Địa danh_Gia Lai_cuối kỳ
Chia sẻ bởi Nguyễn Thanh Thúy |
Ngày 11/05/2019 |
57
Chia sẻ tài liệu: Địa danh_Gia Lai_cuối kỳ thuộc Công nghệ 10
Nội dung tài liệu:
ĐỊA DANH HỌC
TÌM HIỂU VỀ ĐỊA DANH VĂN HÓA, LỊCH SỬ, ĐỊA LÝ
CỦA TỈNH GIA LAI
GVGD :Th.s Hoàng Thị Diệu Huyền
SVTH : Nguyễn Thị Thúy
Lớp : 09CDL
Địa danh là đối tượng nghiên cứu không chỉ riêng của ngành ngôn ngữ học mà còn của nhiều ngành khoa học khác như sử học, địa lý, khảo cổ, văn học,..Tuy nhiên, địa danh là một bộ phận đặc biệt của hệ thống từ vựng. Địa danh được dùng để đặt tên cho các đối tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt của trái đất. Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển, địa danh luôn luôn chịu sự tác động của quy luật ngôn ngữ. Do đó, nghiên cứu địa danh nói chung, địa danh Gia Lai nói riêng chính là nghiên cứu về cấu tạo, phương thức định danh, ý nghĩa của các yếu tố cũng như quy luật hình thành và biến đổi của địa danh; làm sáng tỏ mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại giữa địa danh với văn hóa, lịch sử, địa lý của vùng đất mà nó chào đời.
Là một tỉnh Bắc Tây Nguyên, diện tích tự nhiên 15.536,92 km2; phía Bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía Nam giáp tỉnh Đăk Lăk, phía Đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và phía Tây giáp Campuchia với 90 km đường biên giới Gia Lai là đầu mối giao thông quan trọng nối Tây nguyên với các tỉnh khu vực miền Trung và Đông Nam Bộ .
Bên cạnh sự hấp dẫn của thiên nhiên hùng vĩ, ở Gia Lai còn có nền văn hóa lâu đời đầm đà bản sắc núi rừng của đồng bào các dân tộc thiểu số, chủ yếu là Jarai và Bahnar. Điều này cũng được thể hiện rõ nét qua các địa danh được tìm hiểu trong bài.
ĐÔI NÉT VỀ GIA LAI
ĐỊA DANH VĂN HÓA CỦA GIA LAI
NÚI HÀM RỒNG
Địa danh Hàm Rồng cách trung tâm thành phố Pleiku hiện nay 11km về phía Nam có thể được ghi là Hdrung, Hgrông hoặc Hdrông. Ngọn núi cao 1.028m nói trên “có dạng hình nón cụt, khá cân đối nhưng nhìn từ phía hướng Thanh An (phía Tây Nam) ra, ta lại thấy ngọn núi này gần giống một con rồng, đầu hướng về phía Đông, thân trải dài trên cao nguyên phía Tây.
Hàm Rồng là biến âm từ cách gọi núi của người Jrai, Bahnar. Núi có hình dạng của một con rồng trải dài trên cao nguyên (nhìn từ phía Tây Nam lên).
trong văn hóa truyền thống Tây Nguyên, rồng không phải là một biểu tượng của quyền lực hay liên quan đến vẻ đẹp, sự trường cửu.
Theo những nguồn tư liệu của người Bahnar Hơdrông là từ đồng nghĩa với Jrai – tức người Jrai, đất Jrai. Hơdrông xưa được ước đoán là trung tâm của khu vực Pleiku và vùng phụ cận hiện nay – một vùng đất của người Jrai. Núi Hàm Rồng hiện nay từ trước vẫn được gọi là Chư (núi) Hdrung (với người Jrai) và Kông (núi) Hơdrông (với người Bahnar). Rất có thể, người xưa đã chọn ngọn núi vốn được tạo bởi núi lửa này để đặt, gọi tên cho nơi cư trú của cộng đồng Jrai.
Truyện cổ của người Bahnar kể rằng: Ngày xưa, khi mưa xuống cũng là lúc bỗng nhiên xuất hiện một loại sâu lạ trên mặt đất. Cả người Jrai và Bahnar ở vùng này đều lo sợ bởi loài vật ấy rất hung hãn trong việc phá hoại hoa màu. Họ đã cúng xin thần linh giúp đỡ nhưng sự việc chẳng những không như ý mà ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Năm này qua năm khác, lúa bắp bị sâu phá không thương tiếc. Để chống lại cái đói, người Jrai và Bahnar quyết định hợp quần lại với nhau để đánh sâu cứu lấy lúa bắp của mình…Trải bao khó khăn, vất vả và cả những mất mát hi sinh, con người đã đẩy lùi được sâu bọ.
Người ta kể rằng vùng đất là núi Hàm Rồng ngày nay chính là nơi sâu bị tiêu diệt nhiều nhất. Xác chúng chất thành gò, thành đồi, thành núi như bây giờ ta hằng thấy. Cũng có người lại kể rằng, bao nhiêu sâu bị thua trận đã tháo chạy tan tác đi khắp nơi. Duy nhất một con đầu đàn là không kịp thoát thân, đành nằm chết ở chỗ ấy, rồi lâu ngày, lâu tháng, lâu năm, xác nó biến thành núi đồi như ngày nay. Lại cũng có người nói, ngày đó, chỉ có một con sâu lạ khổng lồ đến quấy phá rồi bị giết chết, xác nó bị hóa thành dốc núi như bây giờ…
NÚI KON CHIÊNG (GIA LAI)
Mỗi năm một lần, trên đỉnh núi Kon Chiêng lại phát ra một vầng hào quang sáng rực. Dân làng bảo đó là lúc chiêng thần ra phơi...
Núi Kon Chiêng (thuộc xã Kon Chiêng) cách thị trấn Kon Dơng, huyện Mang Yang hơn 70 km về phía Nam. Và từ lâu, câu chuyện về chiêng thần trên ngọn núi này đã gây biết bao tò mò cho khách thập phương. Trong đời sống tâm linh của đồng bào Bahnar, Kon Chiêng là nơi linh thiêng, bởi đó là nơi trú ngụ của các vị thần linh và bộ chiêng thần.
Trong tiếng Bahnar, “Kon” có nghĩa là núi, “Chiêng” nghĩa là chiêng. Vì thế, núi Kon Chiêng là tên gọi gắn liền với bộ chiêng thần và tên xã cũng bắt nguồn từ đó. Truyền thuyết núi Kon Chiêng là câu chuyện tình rất cảm động của chàng Prây Tăm- con thần núi và nàng Nưỡyh xinh đẹp- con của vị thần núi Kon Chrã. Prây Tăm có một bộ chiêng thần mà không ai có được. Mỗi khi Prây Tăm đánh chiêng, âm thanh bay xa vang động cả núi rừng, khiến cả dân trong vùng và các thần linh đều say mê. Tuy nhiên, chuyện tình của họ kết thúc bởi lý do không đâu.
Trong một lần đùa giỡn, Nưỡyh hướng cây cung mà Prây Tăm đang cầm trên tay đưa vào ngực mình rồi bảo: “Anh giỏi săn bắn thú rừng, không có con vật nào có thể thoát khỏi mũi tên anh. Vậy, anh hãy thử bắn em có chết không?”.
Ngay tức khắc, mũi tên “định mệnh” cắm phập vào tim nàng Nưỡyh. Prây Tăm đưa xác nàng về núi Kon Chrã còn mình trở về núi Kon Chiêng rồi bay lên trời. Nhưng bộ chiêng thần của chàng vẫn còn nằm trên hang núi.
Mỗi năm một lần, bộ chiêng thần tự bay ra khỏi miệng hang núi để phơi, khi đó khắp cả vùng An Khê, Kông Chro và Quy Nhơn đều thấy ánh hào quang tỏa sáng cả vùng trời.
Bây giờ miệng hang đã bị sập, truyền thuyết về chiêng thần ra phơi hay khối đá quý phát sáng vẫn chưa ai rõ (?). Đặc biệt, việc người lạ lên núi Kon Chiêng đối với người dân làng như một điều cấm, họ sợ người ngoài lấy mất chiêng thần.
ĐỊA DANH LỊCH SỬ CỦA GIA LAI
Thành phố Pleiku
Pleiku hiện là tên của một trong hai cao nguyên rộng lớn nhất Tây Nguyên, đồng thời cũng là tên của thành phố tọa lạc trên chính cao nguyên này, là trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội của khu vực Bắc Tây Nguyên. Địa danh có nguồn gốc từ tên của một làng Jrai (plơi Aku). Trong tiếng Jrai, aku có nghĩa là cái đuôi, vì nguyên âm a đứng trước một phụ âm là âm câm, nên khi đọc nó không được thể hiện. Đến nay, mặc dù viết là Pleiku nhưng địa danh này vẫn được thống nhất hiểu là có nguồn gốc từ plơi Aku tức làng Đuôi.
Hiện, địa danh Pleiku được viết nhiều cách khác nhau. Ngoài cách viết quen thuộc là Pleiku như trong các văn bản từ thời thuộc Pháp, dưới chính quyền Sài Gòn (VNCH) và hiện địa phương vẫn sử dụng; còn có cách viết theo phiên âm tiếng Việt là Plây Cu; cũng có người đề nghị viết tách ra là Plei Ku với lý giải Plei là làng, Ku là cái đuôi. Trong logic lịch sử ngôn ngữ tộc người thì cách viết này không phù hợp. Vì plei / pơlei là danh từ chung chỉ làng của người Bahnar, mà bộ phận dân cư chủ yếu trên cao nguyên Pleiku lại là người Jrai, mà người Jrai thì lại gọi làng của mình là plơi chứ không phải là plei; có ý kiến đề nghị cách viết Plơi Aku nhưng không phổ biến.
Về nguồn gốc địa danh Pleiku, hiện có 2 truyền thuyết:
Truyền thuyết thứ nhất do Rơmah Del sưu tầm và dịch:
Ngày xưa ở làng Brel có 2 gia đình gả con cho nhau. Theo đúng tục lệ của người Jrai, sau khi lấy vợ, người chồng phải về ở rể suốt đời nên khi làm lễ cưới cô dâu phải lo mọi lễ vật.
Cưới được mấy hôm, cô dâu phải làm lễ tạ ơn cha mẹ chồng. Nàng giết một con lợn rất to và một con trâu đực. Hơn một tháng sau, người chồng phải làm lễ tạ ơn cha mẹ vợ tại làng mình. Vì là gia đình giàu có lại rất có uy tín nên anh em họ hàng và lũ làng kéo đến chia vui rất đông. Rượu ghè nhiều không đếm xuể. Già làng phân công những người có kinh nghiệm giết bò, còn việc thui và mổ heo thì giao cho lũ thanh niên. Chúng hí hửng vừa đùa giỡn, vừa xẻ thịt nướng ăn và ăn luôn cả cái đuôi lợn. Khi bày lễ vật ra cúng, không có đuôi lợn, người nhà lật đật xuống dưới gọi lũ thanh niên giết lợn khác. Nhưng cũng như lần trước, lần này vì quá đói chúng lại ăn mất cái đuôi. Cứ như thế, lục đục mãi đến tối buổi lễ mới bắt đầu.
Để trừng phạt lũ thanh niên đã ăn vụng đuôi lợn, già làng đặt tên làng này là plei Ku nghĩa là “cái đuôi” với dụng ý mỗi khi gọi đến tên làng thì bọn thanh niên phải xấu hổ vì hành động của mình.
Từ làng gốc đó, sau này plei Ku còn tách ra nhiều làng nhỏ: plơi Ku Roh, plơi Ku Tong, plơi Ku Blang…
Truyền thuyết thứ hai (do Ty Thông tin tỉnh Pleiku (VNCH) sưu tầm và công bố vào đầu thập niên 60 của thế kỷ XX):
Nhân một ngày hội lớn, người Jrai quần tụ quanh nhà rông để tộc trưởng cúng yang. Giữa lúc dân làng đang vui mừng nhảy múa quanh con trâu cúng yang, thì xảy ra một cuộc xô xát giữa 2 con trai tộc trưởng. Họ tranh nhau cái đuôi trâu, bởi theo phong tục của người Jrai, nếu ai chiếm được đuôi trâu để tế Trời - Đất là một vinh dự lớn.
Cuối cùng, người chiếm được đuôi trâu được lưu lại vùng đất này và đặt tên làng là Aku (cái đuôi) với dụng ý đề cao chiến thắng của mình. Người không chiếm được đuôi trâu phải dạt đi, lập các làng mới.
Người ta thường thiên về cách giải thích theo truyền thuyết thứ hai. Vì trên thực tế, các địa danh thường đề cao uy danh của cộng đồng, chứ không mấy khi gắn với những nguồn gốc bất lợi cho uy tín của bộ phân cư dân chủ thể.
Pleiku đã trở thành một địa danh tồn tại độc lập suốt gần một thế kỷ. Dù bắt đầu từ nghĩa gốc plơi Aku tức là làng đuôi, nhưng đến nay Pleiku đã được chấp nhận như một tên riêng và mang tải những giá trị riêng của nó. Lịch sử luôn vận động, mà lịch sử của các địa danh cũng không là ngoại lệ. Vậy hãy để cái tên Pleiku đã gắn với cả quá trình hình thành và phát triển của vùng đất này được tồn tại như nó đã tồn tại với tư cách là một địa danh - một tên riêng, với những giá trị lịch sử - văn hóa riêng chứ không đơn thuần chỉ được hiểu với nghĩa “Làng Đuôi”.
Thành phố Pleiku
THUNG LŨNG CHEO REO
Cheo Reo là thung lũng lớn nhất Tây Nguyên thuộc lưu vực sông Ba với diện tích gần 1.600 km2. Thung lũng do sông Ba và phụ lưu của nó là Ayn bồi đắp. Đây là vùng đất do người Gia Rai cư ngụ. Tương truyền từ những thế kỷ đầu công nguyên, các bộ tộc người Gia Rai đầu tiên đã đặt chân đến vùng đất ngã 3 sông này sinh cơ, lập nghiệp.
Đứng được trên vùng đất hoang vu hiểm trở công đầu phải kể đến hai vị tù trưởng là Chu và Ch`reo. Dưới sự cai quản của họ vùng đất này không ngừng phát triển, cư dân các nơi khác kéo đến lập nghiệp ngày một đông, hình thành những cộng đồng xã hội lớn gọi là Tơ-ring.
Trong lao động sản xuất và sinh hoạt thường ngày cư dân trong một tơ-ring thường có tập quán vần đổi công giúp nhau lúc khó khăn, hoặc trong những công việc đòi hỏi nhiều công cụ và lực lượng lao động lớn.
Sau khi hai vị tù trưởng qua đời để nhớ công ơn và tôn vinh người có công khai phá, tạo dựng vùng quê mới, đồng bào Gia Rai đã lấy tên hai vị đặt cho vùng ngã ba sông này là thung lũng Cheo Reo (phát âm lệch tên hai tù trưởng Chu và Ch`reo). Tên Cheo Reo tồn tại cho đến hôm nay.
So với 4 tỉnh cao nguyên thì Gia Lai được xem là vùng đất địa linh nhân kiệt. Đây là nơi khởi nghiệp của anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ. Đây cũng là nơi sinh ra anh hùng Núp. Cửa ngõ phía Đông của tỉnh Gia Lai là An Khê nằm bên dòng sông Ba.
Đứng trên đỉnh núi Kông-chơ-vi, huyện An Khê ta thấy một cánh đồng rộng 200 mẫu, tại xã Nghĩa An, huyện An Khê. Đây là cánh đồng bằng phẳng do bà Ya Đố lãnh đạo nhân dân khai phá. Ngày nay nhân dân địa phương gọi là cánh đồng bà Ya Đố.
Tương truyền khi Nguyễn Nhạc lên An Khê dựng cờ khởi nghĩa, đã lấy Ya Đố - nữ tù trưởng người Ba Na làng Đê H`Mâu làm vợ. Bà đã hết lòng vận động nhân dân địa phương ủng hộ nghĩa quân. Ngoài việc khai hoang 200 mẫu ruộng để sản xuất lương thực nuôi quân, bà còn xuống đồng bằng tìm các cây ăn trái về trồng.
Làng KaBRốt, huyện K`Bang là nơi có vườn cam do bà Ya Đố trồng rộng đến 20 mẫu. Từ khi có cam bà Ya Đố làng này được gọi là làng Cam. Tên làng tồn tại đến ngày nay. Những cây cam trên 200 tuổi vẫn còn ra trái.
Ngoài cam, hiện nay trên dãy núi Kông Chơ Vi còn hàng trăm cây mít cổ thụ do bà Ya Đố trồng. Đến nay chưa ai tính được bà Ya Đố, đồng bào Ba Na và các dân tộc Tây Nguyên đã đóng góp cho nghĩa quân Tây Sơn bao nhiêu người, voi, ngựa và lương thực thực phẩm. Chỉ biết rằng suốt thời gian đầu xây dựng sự nghiệp ở An Khê, nghĩa quân Tây Sơn đã nhận được sự đùm bọc yêu thương và giúp đỡ hết lòng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
Cũng tại làng S`Tơ huyện K`Bang, suốt hai cuộc kháng chiến anh hùng Núp đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn gian khổ, lập làng chiến đấu, đánh giặc giữ làng, giữ nước.
Khi sinh thời cứ vào dịp giỗ trận Đống Đa, mồng 5 Tết Anh hùng Núp lại tìm về dự lễ Quang Trung được tổ chức ở Tây Sơn Thượng - Đạo An Khê.
ĐỊA DANH TỰ NHIÊN CỦA GIA LAI
Hồ Tơ Nueng (Biển Hồ- Pleiku)
Biển Hồ còn gọi là Hồ Tơ Nueng- tên một làng cổ trong huyền thoại, là một thắng cảnh thiên nhiên đã được Bộ Văn hóa- Thông tin ( nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng Di tích thắng cảnh vào ngày 16/11/1988.
Những du khách đến Gia Lai và ghé thăm Biển Hồ Pleiku bên phố núi thơ mộng, ai cũng đều khen ngợi thắng cảnh có một không hai trên cao nguyên Gia Lai. Cảnh đẹp của Biển Hồ mà thiên nhiên ban tặng ở đây có lẽ ai cũng dễ dàng nhận thấy, nhưng xung quanh thắng cảnh hữu tình ấy còn có nhiều câu chuyện khá thú vị mà không phải ai cũng biết đến.
Theo truyện cổ dân gian của dân tộc Jơ Rai kể về sự tích Ia Nueng (Biển Hồ) khi xưa là bến nước uống chung của làng người Jơ Rai. Nước ở bến Ia Nueng rất xanh trong, soi rõ mặt người. Một hôm, trên đường đi đến bến Ia Nueng để lấy nước, có hai người dân trong làng là Yă Pôm và Yă Chao phát hiện một con heo trắng rất đẹp. Yă Chao đã bắt con lợn trắng xinh đẹp kia về nuôi ở nhà mình.
Hằng ngày, Yă Chao chăm sóc cho lợn trắng đủ thức ăn ngon nhưng chú lợn con không ăn gì cả. Một lần Yă Chao mang những chiếc bầu đi lấy nước ở Ia Nueng về dính những hạt cát trắng thì bỗng nhiên chú lợn con đã liếm hết những hạt cát một cách ngon lành. Sửng sốt trước hiện tượng lạ, sau này Yă Chao cứ đi lấy cát trắng về cho chú lợn ăn và lớn nhanh như thổi. Sau 3 lần trăng tròn, chú lợn trắng lớn bằng con trâu to và khiến cả dân làng ngạc nhiên
Khi ấy dân làng làm nhà rông mới và sai người trong làng đi tìm một con lợn thật to để cúng Yàng và làm lễ ăn mừng. Sau khi sai người đi tìm kiếm khắp nơi nhưng không lấy đâu ra con lợn to như già làng mong muốn nên trở về nhà Yă Chao xin bắt con lợn trắng này để làm thịt. Yă Chao kiên quyết từ chối, dù có đổi bao nhiêu tài sản của dân làng cũng không chịu. Nhưng cuối cùng dân làng đã quyết cử 2 người to khỏe đến bắt cho bằng được con lợn trắng về làm thịt cúng Yàng và chia đều thịt cho các gia đình trong làng để ăn mừng. Riêng Yă Chao không nhận thịt và thề rằng: "Nếu tôi ăn thịt này thì đất sẽ động, Ia Nueng sẽ sụp lở". Nhưng đứa cháu của Yă Chao thấy thịt ngon đòi ăn và khóc cả ngày đêm nên bà không cầm được lòng mà phải cho đứa cháu ăn thịt lợn trắng. Bỗng chốc, trời đất, núi rừng rung chuyển, nhà cửa ngả nghiêng, vùi lấp cả dân làng. Hai bà cháu Yă Chao chạy nhưng không kịp nên bị nước nhấn chìm biến thành tượng đá dưới đáy hồ...
Ngoài ra, còn có chuyện kể rằng, hồ mang tên Tơ Nưng là tên một làng cổ trong huyền thoại. Chuyện kể về ngôi làng xưa to và đẹp lắm. Dân làng sống yên vui, hòa thuận lâu đời thì bỗng một hôm, ngọn núi lửa ập tới vùi lấp làng. Những người may mắn còn sống sót đã khóc thương cho làng mình, khóc cho người thân không ngớt, khiến nước mắt chảy thành suối, các suối đổ về thành hồ. Hồ mang tên Tơ Nưng là một kỷ niệm chung của làng cổ đó...
Về Biển Hồ ở Pleiku còn có nhiều huyền thoại khác như chuyện kể rằng hồ sâu không đáy và thông ra tận biển Đông. Từ đó có câu chuyện ví von về những người làm gỗ ở Gia Lai, họ chỉ cần thả những lóng gỗ xuống Biển Hồ, một đêm xuống cảng biển Quy Nhơn, Bình Định là có thể lấy gỗ đem bán...
Thực tế, Biển Hồ (hồ Tơ Nưng; IaNueng) nguyên là một miệng núi lửa đã ngừng hoạt động từ hàng trăm triệu năm qua. Sự rộng lớn mênh mông của hồ nước này tựa như biển khơi nên người dân địa phương đặt tên là Biển Hồ. Dẫu thiên nhiên khắc nghiệt, nắng hạn đến đâu nhưng từ trước đến giờ nước Biển Hồ này vẫn chưa bao giờ cạn. Biển Hồ là nơi cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho hàng chục ngàn người dân TP. Pleiku. Đây còn là nơi có nhiều tôm cá, phong cảnh xung quanh hồ rất xinh đẹp, mát mẻ quanh năm và là nơi hẹn hò thú vị của nhiều đôi nam nữ yêu đương.
Vừa qua đã được cộng đồng kỷ lục gia Việt Nam và bạn đọc Trang tin điện tử www.kyluc.vn đề cử là một trong 100 điểm đến hấp dẫn nhất Việt Nam (lần1, 2009) trong Hành trình S 100
Thác Chín Tầng
Thác Chín Tầng tại xã Ia Sao cách trung tâm huyện Ia Grai khoảng 16 km, cách TP. Pleiku khoảng 20 km, đường đi cơ bản đã được trải nhựa nên việc đi lại rất thuận lợi, dọc theo hai bên đường là những rẫy cà phê xanh ngút ngàn nằm thoai thoải bên các sườn đồi tạo nên một phong cảnh rất thơ mộng và hữu tình, không khí nơi đây thật dễ chịu và trong lành làm cho quãng đường đi dường như ngắn lại..
Thác Chín Tầng là dòng thác lớn bắt nguồn từ trên đỉnh núi cao đổ xuống với dòng chảy mạnh quyện vào vách đá tạo nên một âm thanh vang vọng giữa núi rừng trùng điệp.
Không biết tự bao giờ, thiên nhiên đã tạo nên vẻ đẹp hiếm có này. Dọc theo dòng thác là những vách đá gồ ghề, phân cấp chín tầng cao thấp khác nhau (đây chính là xuất xứ tên gọi “Thác Chín Tầng”), riêng 2 tầng cuối cùng độ cao khoảng 10-15m dựng đứng tạo nên dòng chảy mạnh, nước cuộn xoáy. Xung quanh thác là hệ sinh thái rừng còn khá nguyên sơ, góp phần tạo nên vẻ đẹp hoang dã và hùng vĩ của thác. Đây là một điểm dã ngoại cuối tuần lý tưởng và thú vị cho những đôi nam nữ, học sinh – sinh viên, khách du lịch trong và ngoài tỉnh muốn khám phá và tìm hiểu vẻ đẹp hoang sơ ,kì vĩ của thác cũng như của núi rừng Tây Nguyên.
ĐÈO MANGYANG
Không chỉ có thác nước đẹp, Gia Lai còn có nhiều đoạn đường đèo đẹp hùng vĩ. Người dân Gia Lai vẫn quen với tên gọi khá huyền thoại đèo Mang Yang là Cổng Trời (Mang tiếng Jrai có nghĩa là cổng-cửa, Yang tức là trời).
Quãng đường đèo không dài nhưng độ dốc đứng tạo cảm giác như lên tới trời xanh. Có lẽ vì đặc điểm này mà đèo này rất thích hợp với tên gọi đó.
Nếu ai từng lên phố núi Pleiku theo quốc lộ 19 và vào hai mùa mưa nắng đặc trưng của cao nguyên này, chắc hẳn sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước hai vẻ đẹp rất riêng, rất nên thơ của phong cảnh nơi đây. Nếu đến vào mùa nắng, bạn sẽ như lạc vào rừng cúc quì vàng rực rỡ dọc đoạn đường lên đến đỉnh trời. Và nếu là mùa mưa, bạn càng không khỏi ngỡ ngàng trước làn sóng nhấp nhô của cỏ tranh đuổi nhau trên sườn núi. Cảnh quan của Đèo Cổng Trời vừa hùng vĩ vừa nên thơ đã để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng du khách
KẾT LUẬN
Địa danh Gia Lai thể hiện quá rõ nét sự gắn bó lẫn nhau giữa các phương diện văn hóa, Lịch Sử và Địa Lý. Thường mang đặc trưng và có nguồn gốc từ tiếng nói, quan niệm của dân tộc Gia Rai, Bahnar.
Tìm hiểu về Địa Danh Gia Lai, ta có thêm được một nguồn kiến thức về tên gọi, cách đặt tên địa danh của chính những người dân tộc anh em trên đất nước mình.
Đây cũng là một nét văn hóa đẹp, rất Việt Nam mà chúng ta cần tôn trọng và gìn giữ.
CẢM ƠN CÔ ĐÃ CHÚ Ý THEO DÕI!!!
TÌM HIỂU VỀ ĐỊA DANH VĂN HÓA, LỊCH SỬ, ĐỊA LÝ
CỦA TỈNH GIA LAI
GVGD :Th.s Hoàng Thị Diệu Huyền
SVTH : Nguyễn Thị Thúy
Lớp : 09CDL
Địa danh là đối tượng nghiên cứu không chỉ riêng của ngành ngôn ngữ học mà còn của nhiều ngành khoa học khác như sử học, địa lý, khảo cổ, văn học,..Tuy nhiên, địa danh là một bộ phận đặc biệt của hệ thống từ vựng. Địa danh được dùng để đặt tên cho các đối tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt của trái đất. Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển, địa danh luôn luôn chịu sự tác động của quy luật ngôn ngữ. Do đó, nghiên cứu địa danh nói chung, địa danh Gia Lai nói riêng chính là nghiên cứu về cấu tạo, phương thức định danh, ý nghĩa của các yếu tố cũng như quy luật hình thành và biến đổi của địa danh; làm sáng tỏ mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại giữa địa danh với văn hóa, lịch sử, địa lý của vùng đất mà nó chào đời.
Là một tỉnh Bắc Tây Nguyên, diện tích tự nhiên 15.536,92 km2; phía Bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía Nam giáp tỉnh Đăk Lăk, phía Đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và phía Tây giáp Campuchia với 90 km đường biên giới Gia Lai là đầu mối giao thông quan trọng nối Tây nguyên với các tỉnh khu vực miền Trung và Đông Nam Bộ .
Bên cạnh sự hấp dẫn của thiên nhiên hùng vĩ, ở Gia Lai còn có nền văn hóa lâu đời đầm đà bản sắc núi rừng của đồng bào các dân tộc thiểu số, chủ yếu là Jarai và Bahnar. Điều này cũng được thể hiện rõ nét qua các địa danh được tìm hiểu trong bài.
ĐÔI NÉT VỀ GIA LAI
ĐỊA DANH VĂN HÓA CỦA GIA LAI
NÚI HÀM RỒNG
Địa danh Hàm Rồng cách trung tâm thành phố Pleiku hiện nay 11km về phía Nam có thể được ghi là Hdrung, Hgrông hoặc Hdrông. Ngọn núi cao 1.028m nói trên “có dạng hình nón cụt, khá cân đối nhưng nhìn từ phía hướng Thanh An (phía Tây Nam) ra, ta lại thấy ngọn núi này gần giống một con rồng, đầu hướng về phía Đông, thân trải dài trên cao nguyên phía Tây.
Hàm Rồng là biến âm từ cách gọi núi của người Jrai, Bahnar. Núi có hình dạng của một con rồng trải dài trên cao nguyên (nhìn từ phía Tây Nam lên).
trong văn hóa truyền thống Tây Nguyên, rồng không phải là một biểu tượng của quyền lực hay liên quan đến vẻ đẹp, sự trường cửu.
Theo những nguồn tư liệu của người Bahnar Hơdrông là từ đồng nghĩa với Jrai – tức người Jrai, đất Jrai. Hơdrông xưa được ước đoán là trung tâm của khu vực Pleiku và vùng phụ cận hiện nay – một vùng đất của người Jrai. Núi Hàm Rồng hiện nay từ trước vẫn được gọi là Chư (núi) Hdrung (với người Jrai) và Kông (núi) Hơdrông (với người Bahnar). Rất có thể, người xưa đã chọn ngọn núi vốn được tạo bởi núi lửa này để đặt, gọi tên cho nơi cư trú của cộng đồng Jrai.
Truyện cổ của người Bahnar kể rằng: Ngày xưa, khi mưa xuống cũng là lúc bỗng nhiên xuất hiện một loại sâu lạ trên mặt đất. Cả người Jrai và Bahnar ở vùng này đều lo sợ bởi loài vật ấy rất hung hãn trong việc phá hoại hoa màu. Họ đã cúng xin thần linh giúp đỡ nhưng sự việc chẳng những không như ý mà ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Năm này qua năm khác, lúa bắp bị sâu phá không thương tiếc. Để chống lại cái đói, người Jrai và Bahnar quyết định hợp quần lại với nhau để đánh sâu cứu lấy lúa bắp của mình…Trải bao khó khăn, vất vả và cả những mất mát hi sinh, con người đã đẩy lùi được sâu bọ.
Người ta kể rằng vùng đất là núi Hàm Rồng ngày nay chính là nơi sâu bị tiêu diệt nhiều nhất. Xác chúng chất thành gò, thành đồi, thành núi như bây giờ ta hằng thấy. Cũng có người lại kể rằng, bao nhiêu sâu bị thua trận đã tháo chạy tan tác đi khắp nơi. Duy nhất một con đầu đàn là không kịp thoát thân, đành nằm chết ở chỗ ấy, rồi lâu ngày, lâu tháng, lâu năm, xác nó biến thành núi đồi như ngày nay. Lại cũng có người nói, ngày đó, chỉ có một con sâu lạ khổng lồ đến quấy phá rồi bị giết chết, xác nó bị hóa thành dốc núi như bây giờ…
NÚI KON CHIÊNG (GIA LAI)
Mỗi năm một lần, trên đỉnh núi Kon Chiêng lại phát ra một vầng hào quang sáng rực. Dân làng bảo đó là lúc chiêng thần ra phơi...
Núi Kon Chiêng (thuộc xã Kon Chiêng) cách thị trấn Kon Dơng, huyện Mang Yang hơn 70 km về phía Nam. Và từ lâu, câu chuyện về chiêng thần trên ngọn núi này đã gây biết bao tò mò cho khách thập phương. Trong đời sống tâm linh của đồng bào Bahnar, Kon Chiêng là nơi linh thiêng, bởi đó là nơi trú ngụ của các vị thần linh và bộ chiêng thần.
Trong tiếng Bahnar, “Kon” có nghĩa là núi, “Chiêng” nghĩa là chiêng. Vì thế, núi Kon Chiêng là tên gọi gắn liền với bộ chiêng thần và tên xã cũng bắt nguồn từ đó. Truyền thuyết núi Kon Chiêng là câu chuyện tình rất cảm động của chàng Prây Tăm- con thần núi và nàng Nưỡyh xinh đẹp- con của vị thần núi Kon Chrã. Prây Tăm có một bộ chiêng thần mà không ai có được. Mỗi khi Prây Tăm đánh chiêng, âm thanh bay xa vang động cả núi rừng, khiến cả dân trong vùng và các thần linh đều say mê. Tuy nhiên, chuyện tình của họ kết thúc bởi lý do không đâu.
Trong một lần đùa giỡn, Nưỡyh hướng cây cung mà Prây Tăm đang cầm trên tay đưa vào ngực mình rồi bảo: “Anh giỏi săn bắn thú rừng, không có con vật nào có thể thoát khỏi mũi tên anh. Vậy, anh hãy thử bắn em có chết không?”.
Ngay tức khắc, mũi tên “định mệnh” cắm phập vào tim nàng Nưỡyh. Prây Tăm đưa xác nàng về núi Kon Chrã còn mình trở về núi Kon Chiêng rồi bay lên trời. Nhưng bộ chiêng thần của chàng vẫn còn nằm trên hang núi.
Mỗi năm một lần, bộ chiêng thần tự bay ra khỏi miệng hang núi để phơi, khi đó khắp cả vùng An Khê, Kông Chro và Quy Nhơn đều thấy ánh hào quang tỏa sáng cả vùng trời.
Bây giờ miệng hang đã bị sập, truyền thuyết về chiêng thần ra phơi hay khối đá quý phát sáng vẫn chưa ai rõ (?). Đặc biệt, việc người lạ lên núi Kon Chiêng đối với người dân làng như một điều cấm, họ sợ người ngoài lấy mất chiêng thần.
ĐỊA DANH LỊCH SỬ CỦA GIA LAI
Thành phố Pleiku
Pleiku hiện là tên của một trong hai cao nguyên rộng lớn nhất Tây Nguyên, đồng thời cũng là tên của thành phố tọa lạc trên chính cao nguyên này, là trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội của khu vực Bắc Tây Nguyên. Địa danh có nguồn gốc từ tên của một làng Jrai (plơi Aku). Trong tiếng Jrai, aku có nghĩa là cái đuôi, vì nguyên âm a đứng trước một phụ âm là âm câm, nên khi đọc nó không được thể hiện. Đến nay, mặc dù viết là Pleiku nhưng địa danh này vẫn được thống nhất hiểu là có nguồn gốc từ plơi Aku tức làng Đuôi.
Hiện, địa danh Pleiku được viết nhiều cách khác nhau. Ngoài cách viết quen thuộc là Pleiku như trong các văn bản từ thời thuộc Pháp, dưới chính quyền Sài Gòn (VNCH) và hiện địa phương vẫn sử dụng; còn có cách viết theo phiên âm tiếng Việt là Plây Cu; cũng có người đề nghị viết tách ra là Plei Ku với lý giải Plei là làng, Ku là cái đuôi. Trong logic lịch sử ngôn ngữ tộc người thì cách viết này không phù hợp. Vì plei / pơlei là danh từ chung chỉ làng của người Bahnar, mà bộ phận dân cư chủ yếu trên cao nguyên Pleiku lại là người Jrai, mà người Jrai thì lại gọi làng của mình là plơi chứ không phải là plei; có ý kiến đề nghị cách viết Plơi Aku nhưng không phổ biến.
Về nguồn gốc địa danh Pleiku, hiện có 2 truyền thuyết:
Truyền thuyết thứ nhất do Rơmah Del sưu tầm và dịch:
Ngày xưa ở làng Brel có 2 gia đình gả con cho nhau. Theo đúng tục lệ của người Jrai, sau khi lấy vợ, người chồng phải về ở rể suốt đời nên khi làm lễ cưới cô dâu phải lo mọi lễ vật.
Cưới được mấy hôm, cô dâu phải làm lễ tạ ơn cha mẹ chồng. Nàng giết một con lợn rất to và một con trâu đực. Hơn một tháng sau, người chồng phải làm lễ tạ ơn cha mẹ vợ tại làng mình. Vì là gia đình giàu có lại rất có uy tín nên anh em họ hàng và lũ làng kéo đến chia vui rất đông. Rượu ghè nhiều không đếm xuể. Già làng phân công những người có kinh nghiệm giết bò, còn việc thui và mổ heo thì giao cho lũ thanh niên. Chúng hí hửng vừa đùa giỡn, vừa xẻ thịt nướng ăn và ăn luôn cả cái đuôi lợn. Khi bày lễ vật ra cúng, không có đuôi lợn, người nhà lật đật xuống dưới gọi lũ thanh niên giết lợn khác. Nhưng cũng như lần trước, lần này vì quá đói chúng lại ăn mất cái đuôi. Cứ như thế, lục đục mãi đến tối buổi lễ mới bắt đầu.
Để trừng phạt lũ thanh niên đã ăn vụng đuôi lợn, già làng đặt tên làng này là plei Ku nghĩa là “cái đuôi” với dụng ý mỗi khi gọi đến tên làng thì bọn thanh niên phải xấu hổ vì hành động của mình.
Từ làng gốc đó, sau này plei Ku còn tách ra nhiều làng nhỏ: plơi Ku Roh, plơi Ku Tong, plơi Ku Blang…
Truyền thuyết thứ hai (do Ty Thông tin tỉnh Pleiku (VNCH) sưu tầm và công bố vào đầu thập niên 60 của thế kỷ XX):
Nhân một ngày hội lớn, người Jrai quần tụ quanh nhà rông để tộc trưởng cúng yang. Giữa lúc dân làng đang vui mừng nhảy múa quanh con trâu cúng yang, thì xảy ra một cuộc xô xát giữa 2 con trai tộc trưởng. Họ tranh nhau cái đuôi trâu, bởi theo phong tục của người Jrai, nếu ai chiếm được đuôi trâu để tế Trời - Đất là một vinh dự lớn.
Cuối cùng, người chiếm được đuôi trâu được lưu lại vùng đất này và đặt tên làng là Aku (cái đuôi) với dụng ý đề cao chiến thắng của mình. Người không chiếm được đuôi trâu phải dạt đi, lập các làng mới.
Người ta thường thiên về cách giải thích theo truyền thuyết thứ hai. Vì trên thực tế, các địa danh thường đề cao uy danh của cộng đồng, chứ không mấy khi gắn với những nguồn gốc bất lợi cho uy tín của bộ phân cư dân chủ thể.
Pleiku đã trở thành một địa danh tồn tại độc lập suốt gần một thế kỷ. Dù bắt đầu từ nghĩa gốc plơi Aku tức là làng đuôi, nhưng đến nay Pleiku đã được chấp nhận như một tên riêng và mang tải những giá trị riêng của nó. Lịch sử luôn vận động, mà lịch sử của các địa danh cũng không là ngoại lệ. Vậy hãy để cái tên Pleiku đã gắn với cả quá trình hình thành và phát triển của vùng đất này được tồn tại như nó đã tồn tại với tư cách là một địa danh - một tên riêng, với những giá trị lịch sử - văn hóa riêng chứ không đơn thuần chỉ được hiểu với nghĩa “Làng Đuôi”.
Thành phố Pleiku
THUNG LŨNG CHEO REO
Cheo Reo là thung lũng lớn nhất Tây Nguyên thuộc lưu vực sông Ba với diện tích gần 1.600 km2. Thung lũng do sông Ba và phụ lưu của nó là Ayn bồi đắp. Đây là vùng đất do người Gia Rai cư ngụ. Tương truyền từ những thế kỷ đầu công nguyên, các bộ tộc người Gia Rai đầu tiên đã đặt chân đến vùng đất ngã 3 sông này sinh cơ, lập nghiệp.
Đứng được trên vùng đất hoang vu hiểm trở công đầu phải kể đến hai vị tù trưởng là Chu và Ch`reo. Dưới sự cai quản của họ vùng đất này không ngừng phát triển, cư dân các nơi khác kéo đến lập nghiệp ngày một đông, hình thành những cộng đồng xã hội lớn gọi là Tơ-ring.
Trong lao động sản xuất và sinh hoạt thường ngày cư dân trong một tơ-ring thường có tập quán vần đổi công giúp nhau lúc khó khăn, hoặc trong những công việc đòi hỏi nhiều công cụ và lực lượng lao động lớn.
Sau khi hai vị tù trưởng qua đời để nhớ công ơn và tôn vinh người có công khai phá, tạo dựng vùng quê mới, đồng bào Gia Rai đã lấy tên hai vị đặt cho vùng ngã ba sông này là thung lũng Cheo Reo (phát âm lệch tên hai tù trưởng Chu và Ch`reo). Tên Cheo Reo tồn tại cho đến hôm nay.
So với 4 tỉnh cao nguyên thì Gia Lai được xem là vùng đất địa linh nhân kiệt. Đây là nơi khởi nghiệp của anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ. Đây cũng là nơi sinh ra anh hùng Núp. Cửa ngõ phía Đông của tỉnh Gia Lai là An Khê nằm bên dòng sông Ba.
Đứng trên đỉnh núi Kông-chơ-vi, huyện An Khê ta thấy một cánh đồng rộng 200 mẫu, tại xã Nghĩa An, huyện An Khê. Đây là cánh đồng bằng phẳng do bà Ya Đố lãnh đạo nhân dân khai phá. Ngày nay nhân dân địa phương gọi là cánh đồng bà Ya Đố.
Tương truyền khi Nguyễn Nhạc lên An Khê dựng cờ khởi nghĩa, đã lấy Ya Đố - nữ tù trưởng người Ba Na làng Đê H`Mâu làm vợ. Bà đã hết lòng vận động nhân dân địa phương ủng hộ nghĩa quân. Ngoài việc khai hoang 200 mẫu ruộng để sản xuất lương thực nuôi quân, bà còn xuống đồng bằng tìm các cây ăn trái về trồng.
Làng KaBRốt, huyện K`Bang là nơi có vườn cam do bà Ya Đố trồng rộng đến 20 mẫu. Từ khi có cam bà Ya Đố làng này được gọi là làng Cam. Tên làng tồn tại đến ngày nay. Những cây cam trên 200 tuổi vẫn còn ra trái.
Ngoài cam, hiện nay trên dãy núi Kông Chơ Vi còn hàng trăm cây mít cổ thụ do bà Ya Đố trồng. Đến nay chưa ai tính được bà Ya Đố, đồng bào Ba Na và các dân tộc Tây Nguyên đã đóng góp cho nghĩa quân Tây Sơn bao nhiêu người, voi, ngựa và lương thực thực phẩm. Chỉ biết rằng suốt thời gian đầu xây dựng sự nghiệp ở An Khê, nghĩa quân Tây Sơn đã nhận được sự đùm bọc yêu thương và giúp đỡ hết lòng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
Cũng tại làng S`Tơ huyện K`Bang, suốt hai cuộc kháng chiến anh hùng Núp đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn gian khổ, lập làng chiến đấu, đánh giặc giữ làng, giữ nước.
Khi sinh thời cứ vào dịp giỗ trận Đống Đa, mồng 5 Tết Anh hùng Núp lại tìm về dự lễ Quang Trung được tổ chức ở Tây Sơn Thượng - Đạo An Khê.
ĐỊA DANH TỰ NHIÊN CỦA GIA LAI
Hồ Tơ Nueng (Biển Hồ- Pleiku)
Biển Hồ còn gọi là Hồ Tơ Nueng- tên một làng cổ trong huyền thoại, là một thắng cảnh thiên nhiên đã được Bộ Văn hóa- Thông tin ( nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng Di tích thắng cảnh vào ngày 16/11/1988.
Những du khách đến Gia Lai và ghé thăm Biển Hồ Pleiku bên phố núi thơ mộng, ai cũng đều khen ngợi thắng cảnh có một không hai trên cao nguyên Gia Lai. Cảnh đẹp của Biển Hồ mà thiên nhiên ban tặng ở đây có lẽ ai cũng dễ dàng nhận thấy, nhưng xung quanh thắng cảnh hữu tình ấy còn có nhiều câu chuyện khá thú vị mà không phải ai cũng biết đến.
Theo truyện cổ dân gian của dân tộc Jơ Rai kể về sự tích Ia Nueng (Biển Hồ) khi xưa là bến nước uống chung của làng người Jơ Rai. Nước ở bến Ia Nueng rất xanh trong, soi rõ mặt người. Một hôm, trên đường đi đến bến Ia Nueng để lấy nước, có hai người dân trong làng là Yă Pôm và Yă Chao phát hiện một con heo trắng rất đẹp. Yă Chao đã bắt con lợn trắng xinh đẹp kia về nuôi ở nhà mình.
Hằng ngày, Yă Chao chăm sóc cho lợn trắng đủ thức ăn ngon nhưng chú lợn con không ăn gì cả. Một lần Yă Chao mang những chiếc bầu đi lấy nước ở Ia Nueng về dính những hạt cát trắng thì bỗng nhiên chú lợn con đã liếm hết những hạt cát một cách ngon lành. Sửng sốt trước hiện tượng lạ, sau này Yă Chao cứ đi lấy cát trắng về cho chú lợn ăn và lớn nhanh như thổi. Sau 3 lần trăng tròn, chú lợn trắng lớn bằng con trâu to và khiến cả dân làng ngạc nhiên
Khi ấy dân làng làm nhà rông mới và sai người trong làng đi tìm một con lợn thật to để cúng Yàng và làm lễ ăn mừng. Sau khi sai người đi tìm kiếm khắp nơi nhưng không lấy đâu ra con lợn to như già làng mong muốn nên trở về nhà Yă Chao xin bắt con lợn trắng này để làm thịt. Yă Chao kiên quyết từ chối, dù có đổi bao nhiêu tài sản của dân làng cũng không chịu. Nhưng cuối cùng dân làng đã quyết cử 2 người to khỏe đến bắt cho bằng được con lợn trắng về làm thịt cúng Yàng và chia đều thịt cho các gia đình trong làng để ăn mừng. Riêng Yă Chao không nhận thịt và thề rằng: "Nếu tôi ăn thịt này thì đất sẽ động, Ia Nueng sẽ sụp lở". Nhưng đứa cháu của Yă Chao thấy thịt ngon đòi ăn và khóc cả ngày đêm nên bà không cầm được lòng mà phải cho đứa cháu ăn thịt lợn trắng. Bỗng chốc, trời đất, núi rừng rung chuyển, nhà cửa ngả nghiêng, vùi lấp cả dân làng. Hai bà cháu Yă Chao chạy nhưng không kịp nên bị nước nhấn chìm biến thành tượng đá dưới đáy hồ...
Ngoài ra, còn có chuyện kể rằng, hồ mang tên Tơ Nưng là tên một làng cổ trong huyền thoại. Chuyện kể về ngôi làng xưa to và đẹp lắm. Dân làng sống yên vui, hòa thuận lâu đời thì bỗng một hôm, ngọn núi lửa ập tới vùi lấp làng. Những người may mắn còn sống sót đã khóc thương cho làng mình, khóc cho người thân không ngớt, khiến nước mắt chảy thành suối, các suối đổ về thành hồ. Hồ mang tên Tơ Nưng là một kỷ niệm chung của làng cổ đó...
Về Biển Hồ ở Pleiku còn có nhiều huyền thoại khác như chuyện kể rằng hồ sâu không đáy và thông ra tận biển Đông. Từ đó có câu chuyện ví von về những người làm gỗ ở Gia Lai, họ chỉ cần thả những lóng gỗ xuống Biển Hồ, một đêm xuống cảng biển Quy Nhơn, Bình Định là có thể lấy gỗ đem bán...
Thực tế, Biển Hồ (hồ Tơ Nưng; IaNueng) nguyên là một miệng núi lửa đã ngừng hoạt động từ hàng trăm triệu năm qua. Sự rộng lớn mênh mông của hồ nước này tựa như biển khơi nên người dân địa phương đặt tên là Biển Hồ. Dẫu thiên nhiên khắc nghiệt, nắng hạn đến đâu nhưng từ trước đến giờ nước Biển Hồ này vẫn chưa bao giờ cạn. Biển Hồ là nơi cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho hàng chục ngàn người dân TP. Pleiku. Đây còn là nơi có nhiều tôm cá, phong cảnh xung quanh hồ rất xinh đẹp, mát mẻ quanh năm và là nơi hẹn hò thú vị của nhiều đôi nam nữ yêu đương.
Vừa qua đã được cộng đồng kỷ lục gia Việt Nam và bạn đọc Trang tin điện tử www.kyluc.vn đề cử là một trong 100 điểm đến hấp dẫn nhất Việt Nam (lần1, 2009) trong Hành trình S 100
Thác Chín Tầng
Thác Chín Tầng tại xã Ia Sao cách trung tâm huyện Ia Grai khoảng 16 km, cách TP. Pleiku khoảng 20 km, đường đi cơ bản đã được trải nhựa nên việc đi lại rất thuận lợi, dọc theo hai bên đường là những rẫy cà phê xanh ngút ngàn nằm thoai thoải bên các sườn đồi tạo nên một phong cảnh rất thơ mộng và hữu tình, không khí nơi đây thật dễ chịu và trong lành làm cho quãng đường đi dường như ngắn lại..
Thác Chín Tầng là dòng thác lớn bắt nguồn từ trên đỉnh núi cao đổ xuống với dòng chảy mạnh quyện vào vách đá tạo nên một âm thanh vang vọng giữa núi rừng trùng điệp.
Không biết tự bao giờ, thiên nhiên đã tạo nên vẻ đẹp hiếm có này. Dọc theo dòng thác là những vách đá gồ ghề, phân cấp chín tầng cao thấp khác nhau (đây chính là xuất xứ tên gọi “Thác Chín Tầng”), riêng 2 tầng cuối cùng độ cao khoảng 10-15m dựng đứng tạo nên dòng chảy mạnh, nước cuộn xoáy. Xung quanh thác là hệ sinh thái rừng còn khá nguyên sơ, góp phần tạo nên vẻ đẹp hoang dã và hùng vĩ của thác. Đây là một điểm dã ngoại cuối tuần lý tưởng và thú vị cho những đôi nam nữ, học sinh – sinh viên, khách du lịch trong và ngoài tỉnh muốn khám phá và tìm hiểu vẻ đẹp hoang sơ ,kì vĩ của thác cũng như của núi rừng Tây Nguyên.
ĐÈO MANGYANG
Không chỉ có thác nước đẹp, Gia Lai còn có nhiều đoạn đường đèo đẹp hùng vĩ. Người dân Gia Lai vẫn quen với tên gọi khá huyền thoại đèo Mang Yang là Cổng Trời (Mang tiếng Jrai có nghĩa là cổng-cửa, Yang tức là trời).
Quãng đường đèo không dài nhưng độ dốc đứng tạo cảm giác như lên tới trời xanh. Có lẽ vì đặc điểm này mà đèo này rất thích hợp với tên gọi đó.
Nếu ai từng lên phố núi Pleiku theo quốc lộ 19 và vào hai mùa mưa nắng đặc trưng của cao nguyên này, chắc hẳn sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước hai vẻ đẹp rất riêng, rất nên thơ của phong cảnh nơi đây. Nếu đến vào mùa nắng, bạn sẽ như lạc vào rừng cúc quì vàng rực rỡ dọc đoạn đường lên đến đỉnh trời. Và nếu là mùa mưa, bạn càng không khỏi ngỡ ngàng trước làn sóng nhấp nhô của cỏ tranh đuổi nhau trên sườn núi. Cảnh quan của Đèo Cổng Trời vừa hùng vĩ vừa nên thơ đã để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng du khách
KẾT LUẬN
Địa danh Gia Lai thể hiện quá rõ nét sự gắn bó lẫn nhau giữa các phương diện văn hóa, Lịch Sử và Địa Lý. Thường mang đặc trưng và có nguồn gốc từ tiếng nói, quan niệm của dân tộc Gia Rai, Bahnar.
Tìm hiểu về Địa Danh Gia Lai, ta có thêm được một nguồn kiến thức về tên gọi, cách đặt tên địa danh của chính những người dân tộc anh em trên đất nước mình.
Đây cũng là một nét văn hóa đẹp, rất Việt Nam mà chúng ta cần tôn trọng và gìn giữ.
CẢM ƠN CÔ ĐÃ CHÚ Ý THEO DÕI!!!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thanh Thúy
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)