đường lối đảng cs những năm 1930-1945
Chia sẻ bởi Hà Phối Ân |
Ngày 23/10/2018 |
53
Chia sẻ tài liệu: đường lối đảng cs những năm 1930-1945 thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
CHƯƠNG II:
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
( 1930 – 1945 )
Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939:
a. Luận cương chính trị của Đảng tháng 10-1930
Đồng chí Trần Phú
- Năm 1930: Tháng 4-1930 Trần Phú sau thời gian học tập ở Liên Xô được quốc tế cộng sản cử về nước. Đến tháng 7-1930 đợc bổ sung vào BCH TW Đảng.
- Từ 14- 30/10/1930 hội nghị BCH TW họp lần thứ nhất tại Hương Cảng, do Trần Phú chủ trì.
Nội dung của hội nghị gồm: Thảo luận Luận cương chính trị, quyết định đổi tên Đảng từ Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương, trong hội nghị các đại biểu cũng nhất trí bầu đồng chí Trần Phú làm tổng bí thư.
1.Những năm 1930-1935:
Nội dung luận cương chính trị:
Luận cương chính trị đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ (CMTSDQ).
Chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày với một là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
Vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương là: “tư sản dân quyền cáh mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, khi thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kì tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Về lực lượng cách mạng: giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lưỡng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng.
Về phương pháp cách mạng: võ trang bạo động. Đó là một nghệ thuật.
Về quan hệ với quốc tế: cách mạng Đông Dương là 1 bộ phận của cách mạng thế giới.
Đảng phải có đường lối đúng đắn, gắn bó với giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng
Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho chính quyền lợi của giai cấp công nhân, đấu tranh cho mục tiêu chủ nghĩa cộng sản.
Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản các dân tộc thuộc địa, nhất là với vô sản Pháp.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng:
Ý nghĩa luận cương
Ưu điểm: Luận cương chính trị đã xác định nhiều vấn đề chiến lược cách mạng
Hạn chế :
+ Chưa vạch được mâu thuẫn chủ yếu của XH thuộc địa
+ Không vêu vấn đề dân tộc lên hàng đầu, nặng về đầu tranh gia cấp
+ Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản, tư sản dân tộc
Những nhược điểm này mang tính “tả khuynh” giáo điều và trải qua quá trình cách mạng, nhược điểm trên dần được khắc phục
b) Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng
Vừa mời ra đời, Đảng đã phát động được một phong trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh cao là Xô viết – Nghệ Tĩnh
Phong trào 1930-1931 _Xô Viết Nghệ -Tĩnh:
Mở đầu là cuộc bãi công của 3000 công nhân Phú Riềng ( 2/1930), tiếp đến là cuộc bãi công của công nhân Nam Định, bến Thủy, Hải Phòng,…
Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra ở Hà Nam, Thái Bình, … đã xuất hiện truyền đơn, cờ đỏ búa liềm.
Phong trào nổ ra mạnh mẽ nhất là ở Nghệ - Tĩnh, nơi có truyền thống đấu tranh cách mạng.
1/5/1930, nhân ngày Quốc tế lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An, công nhân Bến Thủy đã biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, ...
- 1/8/1930, nhân ngày quốc tế chống chiến tranh, công nhân Vinh - Bến Thủy đã tổ chức cuộc tổng bãi công đánh dấu "một thời kì mới, thời kì đấu tranh kịch liệt đã đến".
Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra quyết liệt ở Nam Đàn, Thanh Chương, ... dưới hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ.
12/9/1930, cuộc biểu tình của 2 vạn người nổ ra ở Hưng Nguyên (Nghệ An) để phản đối chính sách khủng bố của bọn thực dân và tay sai.
- Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và phong kiến nhiều nơi bị tan rã, các tổ chức Đảng ở địa phương đã lãnh đạo quần chúng thực hiện quyền làm chủ, tự đứng ra quản lí lấy đời sống của mình => Chính quyền Xô viết Nghệ - Tĩnh ra đời.
Các chính sách của Xô viết Nghệ - Tĩnh:
+ Chính trị: Kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, thực hiện các quyền tự do dân chủ.
+ Kinh tế: Bãi bỏ các thứ thuế, giảm tô, xóa nợ, chia ruộng đất cho nông dân.
+ Xã hội: Học chữ Quốc ngữ, bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục. Tổ chức các hội quần chúng như nông hội, công hội, hội phụ nữ giải phóng, hội học sinh, ...
+ Quân sự: Mỗi làng đều tổ chức các đội tự vệ vũ trang.
=> Xô viết Nghệ - Tĩnh tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt. Đó là một chính quyền của dân, do dân và vì dân
Ý nghĩa:
Khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân mà Đảng cộng sản là đại biểu.
Đem lại cho quần chúng đông đảo lòng tin ở sức lực cách mạng của chính bản thân mình.
Đã hình thành trong thực tế khối công nông liên minh vững chắc.
Đội ngũ cán bộ của Đảng được rèn luyện, thử thách trong thực tế.
Là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Đảng.
Tháng 6-1932, ban chấp hành Trung ương đã công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1932, nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và một số đảng viên còn lại ở trong nước, ngoài nước đã tổ chức ban lãnh đạo Trung ương của Đảng.
Chương trình hành động:
Đ/c Lê Hồng Phong
Để chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo động cần đặt ra yêu cầu chung và cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân.
Chương trình hành động đã khẳng định: Công nông Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản sẽ nổi lên võ trang bạo động thực hiện những nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến và tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
4 yêu cầu sau:
Đòi các quyền tự do dân chủ, tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, hội họp, đi lại trong nước và ra nước ngoài.
Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay các chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình.
Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác.
Bỏ thuế độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện.
Từ ngày 27-31/3/1935, đại hội đại biểu lần I của đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc) đã khẳng định thắng lợi của tranh khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức cuộc đấu Đảng.
Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ:
Củng cố và phát triển Đảng.
Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng.
Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh…
2. Trong những năm 1936-1939:
a) Hoàn cảnh lịch sử:
Tình hình thế giới:
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 làm cho mâu thuẫn nội tại của CNTB ngày càng gay gắt.
Trước tình hình đó, đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản được triệu tập (25/7/1935- 20/8/1935 ) tại Matxcơva do đ/c Đimitơrốp chủ trì.
Chủ nghĩa Phát xít đã xuất hiện và thắng thế ở một số nơi.
Đại hội đã nhấn mạnh các vấn đề sau:
Kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm trước mắt là chủ nghĩa phát xít.
Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, giành dân chủ và bảo vệ hoà bình.
Về tổ chức: Chủ trương thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh.
Các cơ sở Đảng đã được khôi phục và được củng cố một bước.
Đời sống của giai cấp công nhân và nông dân vô cùng cực khổ, thất nghiệp ngày càng tăng, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội ngày càng phát triển gay gắt
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 làm cho bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào của quần chúng.
Tình hình trong nước:
Căn cứ vào tình hình quốc tế và trong nước Đảng ta đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh trong thời kỳ mới
b) Chủ trương mới của đảng:
Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh: BCH TW xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là “cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa”, nhưng yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiên đời sống.
Về kẻ thù cách mạng: chủ trương đánh đổ bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
Xác định nhiệm vụ trước mắt của CM : chống Phát xít, chống chiến tranh đế quốc, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
Xác định lực lượng CM: thành lập mặt trận nhân dân phản đế gồm mọi giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo với nòng cốt là liên minh công nông.
Về đoàn kết quốc tế: Ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn Phát xít ở Pháp và bọn phản đông thuộc địa ở Đông Dương.
Hình thức và phương pháp đấu tranh: Kết hợp nhiều hình thức. Vừa đấu tranh công khai vừa nửa công khai, vừa hợp pháp vừa nửa hợp pháp.
Xây dựng tổ chức: Phải chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai nhằm mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.
Trong chính sách mới cho rằng : “ Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng điền địa”. Vì rằng, tùy hoàn cảnh hiện thực mà nhìn nhận vấn đề nào cần thiết thì áp dụng thực hiện trước.
Đây là nhận thức mới của Ban chấp hành trung ương, nó phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
Tháng 3-1939, Đảng ta ra tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc, nêu rõ hiểm họa phát xít đang đến gần; kêu gọi các tầng lớp nhân dân thống nhất hành động hơn nữa trong cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc.
Tháng 7-1939, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ, về đường lối xây dựng Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
II/ Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1945:
1) Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng:
a) Tình hình thế giới và trong nước:
Tình hình thế giới:chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ với 2 giai đoạn:
- Từ 1/9/1939 - 22/6/1941 :
Tính chất chiến tranh: CT giữa các tập đoàn đế quốc với nhau, tháng 6-1940: Đức tấn công Pháp và Pháp đầu hàng, Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
- Từ 22/6/1941 - 2/9/1945:
22/6/1941: Đức tấn công Liên Xô. Từ đây, tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi. Một bên là lực lượng Phát xít & một bên là lực lượng đồng minh chống phát xít.
Trong nước :
Thực dân Pháp thủ tiêu toàn bộ thành quả của phong trào dân sinh 1936-1939:
+ Đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. thẳng tay đàn áp pt đấu tranh của nhân dân, thủ tiêu dân chủ.
+ Giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các hội này.
+ Vơ vét sức người sức của phục vụ chiến tranh.
22/9/1940: Phát xít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn & đổ bộ vào Hải Phòng.
- 23/9/1940: tại Hà Nội, Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ bị hai tròng áp bức bóc lột của Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp – Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b) Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Nội dung chủ trương như sau:
Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu bởi : Mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc ta lúc này là mâu thuẫn giữa dân tộc với phát xít Pháp - Nhật.
- Xây dựng lực lượng cách mạng: thành lập mặt trận Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng tham gia giải phóng dân tộc.
c) Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước vào mặt trận Việt Minh.
- Xây dựng lực lượng quân đội thông qua việc thành lập Việt Nam giải phóng quân.
- Đường lối là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Thực hiện nghị của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, ngày 25/10/1941, mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời.
Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo vũ trang cho quần chúng cách mạng từng bước tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ các đội du kích bí mật, các đội Cứu quốc quân Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã thành lập Việt Nam giải phóng quân.
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
2) Chủ trương phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a) Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần:
● Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước
Cuối năm 1944, Chiến tranh thế giới II bước vào giai đoạn cuối, quân Đức thua Liên Xô trên các chiến trường, Nhật và Pháp mâu thuẫn ngày càng sâu sắc.
- Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm đó, Ban thường vụ TW Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại Bắc Ninh.
Đến 12- 3- 1945, Ban thường vụ ra chỉ thị “Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
+ Chỉ thị nhận định: cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
+ Chỉ thị xác định: Phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của Đông Dương, vì vậy thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật –Pháp” bằng khẩu hiệu “ đánh đuổi Phát xít Nhật”.
+ Chỉ thị chủ trương: phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
+ Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa.
+ Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:
Từ giữa 3/ 1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung và hình thức.
Phong trào đấu tranh, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi và đã giải phóng hàng loạt xã, châu huyện thuộc các tỉnh Cao bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Ngày 15-4-1945, Ban Thường Vụ Trung Ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang)với nhận định:
+ Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên hết. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.
+ Thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân, quyết định xây dựng 7 chiến khu trong cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang..
Ngày 4/6/1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm các tỉnh Cao Bằng, bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang…
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh mẽ ở nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng do Nhật, pháp đã vơ vét lúa gạo của nhân dân làm hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói. Xuất phát từ lợi ích sống còn của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Chủ trương đó đáp ứng đúng nghuyện vọng cấp bách của nhân dân ta.
Những người chết đói ở trại Giáp Bát được cải táng về nghĩa trang Hợp Thiện (Hà Nội) - Ảnh: Võ An Ninh
Bia tưởng niệm nạn nhân chết đói tại đường Kim Ngưu (Hà Nội) - Ảnh: Q.T.
Xác người chết đói đầy đường đang được thu lượm đi chôn
Đói quá phải ăn cả thịt chuột
Những xác người chết chưa kịp chôn cất
Vợ chết rồi, chồng nhìn con, chờ đến lượt mình rồi con mình ngã xuống.
Những người đói cướp lại thóc gạo do Nhật chiếm, bị quân đội Nhật hành hung
cụ Ngô Tử Hạ, đại biểu Quốc hội (khóa I) cao tuổi nhất, đang kéo chiếc xe quyên góp và phân phối gạo trong Ngày cứu đói
Lễ phát động Ngày cứu đói tại Nhà hát lớn Hà Nội
Trước sự phát triển nhanh chóng của tình hình, trung ương quyết định họp hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang ) từ ngày 13 đến 15/8/1945.
Tân trào
b) Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa:
Hội nghị chỉ ra khẩu hiệu đấu tranh là “ phản đối xâm lược”, “hoàn toàn độc lập”, “chính quyền nhân dân”.
Nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông thôn, quân sự và chính trị phải phối hợp, phải làm tan rã tinh thần quân đích…
Về đối nội: lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng.
Về đối ngoại: thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, tránh đối phó nhiều kẻ thù trong cùng 1 lúc, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung quốc.
Đêm 13/8/1945, ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, tại Tân Trào, đại hội quốc dân họp, tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Từ 19/8-25/8/1945, từ Hà Nội, Huế, Sài Gòn khởi nghĩa giành thắng lợi.
Ngày 28 tháng 8, năm 1945, quân giải phóng từ Việt Bắc diễu hành tại quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội.
Ngày 2/9/1945, tại cuộc mitting lớn ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời.
c) Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm cũa cuộc Cách mạng Tháng Tám:
Kết quả và ý nghĩa:
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã dập tan xiềng xích nộ lệ của thực dân Pháp trong gần 1 thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ hàng mấy nghìn năm và ách thống trị của phatxit Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhà nước dân chủ nhân dân lần đầu tiên ở Đông Nam Á.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt cũa lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin, cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống củ nghĩa đế quốc, thực dân giành độc lập tự do.
Nguyên nhân thắng lợi:
Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi.
Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua 3 cao trào cách mạng.
Cách mạng Tháng Tám thành công là do Đảng ta đã chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, trên cơ sở liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, đoàn kết thống nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Bài học kinh nghiệm:
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn 2 nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông.
Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ mày nhà nước của nhân dân.
Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
Xây dựng một Đảng Mac-Lenin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
( 1930 – 1945 )
Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939:
a. Luận cương chính trị của Đảng tháng 10-1930
Đồng chí Trần Phú
- Năm 1930: Tháng 4-1930 Trần Phú sau thời gian học tập ở Liên Xô được quốc tế cộng sản cử về nước. Đến tháng 7-1930 đợc bổ sung vào BCH TW Đảng.
- Từ 14- 30/10/1930 hội nghị BCH TW họp lần thứ nhất tại Hương Cảng, do Trần Phú chủ trì.
Nội dung của hội nghị gồm: Thảo luận Luận cương chính trị, quyết định đổi tên Đảng từ Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương, trong hội nghị các đại biểu cũng nhất trí bầu đồng chí Trần Phú làm tổng bí thư.
1.Những năm 1930-1935:
Nội dung luận cương chính trị:
Luận cương chính trị đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ (CMTSDQ).
Chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày với một là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
Vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương là: “tư sản dân quyền cáh mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, khi thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kì tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Về lực lượng cách mạng: giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lưỡng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng.
Về phương pháp cách mạng: võ trang bạo động. Đó là một nghệ thuật.
Về quan hệ với quốc tế: cách mạng Đông Dương là 1 bộ phận của cách mạng thế giới.
Đảng phải có đường lối đúng đắn, gắn bó với giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng
Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho chính quyền lợi của giai cấp công nhân, đấu tranh cho mục tiêu chủ nghĩa cộng sản.
Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản các dân tộc thuộc địa, nhất là với vô sản Pháp.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng:
Ý nghĩa luận cương
Ưu điểm: Luận cương chính trị đã xác định nhiều vấn đề chiến lược cách mạng
Hạn chế :
+ Chưa vạch được mâu thuẫn chủ yếu của XH thuộc địa
+ Không vêu vấn đề dân tộc lên hàng đầu, nặng về đầu tranh gia cấp
+ Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản, tư sản dân tộc
Những nhược điểm này mang tính “tả khuynh” giáo điều và trải qua quá trình cách mạng, nhược điểm trên dần được khắc phục
b) Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng
Vừa mời ra đời, Đảng đã phát động được một phong trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh cao là Xô viết – Nghệ Tĩnh
Phong trào 1930-1931 _Xô Viết Nghệ -Tĩnh:
Mở đầu là cuộc bãi công của 3000 công nhân Phú Riềng ( 2/1930), tiếp đến là cuộc bãi công của công nhân Nam Định, bến Thủy, Hải Phòng,…
Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra ở Hà Nam, Thái Bình, … đã xuất hiện truyền đơn, cờ đỏ búa liềm.
Phong trào nổ ra mạnh mẽ nhất là ở Nghệ - Tĩnh, nơi có truyền thống đấu tranh cách mạng.
1/5/1930, nhân ngày Quốc tế lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An, công nhân Bến Thủy đã biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, ...
- 1/8/1930, nhân ngày quốc tế chống chiến tranh, công nhân Vinh - Bến Thủy đã tổ chức cuộc tổng bãi công đánh dấu "một thời kì mới, thời kì đấu tranh kịch liệt đã đến".
Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra quyết liệt ở Nam Đàn, Thanh Chương, ... dưới hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ.
12/9/1930, cuộc biểu tình của 2 vạn người nổ ra ở Hưng Nguyên (Nghệ An) để phản đối chính sách khủng bố của bọn thực dân và tay sai.
- Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và phong kiến nhiều nơi bị tan rã, các tổ chức Đảng ở địa phương đã lãnh đạo quần chúng thực hiện quyền làm chủ, tự đứng ra quản lí lấy đời sống của mình => Chính quyền Xô viết Nghệ - Tĩnh ra đời.
Các chính sách của Xô viết Nghệ - Tĩnh:
+ Chính trị: Kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, thực hiện các quyền tự do dân chủ.
+ Kinh tế: Bãi bỏ các thứ thuế, giảm tô, xóa nợ, chia ruộng đất cho nông dân.
+ Xã hội: Học chữ Quốc ngữ, bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục. Tổ chức các hội quần chúng như nông hội, công hội, hội phụ nữ giải phóng, hội học sinh, ...
+ Quân sự: Mỗi làng đều tổ chức các đội tự vệ vũ trang.
=> Xô viết Nghệ - Tĩnh tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt. Đó là một chính quyền của dân, do dân và vì dân
Ý nghĩa:
Khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân mà Đảng cộng sản là đại biểu.
Đem lại cho quần chúng đông đảo lòng tin ở sức lực cách mạng của chính bản thân mình.
Đã hình thành trong thực tế khối công nông liên minh vững chắc.
Đội ngũ cán bộ của Đảng được rèn luyện, thử thách trong thực tế.
Là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Đảng.
Tháng 6-1932, ban chấp hành Trung ương đã công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1932, nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và một số đảng viên còn lại ở trong nước, ngoài nước đã tổ chức ban lãnh đạo Trung ương của Đảng.
Chương trình hành động:
Đ/c Lê Hồng Phong
Để chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo động cần đặt ra yêu cầu chung và cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân.
Chương trình hành động đã khẳng định: Công nông Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản sẽ nổi lên võ trang bạo động thực hiện những nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến và tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
4 yêu cầu sau:
Đòi các quyền tự do dân chủ, tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, hội họp, đi lại trong nước và ra nước ngoài.
Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay các chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình.
Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác.
Bỏ thuế độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện.
Từ ngày 27-31/3/1935, đại hội đại biểu lần I của đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc) đã khẳng định thắng lợi của tranh khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức cuộc đấu Đảng.
Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ:
Củng cố và phát triển Đảng.
Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng.
Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh…
2. Trong những năm 1936-1939:
a) Hoàn cảnh lịch sử:
Tình hình thế giới:
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 làm cho mâu thuẫn nội tại của CNTB ngày càng gay gắt.
Trước tình hình đó, đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản được triệu tập (25/7/1935- 20/8/1935 ) tại Matxcơva do đ/c Đimitơrốp chủ trì.
Chủ nghĩa Phát xít đã xuất hiện và thắng thế ở một số nơi.
Đại hội đã nhấn mạnh các vấn đề sau:
Kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm trước mắt là chủ nghĩa phát xít.
Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, giành dân chủ và bảo vệ hoà bình.
Về tổ chức: Chủ trương thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh.
Các cơ sở Đảng đã được khôi phục và được củng cố một bước.
Đời sống của giai cấp công nhân và nông dân vô cùng cực khổ, thất nghiệp ngày càng tăng, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội ngày càng phát triển gay gắt
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 làm cho bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào của quần chúng.
Tình hình trong nước:
Căn cứ vào tình hình quốc tế và trong nước Đảng ta đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh trong thời kỳ mới
b) Chủ trương mới của đảng:
Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh: BCH TW xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là “cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa”, nhưng yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiên đời sống.
Về kẻ thù cách mạng: chủ trương đánh đổ bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
Xác định nhiệm vụ trước mắt của CM : chống Phát xít, chống chiến tranh đế quốc, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
Xác định lực lượng CM: thành lập mặt trận nhân dân phản đế gồm mọi giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo với nòng cốt là liên minh công nông.
Về đoàn kết quốc tế: Ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn Phát xít ở Pháp và bọn phản đông thuộc địa ở Đông Dương.
Hình thức và phương pháp đấu tranh: Kết hợp nhiều hình thức. Vừa đấu tranh công khai vừa nửa công khai, vừa hợp pháp vừa nửa hợp pháp.
Xây dựng tổ chức: Phải chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai nhằm mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.
Trong chính sách mới cho rằng : “ Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng điền địa”. Vì rằng, tùy hoàn cảnh hiện thực mà nhìn nhận vấn đề nào cần thiết thì áp dụng thực hiện trước.
Đây là nhận thức mới của Ban chấp hành trung ương, nó phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
Tháng 3-1939, Đảng ta ra tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc, nêu rõ hiểm họa phát xít đang đến gần; kêu gọi các tầng lớp nhân dân thống nhất hành động hơn nữa trong cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc.
Tháng 7-1939, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ, về đường lối xây dựng Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
II/ Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1945:
1) Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng:
a) Tình hình thế giới và trong nước:
Tình hình thế giới:chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ với 2 giai đoạn:
- Từ 1/9/1939 - 22/6/1941 :
Tính chất chiến tranh: CT giữa các tập đoàn đế quốc với nhau, tháng 6-1940: Đức tấn công Pháp và Pháp đầu hàng, Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
- Từ 22/6/1941 - 2/9/1945:
22/6/1941: Đức tấn công Liên Xô. Từ đây, tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi. Một bên là lực lượng Phát xít & một bên là lực lượng đồng minh chống phát xít.
Trong nước :
Thực dân Pháp thủ tiêu toàn bộ thành quả của phong trào dân sinh 1936-1939:
+ Đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. thẳng tay đàn áp pt đấu tranh của nhân dân, thủ tiêu dân chủ.
+ Giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các hội này.
+ Vơ vét sức người sức của phục vụ chiến tranh.
22/9/1940: Phát xít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn & đổ bộ vào Hải Phòng.
- 23/9/1940: tại Hà Nội, Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ bị hai tròng áp bức bóc lột của Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp – Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b) Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Nội dung chủ trương như sau:
Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu bởi : Mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc ta lúc này là mâu thuẫn giữa dân tộc với phát xít Pháp - Nhật.
- Xây dựng lực lượng cách mạng: thành lập mặt trận Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng tham gia giải phóng dân tộc.
c) Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước vào mặt trận Việt Minh.
- Xây dựng lực lượng quân đội thông qua việc thành lập Việt Nam giải phóng quân.
- Đường lối là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Thực hiện nghị của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, ngày 25/10/1941, mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời.
Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo vũ trang cho quần chúng cách mạng từng bước tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ các đội du kích bí mật, các đội Cứu quốc quân Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã thành lập Việt Nam giải phóng quân.
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
2) Chủ trương phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a) Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần:
● Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước
Cuối năm 1944, Chiến tranh thế giới II bước vào giai đoạn cuối, quân Đức thua Liên Xô trên các chiến trường, Nhật và Pháp mâu thuẫn ngày càng sâu sắc.
- Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm đó, Ban thường vụ TW Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại Bắc Ninh.
Đến 12- 3- 1945, Ban thường vụ ra chỉ thị “Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
+ Chỉ thị nhận định: cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
+ Chỉ thị xác định: Phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của Đông Dương, vì vậy thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật –Pháp” bằng khẩu hiệu “ đánh đuổi Phát xít Nhật”.
+ Chỉ thị chủ trương: phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
+ Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa.
+ Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:
Từ giữa 3/ 1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung và hình thức.
Phong trào đấu tranh, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi và đã giải phóng hàng loạt xã, châu huyện thuộc các tỉnh Cao bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Ngày 15-4-1945, Ban Thường Vụ Trung Ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang)với nhận định:
+ Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên hết. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.
+ Thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân, quyết định xây dựng 7 chiến khu trong cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang..
Ngày 4/6/1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm các tỉnh Cao Bằng, bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang…
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh mẽ ở nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng do Nhật, pháp đã vơ vét lúa gạo của nhân dân làm hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói. Xuất phát từ lợi ích sống còn của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Chủ trương đó đáp ứng đúng nghuyện vọng cấp bách của nhân dân ta.
Những người chết đói ở trại Giáp Bát được cải táng về nghĩa trang Hợp Thiện (Hà Nội) - Ảnh: Võ An Ninh
Bia tưởng niệm nạn nhân chết đói tại đường Kim Ngưu (Hà Nội) - Ảnh: Q.T.
Xác người chết đói đầy đường đang được thu lượm đi chôn
Đói quá phải ăn cả thịt chuột
Những xác người chết chưa kịp chôn cất
Vợ chết rồi, chồng nhìn con, chờ đến lượt mình rồi con mình ngã xuống.
Những người đói cướp lại thóc gạo do Nhật chiếm, bị quân đội Nhật hành hung
cụ Ngô Tử Hạ, đại biểu Quốc hội (khóa I) cao tuổi nhất, đang kéo chiếc xe quyên góp và phân phối gạo trong Ngày cứu đói
Lễ phát động Ngày cứu đói tại Nhà hát lớn Hà Nội
Trước sự phát triển nhanh chóng của tình hình, trung ương quyết định họp hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang ) từ ngày 13 đến 15/8/1945.
Tân trào
b) Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa:
Hội nghị chỉ ra khẩu hiệu đấu tranh là “ phản đối xâm lược”, “hoàn toàn độc lập”, “chính quyền nhân dân”.
Nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông thôn, quân sự và chính trị phải phối hợp, phải làm tan rã tinh thần quân đích…
Về đối nội: lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng.
Về đối ngoại: thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, tránh đối phó nhiều kẻ thù trong cùng 1 lúc, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung quốc.
Đêm 13/8/1945, ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, tại Tân Trào, đại hội quốc dân họp, tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Từ 19/8-25/8/1945, từ Hà Nội, Huế, Sài Gòn khởi nghĩa giành thắng lợi.
Ngày 28 tháng 8, năm 1945, quân giải phóng từ Việt Bắc diễu hành tại quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội.
Ngày 2/9/1945, tại cuộc mitting lớn ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời.
c) Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm cũa cuộc Cách mạng Tháng Tám:
Kết quả và ý nghĩa:
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã dập tan xiềng xích nộ lệ của thực dân Pháp trong gần 1 thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ hàng mấy nghìn năm và ách thống trị của phatxit Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhà nước dân chủ nhân dân lần đầu tiên ở Đông Nam Á.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt cũa lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin, cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống củ nghĩa đế quốc, thực dân giành độc lập tự do.
Nguyên nhân thắng lợi:
Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi.
Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua 3 cao trào cách mạng.
Cách mạng Tháng Tám thành công là do Đảng ta đã chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, trên cơ sở liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, đoàn kết thống nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Bài học kinh nghiệm:
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn 2 nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông.
Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ mày nhà nước của nhân dân.
Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
Xây dựng một Đảng Mac-Lenin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hà Phối Ân
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)