ tuổi sinh đẻ cân bằng nhau thì mức sinh cao và ngược lại.
Dân tộc cũng là yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh. Về mặt sinh học mỗi dân tộc là một giống người có khả năng sinh sản khác nhau.
Điều kiện tự nhiên và môi trường sống cũng ảnh hưởng mức sinh. Nơi nào có điều kiện thuận lợi cho việc sinh sản thì có mức sinh cao và ngược lại.
Yếu tố xã hội ảnh hưởng đến mức sinh:
Cơ cấu kinh tế-xã hội ảnh hưởng lớn đến mức sinh. Nhìn chung những nước phát triển như các nước Tây Aâu, Mỹ, Nhật… do cuộc sống công nghiệp nên các cặp vợ chồng thường chỉ có một đến hai con, dẫn đến mức sinh giảm. Ngược lại, các nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu cần nhiều sức lao động cơ bắp cho việc đồng áng thì mức sinh cao.
Phong tục tập quán và tâm lý xã hội cũng ảnh hưởng đến mức sinh. Như những quan điểm “con đàn cháu đống”, “trời sinh voi sinh cỏ”, trọng nam khinh nữ… cũng làm tăng mức sinh.
Tuổi kết hôn kéo dài và khoảng cách giữa các lần sinh con cũng ảnh hưởng đến mức sinh.
Trình độ học vấn, thời gian tham gia lao động xã hội của người phụ nữ tỷ lệ nghịch với mức sinh.
Chính sách dân số-kế hoạch hóa gia đình và luật hôn nhân có vai trò quan trọng trong việc điều tiết mức sinh.
*Mức chết. Ở một thời điểm nào đó sau khi có sự kiện sinh sống xảy ra, chết là hiện tượng tự nhiên.
Chết là sự mất đi vĩnh viễn tất cả những biểu hiện của sự sống của con người, nhưng ở mỗi giai đoạn lịch sử xã hội, mỗi lứa tuổi, mỗi giới, mỗi cộng đồng người đều diễn ra khác nhau.
Mức chết chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau:
Mức sống của dân cư càng cao, con người càng có khả năng chống đỡ với bệnh tật nên mức chết thấp và ngược lại.
Trình độ phát triển y học, mạng lưới y tế vệ sinh phòng bệnh càng phát triển, tạo khả năng làm giảm mức chết.
Chiến tranh là nguyên nhân trực tiếp gây chết người hàng loạt trong một khoảng thời gian ngắn.
Môi trường sống trong sạch nâng cao tuổi thọ.
Cơ cấu dân số, đặc biệt cơ cấu dân số già thì mức chết càng cao.
Ngoài ra, tai nạn và tệ nạn cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến mức chết.
2/ Biến động dân số cơ học.
Di dân là sự di chuyển dân cư từ vùng này sang vùng khác nhằm thiết lập nơi ở và nơi làm việc mới trong một khoảng
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Việt Thao
Dung lượng: |
Lượt tài: 5
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)