Dòng Tranh dân gian VN
Chia sẻ bởi Phạm Đào Lược |
Ngày 11/05/2019 |
83
Chia sẻ tài liệu: Dòng Tranh dân gian VN thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
Tranh Hàng Trống
Ha Noi Traditional Painting
Thứ hai 12, Tháng Hai 2007 BTV: dt Mức độ viếng thăm : 1%
Xưa kia dòng tranh này sản xuất và bày bán tại các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt thuộc tổng Tiêu Túc (sau đổi là Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương (nay là quân Hoàn Kiếm, Hà Nội), nhưng chủ yếu là ở Hàng Trống (xưa là thôn Tự Tháp).
Cô Ba (trong đạo Mẫu)
Phường phố này đã từng có tiếng về các ngành nghề thủ công như tranh dân gian, trống tế trống hội, hòm tráp sơn ta, hàng thêu, quạt, nón, cờ phướn, võng lọng... sầm uất quanh năm. Cùng với các hộ dân cư bản địa lâu đời, cũng có nhiều thợ vẽ và thợ khắc tài hoa từ nơi khác đến đây làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do buôn bán cạnh tranh, thường in kèm tên hiệu như Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc Bình...
Khác với tranh Đông Hồ, kỹ thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quét phẩm nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế. Nhờ vậy, màu sắc rất uyển chuyển, đáp ứng đòi hỏi của khách mua tranh nơi kẻ chợ. Tranh Hàng Trống in trên giấy dó hay giấy báo khổ rộng. Những bộ tứ bình khổ to thường được bồi trên giấy dầy, hai đầu trên dưới lồng xuốt trúc để tiện treo. Cùng với các đề tài phản ánh sinh hoạt thường ngày hay minh họa cổ tích, tranh Hàng Trống nổi trội về thể loại tranh thờ, ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện công phu, không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa.
Việc xuất hiện những tranh Hàng Trống như "Gà đàn", "Tướng Trấn môn" ("Canh cửa") tại kinh đô, từ nội phủ cung đình đến nhà thường dân, từng được Hoàng Sĩ Khải, một nhà thơ làm quan thời Mạc (cuối tk.16) nhắc tới. Như vậy, tranh Hàng Trống có lẽ ra đời cùng thời với tranh Đông Hồ, vốn được dòng họ Nguyễn Đăng sản xuất truyền tới hai mươi đời, tức khoảng năm trăm năm.
Trong số bản khắc tranh Hàng Trống còn giữ lại được, có mấy tấm đặc biệt giá trị, lưu tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội dưới ký hiệu I.5484 a.b.c. Những tấm gỗ thị dầy dặn này được khắc cả hai mặt, theo đề tài rút từ kinh nhà Phật hay cổ tích Việt Nam, Trung Hoa, kèm cả tuổi tranh "Quý Mùi lục nguyệt khởi Minh Mệnh tứ niên", tức là 1823 dương lịch. Những tấm ván này được khắc cách đây đã ngót hai trăm năm, nên ta có cơ sở tin rằng dòng trang Hàng Trống xuất hiện còn sớm hơn thế khá nhiều.
Tứ thời
MỘT DÒNG TRANH DÂN GIAN...
Trong ba dòng tranh dân gian tiêu biểu: tranh điệp Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh đỏ Kim Hoàng (Hà Tây) và tranh Hàng Trống thì Hàng Trống là trung tâm làm tranh lớn thứ hai, chỉ sau Đông Hồ. Gọi là tranh Hàng Trống bởi "lò" tranh quy tụ ở phố Hàng Trống, Hà Nội. Từ đây "bắt lửa" sang Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt. Thế nhưng, dường như thời sầm uất nhất đã xa. Nay, nơi đây chỉ còn sót lại duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên ở phố Cửa Đông, Hà Nội.
Muốn tìm lại tranh Hàng Trống phải đến chốn linh thiêng: đền, miếu, điện thờ, hoặc lục tìm trong các bộ sưu tập của tư nhân và các viện bảo tàng Việt Nam cũng như ở nhiều nước. Bức tranh Ngũ hổ được coi là lớn và hầu như còn giữ được vẻ đẹp thuần khiết của phong cách tranh Hàng Trống, hiện còn ở Chùa làng Kim Liên.
Ngũ hổ
Tìm lại bóng dáng tranh xưa
Cả ba dòng tranh dân gian đều sản xuất thủ công, kỹ nghệ cha truyền con nối. Tranh cỡ nhỏ, chủ đề là cuộc sống đời thường, phong tục tập quán: Hứng dừa, Đánh ghen, Tố nữ, Thả diều, Thạch Sanh, Sơn Tinhư Thuỷ Tinh... ở dòng tranh Đông Hồ. Tranh cỡ to lại thiên về thế giới thần bí, sắc màu tôn giáo chủ yếu là tranh thờ: Bạch hổ, Hắc hổ, Ngũ hổ, Đức thánh trần, Bà chúa mẫu... trong tranh Hàng Trống.
Phải chăng nguyên liệu, phong thủy và tính cách con người của mỗi vùng quyết định tính chất, phong cách của sản phẩm nơi ấy? Một nhà nghiên cứu nhận xét người làm tranh Hàng Trống có phong cách, quan niệm và phương pháp khác hẳn tranh Đông Hồ và Kim Hoàng. Tranh Đông Hồ dập theo ba công đoạn: vẽ mẫu, khắc ván và in. In viền nét
Ha Noi Traditional Painting
Thứ hai 12, Tháng Hai 2007 BTV: dt Mức độ viếng thăm : 1%
Xưa kia dòng tranh này sản xuất và bày bán tại các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt thuộc tổng Tiêu Túc (sau đổi là Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương (nay là quân Hoàn Kiếm, Hà Nội), nhưng chủ yếu là ở Hàng Trống (xưa là thôn Tự Tháp).
Cô Ba (trong đạo Mẫu)
Phường phố này đã từng có tiếng về các ngành nghề thủ công như tranh dân gian, trống tế trống hội, hòm tráp sơn ta, hàng thêu, quạt, nón, cờ phướn, võng lọng... sầm uất quanh năm. Cùng với các hộ dân cư bản địa lâu đời, cũng có nhiều thợ vẽ và thợ khắc tài hoa từ nơi khác đến đây làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do buôn bán cạnh tranh, thường in kèm tên hiệu như Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc Bình...
Khác với tranh Đông Hồ, kỹ thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quét phẩm nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế. Nhờ vậy, màu sắc rất uyển chuyển, đáp ứng đòi hỏi của khách mua tranh nơi kẻ chợ. Tranh Hàng Trống in trên giấy dó hay giấy báo khổ rộng. Những bộ tứ bình khổ to thường được bồi trên giấy dầy, hai đầu trên dưới lồng xuốt trúc để tiện treo. Cùng với các đề tài phản ánh sinh hoạt thường ngày hay minh họa cổ tích, tranh Hàng Trống nổi trội về thể loại tranh thờ, ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện công phu, không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa.
Việc xuất hiện những tranh Hàng Trống như "Gà đàn", "Tướng Trấn môn" ("Canh cửa") tại kinh đô, từ nội phủ cung đình đến nhà thường dân, từng được Hoàng Sĩ Khải, một nhà thơ làm quan thời Mạc (cuối tk.16) nhắc tới. Như vậy, tranh Hàng Trống có lẽ ra đời cùng thời với tranh Đông Hồ, vốn được dòng họ Nguyễn Đăng sản xuất truyền tới hai mươi đời, tức khoảng năm trăm năm.
Trong số bản khắc tranh Hàng Trống còn giữ lại được, có mấy tấm đặc biệt giá trị, lưu tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội dưới ký hiệu I.5484 a.b.c. Những tấm gỗ thị dầy dặn này được khắc cả hai mặt, theo đề tài rút từ kinh nhà Phật hay cổ tích Việt Nam, Trung Hoa, kèm cả tuổi tranh "Quý Mùi lục nguyệt khởi Minh Mệnh tứ niên", tức là 1823 dương lịch. Những tấm ván này được khắc cách đây đã ngót hai trăm năm, nên ta có cơ sở tin rằng dòng trang Hàng Trống xuất hiện còn sớm hơn thế khá nhiều.
Tứ thời
MỘT DÒNG TRANH DÂN GIAN...
Trong ba dòng tranh dân gian tiêu biểu: tranh điệp Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh đỏ Kim Hoàng (Hà Tây) và tranh Hàng Trống thì Hàng Trống là trung tâm làm tranh lớn thứ hai, chỉ sau Đông Hồ. Gọi là tranh Hàng Trống bởi "lò" tranh quy tụ ở phố Hàng Trống, Hà Nội. Từ đây "bắt lửa" sang Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt. Thế nhưng, dường như thời sầm uất nhất đã xa. Nay, nơi đây chỉ còn sót lại duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên ở phố Cửa Đông, Hà Nội.
Muốn tìm lại tranh Hàng Trống phải đến chốn linh thiêng: đền, miếu, điện thờ, hoặc lục tìm trong các bộ sưu tập của tư nhân và các viện bảo tàng Việt Nam cũng như ở nhiều nước. Bức tranh Ngũ hổ được coi là lớn và hầu như còn giữ được vẻ đẹp thuần khiết của phong cách tranh Hàng Trống, hiện còn ở Chùa làng Kim Liên.
Ngũ hổ
Tìm lại bóng dáng tranh xưa
Cả ba dòng tranh dân gian đều sản xuất thủ công, kỹ nghệ cha truyền con nối. Tranh cỡ nhỏ, chủ đề là cuộc sống đời thường, phong tục tập quán: Hứng dừa, Đánh ghen, Tố nữ, Thả diều, Thạch Sanh, Sơn Tinhư Thuỷ Tinh... ở dòng tranh Đông Hồ. Tranh cỡ to lại thiên về thế giới thần bí, sắc màu tôn giáo chủ yếu là tranh thờ: Bạch hổ, Hắc hổ, Ngũ hổ, Đức thánh trần, Bà chúa mẫu... trong tranh Hàng Trống.
Phải chăng nguyên liệu, phong thủy và tính cách con người của mỗi vùng quyết định tính chất, phong cách của sản phẩm nơi ấy? Một nhà nghiên cứu nhận xét người làm tranh Hàng Trống có phong cách, quan niệm và phương pháp khác hẳn tranh Đông Hồ và Kim Hoàng. Tranh Đông Hồ dập theo ba công đoạn: vẽ mẫu, khắc ván và in. In viền nét
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Đào Lược
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)