đế quốc ốttôman
Chia sẻ bởi Cao Nam Long |
Ngày 27/04/2019 |
65
Chia sẻ tài liệu: đế quốc ốttôman thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
ĐẾ QUỐC ỐTTÔMAN
NGUYỄN NHẬT LONG-10S
QUỐC KỲ
ỐTTÔMAN
QUỐC HUY
Lịch sử
I. Nguồn gốc
Các tổ tiên của triều đại Ottoman là một phần của các bộ lạc người Thổ Nhĩ Kỳ miền tây đã di cư từ Trung Á bắt đầu từ thế kỷ 10. Định cư tại Ba Tư trong thời kỳ này, những người Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu mở rộng về phía tây tới Armenia và Tiểu Á vào đầu thế kỷ 11. Những đợt di chuyển này đã dẫn đến mâu thuẫn giữa họ với đế quốc Byzantine, từng là một quyền lực chính trị nổi trội tại khu vực miền đông Địa Trung Hải kể từ thời kỳ La Mã, nhưng vào thế kỷ 11 bắt đầu một thời kỳ suy thoái dài. Người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk đã thiết lập địa vị chắc chắn tại Tiểu Á sau chiến thắng lịch sử tại trận Manzikert năm 1071, để thành lập Nhà Seljuk ở Tiểu Á. Tiếp theo sự xâm lăng của người Mông Cổ tới Tiểu Á trong thế kỷ 13, triều đại này đã sụp đổ và lãnh thổ của nó đã bị phân chia thành nhiều tiểu công quốc nhỏ của người Thổ Nhĩ Kỳ, được gọi là các Beylik.
Dưới quyền bá chủ của Nhà Seljuk ở Tiểu Á, bộ lạc Kayı của người Thổ Nhĩ Kỳ Oğuz đã tạo ra một thể chế mà cuối cùng đã trở thành Ottoman Beylik tại miền tây Tiểu Á. Thủ lĩnh của người Kayı là Ertuğrul Gazi đã nhận được vùng đất này sau lưng Seljuk trong cuộc va chạm biên giới nhỏ. Hệ thống Seljuk tạo cơ hội cho sự bảo vệ Beylik từ bên ngoài, và cũng cho phép nó phát triển cấu trúc nội tại của nó. Vị trí của Kayı trên ven rìa phía viễn tây của nhà nước Seljuk cho phép họ xây dựng lực lượng quân sự của mình thông qua sự hợp tác với các dân tộc khác sống tại miền tây Tiểu Á, nhiều trong số đó là những người theo Kitô giáo. Sau sự tan rã của nhà Seljuk, Kayı trở thành chư hầu của Hãn quốc Y Nhi thuộc người Mông Cổ.
II. Khởi đầu (1299-1326)
Tên gọi Ottoman có nguồn gốc từ Osman I (còn gọi là Osman Bey) (tiếng Ả Rập: Uthman) (1299-1326), con trai của Ertuğrul Gazi, người đã trở thành Bey đầu tiên khi ông tuyên bố độc lập của nhà nước Ottoman năm 1299. Trong khi các Beylik khác của người Thổ Nhĩ Kỳ còn phải bận tâm với các mâu thuẫn nội bộ, Osman I đã có thể mở rộng biên giới của khu định cư Ottoman về phía rìa của đế quốc Byzantine. Ông đã chuyển thủ đô của Ottoman tới Bursa, và định hình sự phát triển chính trị ban đầu của dân tộc. Người ta gọi ông với tên hiệu "Kara" vì sự can đảm của ông, Osman I đã được ca ngợi như là một vị hoàng đế hùng mạnh và năng động một thời gian rất dài sau khi ông mất, như được thể hiện trong thành ngữ của người Thổ Nhĩ Kỳ "Ông/anh ta có thể tuyệt vời như Osman". Danh tiếng của ông cũng được đánh bóng trong câu chuyện thời Trung Cổ của người Thổ Nhĩ Kỳ, được biết dưới tên gọi "Giấc mơ của Osman", một sự thành lập huyền thoại trong đó chàng trai trẻ Osman là người có đầy năng lực để chinh phục một đế quốc nhìn thấy trước.
Thời kỳ này là sự hình thành của chính quyền Ottoman chính thức mà các cơ quan, tổ chức cấu thành ra nó gần như không thay đổi lớn gì trong gần 4 thế kỷ. Ngược lại với nhiều nhà nước cùng thời kỳ đó, hệ thống quan lại của đế quốc Ottoman đã cố gắng tránh sự cai trị theo kiểu quân sự. Chính quyền cũng tạo ra một thể chế pháp lý gọi là millet (kiểu lãnh thổ tự trị), mà trong đó thiểu số từ các dân tộc ít người và tôn giáo có khả năng quản lý công việc của chính họ với một sự độc lập đáng kể từ sự kiểm soát của trung ương.
Trong thế kỷ sau khi Osman I qua đời, sự thống trị của Ottoman đã bắt đầu mở rộng trên toàn khu vực miền đông Địa Trung Hải và Balkan. Thessaloniki, một thành phố quan trọng của Venezia bị chiếm năm 1387, và chiến thắng của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Trận Kosovo năm 1389 làm cho Serbia mất quyền kiểm soát trên vùng đất này, mở đường cho các cuộc xâm lược châu Âu của Ottoman. Trận Nicopolis năm 1396 được xem là cuộc Thập tự chinh cuối cùng của thời Trung Cổ, trong trận này quân Thập tự chinh đại bại trước quân Ottoman. Với sự mở rộng ảnh hưởng của người Thổ Nhĩ Kỳ vào vùng Balkan, thì cuộc chinh phục chiến lược vào Constantinople đã trở thành mục tiêu quyết định. Đế quốc đã chiếm được các vùng đất Byzantine phụ cận Constantinople, nhưng người Byzantine vẫn đứng vững được khi Tamerlane xâm lược Tiểu Á, và bỏ tù hoàng đế Bayezid I sau trận Ankara năm 1402. Các lãnh thổ Ottoman ở vùng Balkan (điển hình như Thessaloniki, Macedonia và Kosovo) đều bị mất năm 1402, nhưng các vùng đất này được Murad II chiếm lại trong thập niên 1430 - 1450.
Việc Bayezid bị bắt làm cho nước Thổ bị loạn lạc. Từ năm 1402 đến 1413, nhà nước này rơi vào một cuộc nội chiến giữa các con của Bayezid để giành quyền kế vị. Cuộc chiến kết thúc khi Mehmed I lên ngôi hoàng đế và xây dựng lại quyền lực Ottoman, kết thúc Thời kì đứt quãng. Cháu nội ông, Mehmed II đã tái cấu trúc của cả nhà nước lẫn quân đội, và đã thể hiện các kỹ năng quân sự của mình trong cuộc chiếm đóng Constantinople vào ngày 29 tháng 5 năm 1453, khi mới 21 tuổi. Thành phố này trở thành thủ đô mới của đế chế Ottoman, và Mehmed II xưng làm Kayser-i Rum (Hoàng đế La Mã). Dù vậy, địa vị này của ông không được người Hy Lạp và các nước phương Tây công nhận, và các Sa hoàng Nga cũng tự phong cho mình địa vị này. Để nắm vững địa vị này, Mehmed II khao khát chiếm Roma, và cho quân xâm lược Bán đảo Ý, chiếm Otranto và Apulia ngày 28 tháng 7, 1480. Nhưng sau khi Mehmed II qua đời ngày 5 tháng 3, 1481, chiến dịch ở Ý thất bại và quân đội Ottoman rút lui về.
III. Lớn mạnh (1453-1683)
Vào thời lớn mạnh, đế quốc Ottoman đã trải dài toàn bộ đông-nam châu Âu bờ bắc Địa Trung Hải, cả bờ biển bắc châu Phi cho đến Maroc phía nam Địa Trung Hải. Trong thế kỷ 17, đế quốc Ottoman có khoảng 25 triệu dân – một con số khổng lồ vào thời đó, gần bằng gấp đôi bất cứ nước nào ở châu Âu ngoại trừ Pháp. Gần 30 quốc gia hiện nay đã được thành lập từ lãnh thổ cũ của đế quốc Ottoman: Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Bulgaria, Romania, Nam Tư (sau này phân làm 5 nước độc lập), Hungary, Albania, Syria, Liban, Jordan, Israel, Aden, Kuwait, Ai Cập, Sudan, Libya, Iraq, Yemen, Tunisia, Algérie, Kypros, Armenia, Gruzia và một phần nước Nga.
Vào đầu thế kỷ 16, đế quốc Ottoman trở thành một trong những đế chế vĩ đại nhất thế giới thời bấy giờ. Đế quốc được trị vì bởi nhiều hoàng đế lỗi lạc. Hoàng đế Selim I (1512-1520), được xem là một trong những chiến binh Ottoman vĩ đại nhất. Ông là người đã đi chinh phạt vùng Trung Đông. Vào năm 1514 trong trận Chaldiran, ông đã đánh bại quốc vương Shah Ismail I (1501-1524) của nhà Safavid ở Ba Tư. Ông đã tiêu diệt nhà Mamluk ở Ai Cập vào năm 1517 rồi dành danh hiệu Khalip đạo Hồi từ dòng họ Abbasid ở Cairo (các vị hoàng đế giữ danh hiệu này đến năm 1924), bắt đầu thời kì Ai Cập thuộc Ottoman.
Người thừa kế Selim, Suleyman I (1520-1566) tiếp tục mở mang đế quốc. Sau khi thôn tính Beograd năm 1521, Suleyman xâm lược Vương quốc Hungary và sau chiến thắng trong trận Mohács năm 1526, đế quốc Ottoman chiếm được Hungary và nhiều vùng đất ở Trung Âu. Sau đó, năm 1529 ông bao vây Wien, nhưng vì thời tiết ở đây khắc nghiệt nên quân đội ông rút lui.[2] Năm 1532, 25.000 quân Ottoman mở cuộc tấn công Wien, nhưng bị đẩy lui cách Wien 60 mile (97 km) tại pháo đài Guns. Sau cuộc mở mang xa nhất của Ottoman năm 1543, hoàng đế Habsburg là Ferdinand công nhận quyền cai trị của Ottoman trên đất Hungary năm 1547. Dưới triều đại Suleyman I, Transylvania, Wallachia và Moldavia trở thành những công quốc chư hầu của đế quốc. Ở phía đông, Ottoman chiếm Bagdad từ tay Ba Tư năm 1535, chiếm được Lưỡng Hà và hải quân Ottoman tiến vào Vịnh Ba Tư. Khi thời đại Suleyman kết thúc, dân số Ottoman lên đến 15.000.000 người.[3]
Mehmet II v d?i quõn chi?n th?ng t?i Constantinople(1453)
Bản đồ đế quốc ốttôman(1683)
Trận Mohács (1526)
Hạm đội Ottoman do Barbarossa Hayreddin Pasha chỉ huy đánh thắng hạm đội Liên minh Thần thánh ở châu Âu (do Andrea Doria chỉ huy) của Hoàng đế La Mã thần thánh Karl V (1519-1556) tại Trận Preveza năm 1538.
Hạm đội Liên minh Thần thánh do Don Juan nước Áo, em khác mẹ vua Tây Ban Nha Felipe II đánh tan hạm đội Ottoman (do Muezzinzade Ali Pasha - con rể hoàng đế Selim II và Kilic Ali Pasha chỉ huy) trong trận Lepanto năm 1571.
Quân đội Ottoman đã để lại những nhà nguyện Hồi giáo rải rác khắp các sườn đồi và thung lũng vùng Balkan. Nổi giận vì những biểu hiện cho việc chiếm đóng của người đạo Hồi này, các vương quốc theo đạo Cơ đốc ở Tây Âu xem người Thổ Nhĩ Kỳ là kẻ xâm lược Hy Lạp và các sắc dân theo Cơ đốc giáo khác. Nhưng đế quốc Ottoman rộng lượng hơn, chấp nhận tôn giáo khác với đạo Hồi. Hoàng đế chính thức công nhận Giáo hội Hy Lạp và giáo khu của giáo chủ và các tổng giám mục, cho phép các giáo đường Chính thống giáo được duy trì tài sản của họ. Người Thổ Nhĩ Kỳ thích cai trị qua định chế chính trị địa phương, và để đổi lại cho tiền triều cống, các tỉnh Cơ đốc giáo được phép duy trì các hệ thống hành chính, thứ bậc và giai cấp.
IX.Các cuộc nổi dậy và phục hồi (1566-1683)
Năm 1571, Chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ-Venezia (1571-1573) nổ ra, quân Ottoman xâm chiếm đảo Síp. Hạm đội Liên minh Thần thánh (bao gồm Venezia, Tây Ban Nha, Savoie,...) và Hạm đội Ottoman sáp chiến tại Lepanto. Quân liên minh đã dành được một chiến thắng quan trọng trước Ottoman.
Trong thời gian này, đế quốc Ottoman thường hay giao chiến với đế quốc Ba Tư láng giềng. Người Ba Tư Safavid theo dòng Shi`ite và tin mình là con cháu của Imam Ali bin Abu Talib, trong khi người Thổ Ottoman theo dòng Sunni. Đầu thế kỷ 17, người Safavid tấn công lãnh thổ Ottoman ở Iraq
Trong thế kỷ 16 và 17, đế quốc Ottoman là một trong những thực thể chính trị mạnh nhất thế giới, các nước mạnh ở Đông Âu luôn bị đe dọa bởi sự mở rộng thường xuyên của nó qua Balkan và phần phía nam của Liên bang Ba Lan-Lithuania. Hải quân của nó cũng là một lực lượng rất mạnh ở Địa Trung Hải. Nhiều lần, quân đội Ottoman đã tấn công Trung Âu, bao vây Wien năm 1529 và một lần nữa năm 1683 trong nỗ lực chinh phục lãnh địa của đế quốc Habsburg, và cuối cùng chỉ bị đẩy lui bởi một liên minh to lớn của các nước mạnh tại châu Âu trên cả trên bộ và trên biển. Nó là quyền lực duy nhất không thuộc châu Âu đã thách thức được sự nổi lên về quyền lực của phương Tây trong khoảng giữa thế kỷ 15 và thế kỷ 20, tới mức nó đã trở thành một phần trong tổng thể của chính trị cân bằng quyền lực châu Âu, vì thế làm giảm bớt sự khác biệt giữa hai bên.
Năm 1656, dưới triều hoàng đế Mehmed IV (1648-1687), trong khi đế quốc gần bị sụp đổ, hậu cung đành phải cử một người Albania 71 tuổi, Köprülü Mehmed Pasha làm tể tướng (1656-1661). Ông này ra lệnh xử tử 50.000-60.000 người để bài trừ tham nhũng. Năm năm sau, lúc ông qua đời, tình hình có phần ổn định. Dưới quyền tể tướng của con trai ông, Köprülü Fazıl Ahmed Pasha (1661-1676), và sau đó em rể ông, Kara Mustafa Pasha (1676-1683), uy quyền của Ottoman được hồi phục. Các hạm đội và quân của Venezia, Ba Lan, Áo và Nga bị đẩy lui. Quân đội Ottoman xâm chiếm Ukraine và Podolia. Năm 1680, đế quốc Ottoman đã đạt tới lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử đế quốc (11.5 triệu km²).
Cuộc bao vây thành Wien lần 2, năm 1683.
Năm 1683, đáp lời kêu gọi của Hungary chống lại Hoàng đế Leopold I nhà Habsburg, Mehmed IV đã ra lệnh cho tể tướng Kara Mustafa phái 200.000 quân ngược dòng sông sông Donau, và lần thứ hai trong lịch sử, quân Ottoman tiến đến chân tường thành của Wien, nhưng cuối cùng bị liên minh các nước Tây Âu (Liên minh Thần thánh), do vua Ba Lan Jan III Sobieski chỉ huy, đánh bại. Hoàng đế Mehmed IV ra lệnh thắt cổ tể tướng Kara Mustafa. Trận Wien đánh dấu sự bắt đầu của cuộc Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ (1683-1699) ở châu Âu.
Trong những năm tiếp theo, quân Ottoman bị đại bại do sức tiến công từ Wien. Quân Venezia công hãm Athena, nhưng không may là trong đợt pháo kích của họ, một quả đạn rơi trúng ngôi đền Parthenon được xây vào thế kỷ 5 TCN, lúc ấy được quân Ottoman dùng làm kho chứa thuốc súng. Ngày 26 tháng 9 năm 1687, ngôi đền lúc ấy còn khá nguyên vẹn bị nổ tung, để lại tình trạng cho đến bây giờ
Cuộc đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc với Hiệp ước Karlowitz ngày 26 tháng 1 năm 1699, và theo hiệp ước này Ottoman phải nhượng cho Áo một số vùng lãnh thổ như Hungary thuộc Ottoman.[4]
Trong thời kì này, chỉ có hai hoàng đế cai trị rất năng nổ, đó là:Murad IV (1612-1640) chiếm lại Yerevan (1635) và Bagdad (1639) từ tay người Safavid và cai trị một cách độc đoán.[5] Mustafa II (1695-1703) mở cuộc tấn công nhà Habsburg ở Hungary trong các năm 1695-96, nhưng phải rút về sau khi thảm bại tại Zenta (11 tháng 9, 1697).[6]
V.Trì trệ và cải tổ (1699-1827)
Trong thời kỳ trì trệ này nhiều vùng đất ở Balkan bị nhượng lại cho người Áo. Những vùng đất khác của đế quốc, như Ai Cập và Algérie được độc lập trên thực tế và sau đó nằm dưới sự ảnh hưởng của đế quốc Anh và Pháp. Vào thế kỷ 18, chính quyền trung ương đã cho các lãnh đạo và thủ lĩnh địa phương nhiều mức tự quyết hơn. Một loạt các cuộc chiến đã diễn ra giữa đế chế Nga và đế chế Ottoman từ thế kỉ từ 17 đến thế kỉ thứ 19.
Vào giai đoạn sau của thời kỳ trì trệ, xuất hiện những cải tổ về nền giáo dục và công nghệ, bao gồm sự thiết lập những trường học lớn như Đại học công nghệ Istanbul; khoa học công nghệ được ghi nhận là đạt đỉnh cao ở thời Trung Cổ, đó là kết quả của việc các học giả Ottoman kết hợp cách học cổ điển với Triết học Hồi giáo và toán học cũng như các kiến thức tiên tiến về công nghệ của Trung Hoa như thuốc súng và la bàn. Tuy nhiên, cũng chính trong giai đoạn này, các thế lực bảo thủ và phản đối công nghệ xuất hiện. Hội đoàn các nhà văn của đế chế cho rằng kỹ thuật in ấn là "sáng tạo của quỷ dữ" khiến công nghệ in, được Gutenberg Johannes phát minh ở châu Âu năm 1450, phải mất 43 năm sau mới được giới thiệu tại Constantinople nhờ vào những người Do thái Sephardic. Những người Do Thái Sephardic, vốn sống ở Tây Ban Nha, di cư tới đế quốc Ottoman để trốn chạy cuộc thanh giáo tại Tây Ban Nha vào năm 1492 và mang theo kỹ nghệ in tới Ottoman.
Thời kì Tulip, được đặt tên vì tình yêu của hoàng đế Ahmed III (1703-1730) với hoa tulip và được dùng như biểu tượng của triều đại thanh bình của ông. Trong giai đoạn này, chính sách của đế chế với châu Âu có sự thay đổi. Đất nước thanh bình từ năm 1718 đến 1730, sau khi Ottoman thắng Nga trong Chiến dịch Pruth năm 1712 và hiệp định Passarowits được ký kết sau đó mang đến một giai đoạn đình chiến. Đế quốc này sau đó đang cải thiện hệ thống thành lũy ở các thành phố tiếp giáp các nước Balkan như một hành động phòng vệ chống lại chủ nghĩa bành trướng của Châu Âu. Một số cải cách không dứt khoát cũng được tiến hành: hạ thuế; cải thiện hình ảnh của các bang Ottoman; hình thái đầu tiên của đầu tư tư nhân và doanh nghiệp tư nhân xuất hiện.
Nỗ lực cải tổ quân sự Ottoman được bắt đầu với hoàng đế Selim III (1789-1807), người đưa ra những nỗ lực lớn đầu tiên để hiện đại hóa quân đội gần biên giới Châu Âu. Những nỗ lực này, tuy vậy, đã bị cản trở bởi phong trào phản kháng bắt nguồn một phần từ các lãnh đạo tôn giáo và chủ yếu từ các cảnh sát binh đoàn Janissary, những người đã trở thành vô chính phủ và rất có quyền lực. Tham vọng giữ lại đặc quyền của mình và phản đối cải cách, họ tiến hành cuộc Khởi nghĩa Janissary. Những nỗ lực của Selim đã khiến ông mất đi ngai vàng và cả mạng sống.Tuy nhiên, vấn đề với các Janissary sau đó đang được giải quyết với thương thức hết sức đẫm máu bởi 1 trong những người kế tục ông, hoàng đế năng nổ Mahmud II (1808-1839), người mà đã tiến hành thảm sát rồi giải tán quân đoàn Janissary năm 1826.
VI.Suy vong và hiện đại hóa (1828-1908)
Mahmud II (1808-1839) hiện đại hoá Đế quốc Ottoman vào năm 1839, đề xướng kế hoạch cải cách Tanzimat. Đế quốc Thổ Ottoman đã phương Tây đại hóa về trang phục, văn hóa, giáo dục...
VII.Tan rã (1908-1923)
VI Vahdettin thoái vị, và Mustafa Kemal Atatürk thành lập nước Cộng hòa Thổ Đầu thế kỷ 20, một nhóm người cải cách đòi hỏi phải đổi mới và hiện đại hóa nước Thổ, gọi là Những người Thổ trẻ. Năm 1909, họ lật đổ hoàng đế Abdulhamid II, nhưng họ đã làm cho Đế quốc Ottoman tan rã vì tập trung quyền lực Thổ Nhĩ Kỳ bất chấp sự phiền muộn của các dân tộc thuộc Ottoman ở Syria, Ả Rập, Albania, Bosnia và Herzegovina, Crete, Macedonia và Tripoli.
Với sự bùng nổ của Đế nhất thế chiến năm 1914, người Ottoman vẫn cỏn cai trị phần lớn vùng Trung Đông, và về phe Liên minh trung tâm (đế quốc Đức, đế quốc Áo-Hung,...), phe này thua trận. Các dân tộc Trung Đông nổi dậy, và theo phe Entente (Nga, Anh, Pháp, Hoa Kỳ...) để giành độc lập.
Sự tan rã của đế chế Ottoman là hậu quả trực tiếp của Đệ nhất thế chiến, khi phe Entente đánh bại phe Liên minh Trung tâm ở châu Âu cũng như các lực lượng Ottoman tại Mặt trận Trung Đông. Ở thời điểm kết thúc chiến tranh từ năm 1918, chính quyền nhà nước Ottoman sụp đổ và đế quốc bị Anh, Hy Lạp, Pháp Ý, Armenia và Gruzia chinh phạt và phân chia. Những năm sau đó các nước mới độc lập từ Ottoman tuyên bố thành lập và năm 1919, Mustafa Kemal Atatürk và lực lượng Cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu cuộc chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1923, lực lượng cách mạng Thổ thắng trận và Thổ Nhĩ Kỳ được độc lập. Cùng năm đó, đế quốc Ottoman cáo chung, hoàng đế Mehmed Nhĩ Kỳ, dựa trên một phần lãnh thổ của đế quốc Ottoman.
Các thành viên của gia đình Osmanlı cai trị sau đó đã bị trục xuất khỏi Thổ Nhĩ Kỳ vào khoảng năm 1923-1924. Năm 1924, chế độ khalip bị bãi bỏ, khalip Ottoman Abdulmecid II bị lật đổ. Năm 1974, sau 50 năm, Nghị viện Thổ Nhĩ Kỳ đã trao quyền tái yêu cầu quyền công dân Thổ Nhĩ Kỳ cho những con cháu của dòng họ này, và họ đều đã thực hiện điều đó trong những thập kỷ tiếp sau trong một quá trình đã hoàn thành với việc người đứng đầu dòng họ Ertuğrul Osman V đã được trao quyền công dân năm 2004.
VIII.Xã hội chính trị
Dân cư sinh sống trên lãnh thổ Ottoman chủ yếu theo đạo Hồi, và sắc tộc chính là người Thổ Ottoman, kế tiếp là người Ả Rập, người Kurd, người Tatar Krym, người Bosnia, người Albania v.v. Các vị hoàng đế của người Ottoman cũng trị vì hàng triệu dân theo Cơ đốc giáo: người Hy Lạp, người Serb, người Hungari, người Bulgar..
Vì thế mà sợi dây chính trị nối kết các sắc tộc và tôn giáo khác nhau cần thiết phải linh động và lỏng lẻo. Hoàng đế trị vì từ thủ đô Constantinople (nay là Thành phố Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng bộ máy hành chính địa phương nằm trong tay các tiểu vương, hoàng thân, hãn vương..., có địa phương được tự trị mọi việc ngoại trừ cái tên. Các hoàng thân Cơ đốc giáo vùng Balkan được hoàng đế chọn, nhưng một khi đã lên nắm quyền, lòng trung thành của họ chỉ thể hiện qua việc nộp triều cống cho hoàng đế. Mỗi năm, từng đoàn xe goòng tải đến Constantinople vàng và những loại tiền thuế. Hãn vương người Tatar của Hãn quốc Krym cai trị từ thủ phủ Bakhchisarai như là vị lãnh chúa độc tôn, chỉ có nhiệm vụ cung ứng 20.000-30.000 kỵ binh mỗi khi các hoàng đế Ottoman có chiến tranh. Về phía tây cách gần 2.000 kílômét, các vùng Tripoli, Tunis và Algérie chỉ thực hành nghĩa vụ chiến tranh bằng cách điều tàu chiến (bình thường làm giàu nhờ nghề hải tặc cướp bóc tất cả các nước) đi đánh các cường quốc hải quân theo Cơ đốc giáo như Venezia và Genova.
Các đối thủ lớn nhất của đế quốc Ottoman thường là các nhà nước Thiên chúa giáo bao gồm Đế quốc La Mã thần thánh thuộc dòng họ Habsburg, Đế quốc Nga, Hungary, Ba Lan, Serbia, Công quốc Moldavia, đế quốc Tây Ban Nha, đế quốc Bồ Đào Nha, cộng hòa Venezia, cộng hòa Genova... và một số nhà nước Hồi giáo như Đế quốc Ba Tư thuộc dòng Hồi giáo Shi`ite.
Các phi công Thổ Nhĩ Kỳ đầu năm 1912
Mustafa Kemal (Atatürk) trong chiến hào tại trận Gallipoli (1915)
Các sứ thần nước ngoài trong điện Topkapi
Các hoàng đế Ottoman thường có sở trường về thơ phú, quân sự. Một số hoàng đế như Selim III còn là nhạc sĩ.
Xuyên suốt lịch sử của họ, đế quốc Ottoman luôn luôn ở trong tình trạng chiến tranh. Khi vị hoàng đế có tính khí mạnh mẽ và thông minh, đế quốc cường thịnh lên. Trong khi ông yếu đuối, thì đế quốc bị suy yếu. Điều dễ nhận thấy là cuộc đời trong cấm thành, chung quanh là phụ nữ đầy sinh lực nồng nàn và thái giám đầy mưu đồ, dễ làm cho một vị quân vương bị suy nhược. Một tình huống thứ hai trong lịch sử của đế quốc cũng khiến cho hoàng đế trở thành con người kém cỏi. Điều oái oăm là việc này bắt đầu bằng hành động nhân từ. Cho đến thế kỷ 16, truyền thống ở Ottoman là Thái tử khi lên ngôi kế vị sẽ ra lệnh thắt cổ tất cả anh em trai còn lại, để triệt hạ mọi âm mưu soán ngôi. Các vị hoàng đế vào lúc đó như Selim I (1512-1520) hay Mehmed III (1595-1603) đã thực hiện điều này. Khi mới lên ngôi, hoàng đế Mehmed III thắt cổ tất cả 19 em trai và, để tận diệt mọi mầm mống phản loạn, hạ sát luôn bảy bà vương phi của phụ hoàng lúc đó đang mang thai. Tuy nhiên, đến năm 1603, người kế vị Mehmed III là vị hoàng đế trẻ tuổi Ahmed I (1603-1617) chấm dứt truyền thống khủng khiếp này khi không muốn giết người em nào. Thay vào đó, ông cách ly họ trong một khu riêng biệt, nơi họ không liên lạc được gì với thế giới bên ngoài. Một người em của Ahmed là Mustafa chính là hoàng đế Mustafa I (1617-1618, 1622-1623) trong tương lai, Mustafa được xem là bị mất trí.
Từ lúc này trở đi, mọi hoàng tử Ottoman đều sống mỏi mòn trong khu biệt lập, bên cạnh chỉ có thái giám và cung phi đã quá tuổi sinh nở để ngăn ngừa họ có hậu duệ hòng làm phản. Nếu có một bé trai ra đời do sơ suất, đứa bé này không được phép làm rối loạn thứ tự truyền ngôi, nên phải bị xử tử. Vì thế, khi một hoàng đế qua đời hoặc bị truất phế mà không có con trai kế vị, một hoàng tử sống trong khu biệt lập có thể được triệu đến để được tấn phong. Trong số các hoàng tử ngu dốt và thụ động này, hiếm khi triều đình tìm được người có đủ sự phát triển trí tuệ hoặc kiến thức về chính trị để trị vì đế quốc. Vì vậy, có những trường hợp các vị hoàng đế có điều kiện tinh thần không tốt như Mustafa I hay Ibrahim I (1640-1648).
Trong mọi lúc, và đặc biệt khi hoàng đế thiếu năng lực, tể tướng là người thực sự điều hành đế chế, quản lý mọi sự vụ hành chính và quân sự – tất cả sự vụ, ngoại trừ cấm thành. Trên lý thuyết, tể tướng là bầy tôi của hoàng đế, nhận chức vụ qua biểu tượng là một chiếc nhẫn khắc đế hiệu được chính tay hoàng đế ban tặng, và bị cách chức sau khi đã bị hoàng đế thu hồi nhẫn này. Tuy nhiên, trên thực tế tể tướng cai trị cả đế quốc. Trong thời bình, ông nắm quyền cao nhất về hành pháp và tư pháp. Trong thời chiến, ông còn là tổng tư lệnh quân đội, kế dưới ông là tư lệnh vệ binh và tư lệnh hải quân. Năm 1622, hoàng đế Osman II (1618-1622) trẻ tuổi đã bị tể tướng Kara Davut Pasha giết chết.
Dinh tể tướng có quyền lực rộng lớn – có khi đủ mạnh để mưu đồ lật đổ và giết chết hoàng đế – nhưng cũng có nhiều rủi ro và ít khi hứa hẹn một cái chết êm thấm. Khi thất trận, tể tướng bị quy trách nhiệm và tiếp theo đó là bị cách chức, đi đày hoặc không hiếm khi bị thắt cổ. Giữa các năm 1682-1702, có mười hai vị tể tướng đến và đi.
CÁC HOÀNG ĐẾ CỦA ĐẾ QUỐC ỐTTÔMAN
Osman I
Orhan I
Murad I
Bayezid I
Mehmed I
Murad II
Mehmed II
Bayezid II
Selim I
Suleyman I
Selim II
Murad III
Mehmed III
Ahmed I
Mustafa I
Osman II
Murad IV
Ibrahim I
Mehmed IV
Suleyman II
Ahmed II
Mustafa II
Ahmed III
Mahmud I
Osman III
Mustafa III
Abdulhamid I
Selim III
Mustafa IV
Mahmud II
Abdulmecid
Abdulaziz
Murad V
Abdulhamid II
Mehmed V
Mehmed VI
2. ĐẾ QUỐC BYDANTIUM
I.TƯ LIỆU LỊCH SỬ
Đế quốc Byzantine (tên Hy Lạp: Βασιλεία τῶν Ρωμαίων - Basileia tōn Romaiōn) còn được gọi Đế quốc Đông La Mã là một đế quốc tồn tại từ năm 330 đến năm 1453, thủ đô được đặt ở Constantinople. Trước khi thành lập, phạm vi của Byzantine trước đây nằm trong lãnh thổ của Đế chế La Mã đến khi Constantine I, con của hoàng đế Constantius nắm quyền cai trị và chuyển thủ đô từ Roma về Constantinopoli, lập nên đế quốc Byzantine. Khi ông mất, đế quốc bị các con trai ông phân chia thành Đông và Tây. Sau khi Romulus Augustus, hoàng đế cuối cùng của đế quốc phía Tây bị một thủ lĩnh người Giéc-man hạ bệ, đế quốc Tây La Mã sụp đổ. Nhưng đế quốc phía Đông vẫn tiếp tục phát triển, trở thành một cường quốc có vai trò quan trọng ở châu Âu và được xem là một trong những trung tâm về Thiên Chúa giáo lúc bấy giờ.
Bản đồ đế quốc Byzantine
Lãnh thổ đế quốc thời cực thịnh dưới thời trị vì của hoàng đế Justinian I (550)
Không một tư liệu chính xác nào về sự khởi đầu của đế quốc Byzantine. Một vài ý kiến cho rằng Byzantine được thành lập dưới thời cai trị của hoàng đế Diocletian (284–305), người đã chia đế chế La Mã thành hai nơi đông và tây. Một vài người lại nói rằng đế quốc bắt đầu vào thời của hoàng đế đầu tiên Byzantine đầu tiên, Constantine I. Những ý kiến khẳng định vào thời trị vì của Theodosius I (379–395) hoặc theo sau cái chết của ông vào năm 395. Một vài người cho vào thời điểm xa hơn vào năm 476 khi đế quốc phía Tây sụp đổ. Nhưng hiện nay tư liệu khá chính xác là vào năm 330, khi Constantine thành lập thủ đô mới là Constantinople dưới sự phát triển vượt bậc của văn hóa Ki-tô giáo và thời kỳ văn hóa chịu ảnh hưởng Hy Lạp (quá trình Hy Lạp hóa văn hóa).
Quốc kỳ Byzantine
Quốc huy Byzantine
Đế quốc la mã thần thánh
Bản đồ đế quốc La Mã Thần thánh năm 1630
I.Đặc tính của đế chế
Đế quốc La Mã Thần thánh thành hình từ Vương quốc Frank Đông. Đế quốc là một hình thể siêu quốc gia, chưa từng phát triển thành một quốc gia dân tộc như Pháp hay Anh và từ các lý do lịch sử cũng không bao giờ muốn được hiểu như thế.
Quyền lực cai trị của đế quốc không nằm hoàn toàn trong tay của hoàng đế mà cũng không nằm hoàn toàn trong tay của các tuyển hầu hay của một tập thể như Quốc hội Đế chế. Đế quốc không phải là một quốc gia liên bang và cũng không phải là một liên minh của nhiều quốc gia. Đế quốc không phải là một đất nước do tầng lớp quý tộc cai trị nhưng cũng không nằm trong tay của một tập đoàn cai trị. Mặc dù vậy, Đế quốc lại kết hợp những đặc điểm của các hình thức quốc gia này. Lịch sử của Đế quốc mang nhiều ảnh hưởng của cuộc tranh cãi về tính chất của nó.
Hoàng đế được bầu lên bởi tuyển hầu (Anh ngữ: Elector), là những người có quyền bầu hoàng đế, trong thế kỷ 13 bao gồm bá tước của vùng Kurpalz, công tước Sachsen, bá tước Brandenburg, vua của Böhmen (Bohemia) và các tổng giám mục của Mainz, Köln và Trier.
Hoàng đế và đế quốc trong một bức tranh từ thế kỷ 17. Chính giữa là Hoàng đế Ferdinand III, chung quanh là các tuyển hầu
Các công quốc thường là những lãnh thổ nhỏ được trị vì bởi người có tước hiệu như bá tước, công tước, hoàng thân..., thường là cha truyền con nối nhưng có nơi do hoàng đế chỉ định. Các công quốc khác biệt nhiều về mặt tổ chức và phân chia quyền lực, ví dụ công quốc của công tước có vị thế cao hơn của bá tước, công quốc của tuyển hầu có vị thế cao hơn của công tước... Công quốc mạnh có lãnh thổ rộng, quân đội hùng hậu và được nhiều quyền tự chủ nên có vị thế không thua một quốc gia có vua.
Các lãnh chúa nắm mọi quyền quyết định tôn giáo nào thần dân của họ phải theo, bao nhiêu quân công quốc của họ có quyền huy động, ngay cả quyền quyết định trong thời chiến: về phe với Hoàng đế, hoặc chống lại Hoàng đế, hoặc giữ trung lập. Khi liên quan đến sách lược trọng đại, họ phớt lờ mối dây liên hệ giữa họ và Hoàng đế. Họ, hoặc người đại diện của họ, tham gia vào Hội đồng Đế quốc, khởi đầu là cơ quan lập pháp, sau đó giờ chỉ có chức năng tham khảo và trang trí. Hoàng đế phải thông qua Hội đồng để ban hành luật, và những buổi thảo luận ít khi đạt sự nhất trí vì tranh cãi kéo dài không dứt.
Dù cho tước hiệu là hư danh, Hoàng đế không phải là vô nghĩa. Sức mạnh của Hoàng tộc Habsburg, ngân sách, quân đội là tập hợp thêm từ các vương quốc dưới quyền cai trị của Hoàng tộc: Áo, Bohemia, Moravia, Silesia, Hungary, và những lãnh thổ linh tinh rải rác cùng khắp. Trong thời kỳ hùng mạnh, Hoàng đế còn kiêm nhiệm Đại công tước Áo, vua của Bohemia và vua của Hungary.
Áo là trung tâm và Wien là con tim của thế giới Habsburg. Đây là một thế giới Công giáo, nặng về truyền thống và nghi lễ rườm rà, được các giáo sĩ dòng Tên lèo lái – những người chỉ biết tranh luận trong các buổi họp hội đồng chứ không bao giờ biến lời nói thành hành động. Hoặc, bên cạnh quân vương họ chỉ biết trấn an rằng mọi chuyện đã có Thượng đế an bài.
Áo là trung tâm và Wien là con tim của thế giới Habsburg. Đây là một thế giới Công giáo, nặng về truyền thống và nghi lễ rườm rà, được các giáo sĩ dòng Tên lèo lái – những người chỉ biết tranh luận trong các buổi họp hội đồng chứ không bao giờ biến lời nói thành hành động. Hoặc, bên cạnh quân vương họ chỉ biết trấn an rằng mọi chuyện đã có Thượng đế an bài.
Trung tâm của lễ nghi lố bịch như thế là Điện Hofburg, gồm những kiến trúc lộn xộn được xây dựng qua nhiều thế kỉ, được nối với nhau bằng những hành lang và cầu thang âm u, những khoảng sân nhỏ bé và lối đi rộng. Trong khối hỗn độn của đá và gạch này, vị Hoàng đế, triều đình của ông gồm khoảng 2.000 nhà quý tộc và 30.000 thị thần chen chúc nhau trong vô số văn phòng chính phủ, một nhà bảo tàng và ngay cả một bệnh viện.
Năm 1519, Carlos I, vua Tây Ban Nha thuộc dòng họ Habsburg trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh Karl V. Dưới thời ông, Đế quốc La Mã Thần thánh trở thành một trong những quyền lực mạnh nhất thế giới. Khi thoái vị vào năm 1556, Karl V giao đế quốc La Mã Thần thánh cho người em trai, hoàng đế Ferdinand I và giao Tây Ban Nha cho người con, Felipe II.
Thật ra, sự hỗn độn của triều đình cũng là biểu trưng cho sự hỗn độn của cả đế quốc: không bao giờ có mối kết dính các cơ quan với nhau. Hoàng đế Leopold I (1640-1705) của nhà Habsburg, là một quân vương thiếu quyết đoán. Nhút nhát, thiếu nhiệt huyết, không chắc chắn phải quyết định thế nào, ông chỉ biết lắng nghe ý kiến rồi cứ suy đi nghĩ lại về các đề xuất trái ngược nhau của cận thần. Vào thập kỉ 1690, ông đã thành lập vô số ủy ban, tất cả đều kình chống nhau một cách im lìm nhưng dữ dội sau lưng ông. Sách lược thành hình chỉ do mặc định.
Trong thâm tâm, Leopold I (1640-1705) và hai người con kế vị ông, Joseph I (1678-1711 - người đương thời với hai quân vương nổi tiếng: Pyotr I của Nga tức Pyotr Đại đế và vua Louis XIV của Pháp) và Karl VI (1685-1740), đều không tin rằng nền hành chính hỗn độn là khiếm khuyết cốt lõi của đế quốc họ trị vì. Trải qua gần một thế kỷ, cả ba vị hoàng đế đều cho rằng việc quản trị hành chính chỉ là thứ yếu so với đức tin vào Thượng đế và sự ủng hộ của Công giáo. Nếu Thượng đế hài lòng với họ, Người sẽ phù hộ cho Hoàng tộc này mãi trường tồn và phồn vinh. Đây là cơ sở cho lí thuyết chính trị và phương thức quản trị của họ: ngai vàng và đế quốc đã được Thượng đế định đoạt.
Vương miện của các Hoàng đế La Mã Thần thánh vào thế kỷ 12
Dưới triều đại lâu dài của Leopold, dù ông hèn yếu và bộ máy triều đình cứng nhắc, vị thế của đế quốc thực ra lại lên cao. Đấy có thể là do Chúa phù hộ như Leopold vẫn tin tưởng, nhưng trực tiếp hơn, trong những năm này, tương lai và quyền lực của Leopold dựa trên lưỡi gươm sáng loáng của Hoàng thân Eugène của Savoie. Ông là Nguyên soái của Đế quốc, Tổng Tư lệnh quân đội của đế chế, cùng với John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất và Vua Karl XII của Thụy Điển là ba nhà cầm quân tài ba nhất trong giai đoạn này ở Châu Âu.
Bình thường Hoàng đế không cho phép lãnh chúa nào xưng làm vua, vì như thế có ý nghĩa vị trí gần ngang bằng Hoàng đế. Tuy thế, khi một lãnh chúa cảm thấy mình đủ mạnh thì muốn xưng vua, chỉ có điều còn e ngại nên vẫn phải xin hoàng đế phong cho. Đây là trường hợp của Tuyển hầu Friedrich III (1657-1713), người có tham vọng rộng lớn nhằm biến công quốc của ông thành một vương quốc, sau này gọi là nước Phổ, và ông xưng là Vua Friedrich I của Phổ năm 1701. Để được Hoàng đế phong làm vua, Friedrich dựa trên lý lẽ đất đai ông chiếm được là từ Thụy Điển, và cũng dựa trên sức ép của nước ngoài, như Pyotr Đại đế.
Tóm lại, Đế quốc bao trùm nhiều lãnh thổ như một "liên hiệp" và tạo ra khuôn khổ luật lệ cho cuộc chung sống của những vị lãnh chúa. Các công tước và hầu tước trên thực tế là tự chủ nhưng lại không có chủ quyền này công nhận vị hoàng đế như là người đứng đầu đế chế, ít nhất là về mặt tư tưởng và phải tuân theo các đạo luật đế chế, tòa án đế chế và các nghị quyết của quốc hội đế chế nhưng đồng thời cũng thông qua việc lựa chọn hoàng đế, đại hội đế chế và các đại diện tầng lớp khác mà tham gia vào chính sách của đế chế và đã có thể tạo ảnh hưởng cho chính mình.
II. Thời kỳ suy thoái
Một loạt trận chiến trong giai đoạn 1618-1648, mà các sử gia gọi là Chiến tranh Ba mươi Năm, diễn ra trên những lãnh thổ của người Đức. Khởi đầu, cuộc chiến chủ yếu dựa trên xung đột tôn giáo giữa các phe nhóm Công giáo và Tin Lành trong Phong trào Cải cách. Dần dà, cuộc chiến lan rộng giữa một bên là những hoàng thân người Đức và bên kia chủ yếu là Thụy Điển và Pháp muốn hạn chế quyền lực của Đế quốc La Mã thần thánh. Chiến tranh Ba mươi năm là một trong những cuộc chiến gây tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử Châu Âu. Đây cũng là cuộc chiến tôn giáo cuối cùng ở Châu Âu khiến cho Đế quốc bị tàn phá nặng nề, nhiều thành thị và vùng nông thôn bị san bằng, dân số suy giảm. Ước lượng có một phần ba người Đức bỏ mạng trong cuộc chiến tàn bạo này.
Kết thúc cuộc chiến này là một số hòa ước gọi là Hòa ước Westfalen, chủ yếu là Hòa ước Tây Ban Nha ngày 30 tháng 1 năm 1648 để chấm dứt chiến tranh và hòa ước ngày 24 tháng 10 năm 1648 giữa Hoàng đế Ferdinand III, một số hoàng thân người Đức, cùng Pháp và Thụy Điển. Hòa ước Westfalen được các sử gia ghi nhận là cột mốc bắt đầu kỷ nguyên lịch sử hiện đại.
Chiến tranh Ba mươi Năm và Hòa ước Westfalen năm 1648 mang đến tai họa cuối cùng cho Đế quốc La Mã thần thánh của người Đức, khiến cho đế quốc này không bao giờ hồi phục hoàn toàn. Hòa ước Westfalen gây tai hại cho tương lai nước Đức ngang bằng với thiệt hại từ cuộc chiến. Các hoàng thân người Đức được công nhận để trị vì từng mảnh đất nhỏ – khoảng 350 mảnh đất như thế – trong khi Hoàng đế chỉ có hư vị. Trào lưu cải tổ quét qua Đức vào cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16 bị dập tắt. Trong thời kỳ ấy, các thành phố lớn được hưởng nền độc lập, chế độ phong kiến đã ra đi, nghệ thuật và mậu dịch phát triển, nông dân Đức có nhiều quyền tự do hơn là ở Anh và Pháp. Thật ra, có thể nói vào đầu thế kỷ 16, Đức là một trong những cái nôi của nền văn minh Châu Âu.
Bây giờ, sau Hòa ước Westfalen, Đế quốc bị thụt lùi. Chế độ nông nô không những được tái lập, mà còn phát triển rộng ra thêm ở những vùng trước kia không có nông nô. Các thị trấn mất quyền tự chủ. Vua chúa bóc lột nông dân, công nhân, ngay cả giới trung lưu, hạ họ xuống thành hạng tôi tớ. Nền giáo dục và nghệ thuật chấm dứt. Các nhà cai trị tham lam không màng gì đến tinh thần quốc gia Đức, sẵn sàng dập tắt mọi biểu hiệu của tinh thần này trong dân chúng. Nền văn minh bị đình trệ khắp Đế quốc.
Đế quốc không bao giờ phục hồi từ cơn xuống dốc ấy. Đầu óc người Đức dần dà nhiễm tư tưởng dễ chấp nhận sự chuyên chế, phục tòng một cách mù quáng đối với quân vương ti tiện. Ý tưởng dân chủ, hoặc chế độ cai trị qua nghị viện, nở rộ ở Anh và Pháp nhưng lại tắt ngấm ở Đức. Sự chậm tiến về chính trị như thế, cộng thêm tình trạng chia rẽ và cô lập khỏi những trào lưu tư tưởng và phát triển, đã khiến cho Đức lùi lại phía sau những nước Tây Âu khác.
III. Ý niệm về sự tiếp nối
Sau khi Đế quốc La Mã thần thánh bị giải tán (ứng với câu châm biếm của Voltaire để mô tả thực trạng: không phải thần thánh, không phải La Mã, mà cũng không phải là đế quốc), người Đức vẫn còn vọng tưởng về một đế quốc nối tiếp sau này.
Đế qu
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Cao Nam Long
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)