đề cương ôn tập học phần cây lương thực
Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Thu Lan |
Ngày 18/03/2024 |
10
Chia sẻ tài liệu: đề cương ôn tập học phần cây lương thực thuộc Sinh học
Nội dung tài liệu:
Câu 1 (4 điểm): Thế nào là tính cảm quang của cây lúa? Phân loại cây lúa theo tính cảm quang? Liên hệ thực tế?
*Tính cảm quang của cây lúa thể hiện ở loại thực vật chỉ cảm ứng ra hoa trong điều kiện quang kỳ ngắn.
*Dựa vào mức độ cảm ứng đối với quang kỳ của từng giống lúa, người ta phân biệt 2 nhóm lúa chính: nhóm cảm quang và nhóm không cảm quang.
1.Nhóm lúa cảm quang
-Nhóm lúa cảm quang là nhóm giống lúa có cảm ứng với quang kỳ, chỉ ra hoa
trong điều kiện ánh sáng ngày ngắn thích hợp, nên gọi là lúa mùa, tức lúa chỉ trổ và chín theo mùa.
- Đặc tính cảm quang rất hữu ích trong công tác chọn giống lúa thích nghi với chế độ nước ở một khu vực sản xuất cụ thể.
-Tuy nhiên, đặc tính quang cảm sẽ gây trở ngại rất lớn cho việc thâm canh tăng vụ vì các giống lúa này chỉ có thể trồng được 1 vụ/năm mà thôi.
- Tùy mức độ mẫn cảm với quang kỳ nhiều hay ít, mạnh hay yếu người ta phân biệt: lúa mùa sớm, mùa lỡ hoặc mùa muộn. Phần lớn các giống lúa cổ truyền của ta đều là giống lúa cảm quang.
+ Nhóm lúa mùa sớm là nhóm giống lúa có cảm quang yếu, trồng trái vụ vẫn trổ được nhưng thời gian sinh trưởng thay đổi không nhiều.
+ Nhóm lúa mùa lỡ là những giống lúa có phản ứng trung bình đối với quang
kỳ, trổ vào tháng 11 dl và chín vào tháng 12 dl.
+ Nhóm lúa mùa muộn là những giống lúa có phản ứng rất mạnh đối với
quang kỳ. Các giống lúa này chỉ trổ trong khoảng thời gian nhất định trong năm, khi quang kỳ ngắn nhất vào tháng 12 hoặc có khi đến đầu tháng 1 dl. Thời gian sinh trưởng của các giống này thay đổi rất lớn tùy theo thời điểm gieo cấy sớm hay muộn.Hầu hết các giống này phân bố ở các vùng trũng nước ngập sâu và rút muộn
2.Nhóm lúa ko cảm quang
-Hầu như các giống lúa mới lai tạo phục vụ cho việc thâm canh tăng vụ hiện nay đều không quang cảm. Các giống lúa này lại ngắn ngày (90 – 120 ngày) hoặc trung mùa (120-150 ngày) có thời gian sinh trưởng hầu như không thay đổi khi trồng trong các thời vụ khác nhau nên có thể trồng được nhiều vụ 1 năm và có thể trồng bất cứ lúc nào trong năm, miễn bảo đảm đủ nước tưới và yêu cầu dinh dưỡng. IR8, IR20, IR26, TN73 – 2, NN3A, NN6A,OMCS2000, OM1490,… đều thuộc nhóm không cảm quang
Câu 2 (4 điểm): So sánh đặc trưng hình thái và sinh lý tổng quát của 3 nhóm giống lúa Indica, Javanica và Japonica? Xuất xứ của từng nhóm? Các giống lúa trồng ở Việt Nam thuộc nhóm nào vì sao?
*Bảng so sánh đặc trưng hình thái và sinh lý tổng quát của 3 nhóm giống lúa:
Đặc tính
*Xuất xứ:Tên gọi của 3 nhóm thể hiện nguồn gốc xuất phát của các giống lúa từ 3 vùng địa lí khác nhau:
- Nhóm Indica (= “ Hsien” = lúa tiên) bao gồm các giống lúa từ Sri Lanka, Nam và Trung Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Indinesia, Philippines, Đài Loan và nhiều nước khác ở vùng nhiệt đới. Có nguồn gốc từ India (Ấn Độ).
- Nhóm Javanica: để đặt tên cho giống lúa cổ truyền của Indonesia
- Nhóm Japonica: ( “Keng” = lúa cánh) bao gồm các giống lúa từ miền Bắc và Đông Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên, nói chung là tập trung ở các vùng á nhiệt đới và ôn đới. Xuất xứ từ Nhật Bản.
*Các giống lúa ở VN thuộc nhóm:Indica vì khí hậu,địa hình
Câu 5 (4 điểm): Ảnh hưởng của ánh sáng đến sinh trưởng và phát triển của cây lúa? ứng dụng trong thực tế?
- Ánh sáng ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng, phát triển và phát dục của cây lúa trên 2 phương diện: cường độ ánh sáng và độ dài chiếu sáng trong ngày(quangkỳ)
*Cường độ a/s:
- Cường độ ánh sáng ảnh hưởng trực tiếp đến sự quang hợp của cây lúa, thể hiện chủ yếu bằng năng lượng ánh sáng mặt trời chiếu trên đơn vị diện tích đất (lượng bức xạ). Bức xạ mặt trời gồm: ánh sáng trực xạ (ánh sáng chiếu trực tiếp), ánh sáng phản xạ (ánh sáng phản chiếu), ánh sáng tán xạ (ánh sáng khuyếch tán) và ánh sáng thấu qua…đều có tác dụng nhất định đối với quang hợp của quần thể ruộng lúa
- Thông thường, cây lúa chỉ sử dụng được khoảng 65% năng lượng ánh sáng mặt trời chiếu tới ruộng lúa. Trong điều kiện bình thường, lượng bức xạ trung bình từ 250-300 cal/cm2/ngày thì cây lúa sinh trưởng tốt và trong phạm vi nầy thì lượng bức xạ càng cao thì quá trình quang hợp xảy ra càng mạnh. Bức xạ mặt trời ảnh hưởng lớn đến các giai đọan sinh trưởng khác nhau và năng suất lúa, đặc biệt ở các giai đoạn sau.
+GĐ lúa non: nếu thiếu ánh sáng cây lúa sẽ ốm yếu, màu lá từ xanh nhạt
chuyển sang vàng, lúa không nở bụi được.
+GĐ thời kỳ phân hóa đòng: nếu thiếu ánh sáng thì bông lúa sẽ ngắn, ít hạt và hạt nhỏ, hạt thoái hóa nhiều, dễ bị sâu bệnh phá hại. 78Thời kỳ lúa trổ: thiếu ánh sáng sự thụ phấn, thụ tinh bị trở ngại làm tăng số hạt lép, giảm số hạt chắc và hạt phát triển không đầy đủ (hạt lửng), đồng thời cây có khuynh hướng vươn lóng dễ đổ ngã.
+GĐ lúa chín: nếu ruộng lúa khô nước, nhiệt độ không khí cao, ánh sáng
mạnh thì lúa chín nhanh và tập trung hơn; ngược lại thời gian chín sẽ kéo dài.
+Kết quả từ nhiều thí nghiệm cho thấy, thời kỳ cần năng lượng mặt trời cực trọng nhất đối với lúa là từ lúc phân hóa đòng đến khoảng 10 ngày truớc khi lúa chín,vì sự tích lũy tinh bột trong lá và thân đã bắt đầu ngay từ khoảng 10 ngày trước khi trổ và được chuyển vị vào hạt rất mạnh sau khi trổ.
*Quang chu kì
- Quang kỳ là khoảng thời gian chiếu sáng trong ngày tính từ lúc bình minh đến lúc hoàng hôn.
- Pha dinh dưỡng căn bản): là giai đọan sinh trưởng sớm, khi cây còn non không bị ảnh hưởng bởi quang kỳ.
-Pha cảm ứng:là GĐ ảm ứng với ngày ngắn, ngày dài để ra hoa
*ƯD trong thực tế
- Ở ĐBSCL, lượng bức xạ hàng năm rất dồi dào, đáp ứng đủ yêu cầu sinh trưởng và phát triển của cây lúa gần như quanh năm. Số giờ nắng toàn năm trung bình lên tới 2000 – 2400 giờ. Suốt các tháng mùa khô, số giờ nắng vượt quá 200 giờ mỗi tháng, nhất là tháng 3, trung bình có 7 – 8 giờ nắng mỗi ngày. Trong những tháng mùa mưa, lượng bức xạ tương đối thấp (7 – 8 giờ nắng/ngày), nhất là vào tháng 6 và 9.
- Ở ĐBSCL, quang kỳ trong năm biến thiên từ 10:00-13:30 giờ/ngày. Mùa đông ngày ngắn - ngắn nhất là ngày đông chí (22/12 dl), mùa hè dài hơn và dài nhất là ngày hạ chí (22/6 dl). Các giống lúa có cảm ứng với quang kỳ ngắn (quang cảm) chỉ trổ bông vào những thời điểm nhất định trong năm, lúc mà quang kỳ bắt đầu ngắn dần từ sau ngày thu phân (23/9 dl)
Câu 6 (4 điểm): Vai trò của đạm trong sinh trưởng và phát triển của cây lúa? Liên hệ khi bón phân đạm cho cây lúa?
-Vai trò của đạm: là chất tạo hình cây lúa, là thành phần chủ yếu của protein và chất diệp lục làm cho lá xanh tốt, gia tăng chiều cao cây, số chồi và kích thước lá thân. Khác với các cây trồng cạn, cây lúa có thể hấp thu và sử dụng cả hai dạng đạm nitrat ( NO3- ) và ammonium (NH4+).
-Đặc điểm hấp thụ đạm: Ở các giai đọan sinh trưởng ban đầu, đạm được tích lũy chủ yếu trong thân lá, khi lúa trổ, khoảng 48-71 % đạm được đưa lên bông.
-Thiếu đạm: cây lúa lùn hẳn lại, nở bụi ít, chồi nhỏ, lá ngắn hẹp, trở nên vàng
và rụi sớm, cây lúa còi cọc không phát triển.
-Thừa đạm: cây lúa phát triển thân lá quá mức, mô non, mềm, dễ ngã, tán lá rậm rạp, lượng đạm tự do trong cây cao, nên cây dễ nhiễm bệnh làm giảm năng suất rất lớn.
-Công thức tính nhu cầu đạm và năng suất: Y = Y0 + dYf
Hoặc Y = Y0 + (Hiệu suất sử dụng phân đạm) * Nf
Trong đó:
Y = Năng suất hạt cuối cùng
Y0 = Năng suất thu được khi không bón đạm
dYf = Phần năng suất tăng lên khi bón đạm
Nf = Lượng đạm bón
-Liên hệ khi bón đạm cho lúa:
Câu 7 (4 điểm): Vai trò của lân trong sinh trưởng và phát triển của cây lúa? Liên hệ khi bón phân lân cho cây lúa?
-Tác dụng: Lân là chất sinh năng (tạo năng lượng), là thành phần của ATP, NADP…. Thúc đẩy việc sử dụng và tổng hợp chất đạm trong cây, kích thích rễ phát triển, giúp cây lúa mau lại sức sau khi cấy, nở bụi mạnh, kết nhiều hạt chắc, tăng phẩm chất gạo, giúp lúa chín sớm và tập trung hơn.
- Lân còn là thành phần cấu tạo acid nhân (acid nucleic), thường tập trung nhiều trong hạt. Cây lúa cần lân nhất là trong giai đoạn đầu, nên cần bón lót trước khi sạ cấy. Khi lúa trổ, khoảng 37 – 83 % chất lân được chuyển lên bông.
- Thiếu lân, cây lúa cũng lùn hẳn lại, nở bụi kém, lá rất thẳng hẹp và màu sậm hơn bình thường hoặc ngã sang màu tím bầm, lúa sẽ trổ và chín muộn, hạt không no đầy và phẩm chất giảm
-Liên hệ khi bón phân lân cho lúa:
Câu 8 (4 điểm): Vai trò của kali trong sinh trưởng và phát triển của cây lúa? Liên hệ khi bón phân kali cho cây lúa?
-Tác dụng:
+ Kali còn gọi là bồ tạt (potassium), kali giúp cho quá trình vận chuyển và tổng hợp các chất trong cây
+ duy trì sức trương của tế bào, giúp cây cứng cáp, tăng khả năng chống sâu bệnh, chống ngã đổ, chịu hạn và lạnh khỏe hơn
+ tăng số hạt chắc trên bông và làm hạt no đầy hơn. Kali tập trung chủ yếu trong rơm rạ, chỉ khoảng 6-20% ở trên bông.
-Thiếu Kali: cây lúa có chiều cao và số chồi gần như bình thường, lá vẫn xanh
nhưng mềm rủ, yếu ớt, dễ đổ ngã, dễ nhiễm bệnh nhất là bệnh đốm nâu
(Helminthosporium oryzae), lá già rụi sớm.
-Thiếu kali thường xảy ra ở đất thoát thủy kém, đất trầm thủy, do các độc chất sinh ra trong điều kiện yếm khí đã ngăn cản sự hấp thụ K của cây lúa.
-Ở đất phèn cây lúa thiếu K thường kết hợp với triệu chứng ngộ độc
do sắt. Thiếu kali còn có thể xảy ra trên đất cát, nghèo dinh dưỡng
-Liên hệ khi bón phân kali cho cây lúa:
Câu 9 (4 điểm): Trình bày phương pháp làm mạ sân và phương pháp làm mạ khay? Theo anh chị hai phương pháp này thường được áp dụng vào vụ xuân hay vụ mùa? Vì sao?
*Phương pháp làm mạ sân:
-CB đất: Mạ được gieo trên sân đất hoặc ngay cả trên sân gạch, rải một lớp đất bột mịn trộn với phân hữu cơ đã hoai mụt hoặc mụn dừa dầy khoảng 3-5 cm. Kinh nghiệm: Dải 1 chút chấu để khi lấy mạ k bị dính.
-Đặc điểm hạt giống: Hạt giống khô or đã wa ngâm ủ. Dải thật đều trên mặt luống. Đối với phương pháp này cần phải che mát và tưới ẩm hàng ngày.
-Chăm sóc: Khi mạ lên được 7-10 ngày thì tưới phân urê pha loãng hằng ngày cho mạ mọc tốt. Bằng cách nầy cây mạ có thể sẵn sàng để cấy sau 15-16 ngày sau khi gieo, rút ngắn thời gian gieo mạ. Khi nhổ mạ chỉ cần cuộn mạ lại theo từng mảng với ngọn mạ hướng vào trong, hoặc xé thàng từng miếng 30-50 cm để mang ra ruộng cấy.
*Phương pháp làm mạ khay:
-CB khay: Khay kích thước 1m * 0,7m. Mỗi khay bón 700g NPK, lượng phân bón này trộn đều với đất nền, sau đó cho đất vào khay.
-Chăm sóc: Dùng ô doa or bình phun thuốc sâu tưới cho đất thật ẩm,tưới đến khi nc nổi lên mặt là đc, sau đó bắt đầu gieo hạt.
+Gieo xong thì phủ 1 lớp đất bột dày 1cm đến miệng khay,phun nc cho đủ ấm
+Che phủ mạ (.) 7 ngày.Sau đó bỏ tấm che và tưới nc.Khay có thể đặt trong phòng,hành lang,sân,… Có thể chống lên tiết kiệm S.Câu 11 (4 điểm): Trình bày kỹ thuật bón phân cho cây lúa? Tại sao lại chia thành các lần bón như trình bày? So sánh giữa bón phân cho lúa vụ mùa và bón phân cho lúa vụ xuân tại miền Bắc Việt Nam?
Đối với ruộng lúa cấy có thể bón phân làm 4 phần cơ bản như sau đây:
- Bón lót: (trước khi trục lần cuối để cấy) giúp lúa mau hồi phục và nở bụi sớm.
+ Toàn bộ lượng phân chuồng, phân lân.
+ 1/5 lượng phân đạm.
+ 1/2 lượng phân kali.
- Bón thúc: (15 ngày sau khi cấy) 2/5 lượng đạm để lúa nở bụi mạnh, sớm đạt chồi tối đa.
- Bón nuôi đòng: (lúc lúa còn đòng đòng dài khoảng 1-2 cm tức 18-20 ngày trước khi trổ) 1/5 lượng đạm và 1/2 lượng phân kali.
- Bón nuôi hạt: lúc lúa trổ đều, bón 1/5 lượng phân đạm cuối cùng để nuôi hạt.
Câu 12 (4 điểm): Trình bày các yếu tố cấu thành năng suất và các biện pháp kĩ thuật để nâng cao năng suất lúa thông qua việc tác động vào các yếu tố cấu thành năng suất?
*Các yếu tố cấu thành năng suất lúa:
Năng suất lúa được hình thành và chịu ảnh hưởng trực tiếp của 4 yếu tố, gọi là 4 thành phần năng suất lúa.
Năng suất lúa = Số bông/đơn vị diện tích x Số hạt/ bông x Tỉ lệ hạt chắc x Trọng lượng hạt
- Các thành phần năng suất có liên quan chặt chẽ với nhau.
Do đó, muốn đạt năng suất cao cần nắm vững các yếu tố ảnh hưởng đến từng thành phần trong từng thời kỳ và điều kiện nhất định, để có thể tác động các biện pháp tích cực nhằm phát huy đầy đủ và tốt nhất các thành phần năng suất
* Các biện pháp kĩ thuật để nâng cao năng suất lúa thông qua việc tác động vào các yếu tố cấu thành năng suất:
1. Số bông trên đơn vị diện tích
-Số bông trên đơn vị diện tích được quyết định vào giai đọan sinh trưởng ban đầu của cây lúa (giai đoạn tăng trưởng), nhưng chủ yếu là giai đoạn từ khi cấy đến khoảng 10 ngày trước khi có chồi tối đa.
- Số bông trên đơn vị diện tích tùy thuộc vào mật độ sạ cấy và khả năng nở bụi của lúa
-Số bông trên đơn vị diện tích có ảnh hưởng thuận với năng suất.
- Nói chung, đối với giống lúa ngắn ngày, thấp cây, nở bụi ít, đất xấu, nhiều nắng nên cấy dầy để tăng số bông trên đơn vị diện tích. Ngược lại, trên đất giàu hữu cơ, thời tiết tốt, lượng phân bón nhiều (nhất là N) và giữ nước thích hợp thì lúa nở bụi khỏe có thể sạ cấy thưa hơn. Các giống lúa cải thiện thấp cây có số bông trên m2 trung bình phải đạt 500-600 bông /m2 đối với lúa sạ hoặc 350-450 bông/m2 đối với lúa cấy, mới có thể có năng suất cao.
Các biện pháp kỹ thuật cần lưu ý để tăng số bông trên đơn vị diện tích:
- Chọn giống thích hợp với đất đai và mùa vụ tại chổ.
- Làm mạ tốt để có cây mạ to khỏe, có chồi ngạnh trê, xanh tốt và không sâu bệnh.
- Chuẩn bị đất chu đáo, mềm, sạch cỏ và giữ nước thích hợp.
- Cấy đúng tuổi mạ, đúng khoảng cách thích hợp cho từng giống cấy cạn để lúa nở bụi khỏe. Đối với lúa sạ thì ngâm ủ đúng kỹ thuật và sạ với mật độ thích hợp.
- Bón phân lót đầy đủ, bón thúc sớm để lúa chóng hồi phục và nở bụi sớm mau đạt chồi tối đa và chồi khỏe cho nhiều bông và bông to sau nầy.
- Làm cỏ, sục bùn đúng lúc, giữ nước vừa phải và liên tục để điều hòa nhiệt độ và khống chế cỏ dại.
- Phòng trừ sâu bệnh kịp thời
2. Số hạt trên bông
-Số hạt trên bông được quyết định từ lúc tượng cổ bông đến 5 ngày trước khi trổ, nhưng quan trọng nhất là thời kỳ phân hóa hoa và giảm nhiễm tích cực. Ở giai đoạn này, số hạt trên bông có ảnh hưởng thuận đối với năng suất.
-Như vậy, số hạt trên bông tùy thuộc vào số hoa được phân hóa và số hoa bị thoái hóa. Hai yếu tố này bị ảnh hưởng bởi giống lúa, kỹ thuật canh tác và điều kiện thời tiết.
-Nói chung, đối với những giống lúa bông to, kỹ thuật canh tác tốt, bón phân đầy đủ, chăm sóc đúng mức, thời tiết thuận lợi thì số hoa phân hóa càng nhiều, số hoa thoái hóa càng ít, nên số hạt cuối cùng trên bông cao. Ở các giống lúa cải thiện, số hạt trên bông từ 80 - 100 hạt đối với lúa sạ hoặc 100 - 120 hạt đối với lúa cấy là tốt trong điều kiện đồng bằng sông Cửu Long.
Các biện pháp kỹ thuật cần lưu ý để tăng số hạt trên bông:
- Chọn giống tốt, loại hình bông to, nhiều hạt, nở bụi sớm (chồi ra càng sớm càng có khả năng cho bông to).
- Ức chế sự gia tăng của số chồi vô hiệu vào thời kỳ bắt đầu phân hóa đòng để tập trung dinh dưỡng nuôi chồi hữu hiệu.
- Bón phân đón đòng (khi bắt đầu phân hóa đòng) để tăng số hoa phân hóa và bón phân nuôi đòng (18-20 ngày trước khi trổ) để giảm số hoa bị thoái hóa.
- Bảo vệ lúa khỏi bị sâu bệnh tấn công .
- Chọn thời vụ thích hợp để cây lúa phân hóa đòng lúc thời tiết thuận lợi, không
mưa bão.
3. Tỉ lệ hạt chắc:
(tính bằng phần trăm hạt chắc trên tổng số hạt)
-Tỉ lệ hạt chắc được quyết định từ đầu thời kỳ phân hoá đòng đến khi lúa vào chắc nhưng quan trọng nhất là các thời kỳ phân bào giảm nhiễm, trổ bông, phơi màu, thụ phấn, thụ tinh và vào chắc.
-Tỉ lệ hạt chắc tuỳ thuộc số hoa trên bông, đặc tính sinh lý của cây lúa và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại cảnh. Thường số hoa trên bông quá nhiều dễ dẫn đến tỉ lệ hạt chắc thấp. Các giống lúa có khả năng quang hợp, tích lũy và chuyển vị các chất mạnh, cộng với cấu tạo mô cơ giới vững chắc không đổ ngã sớm, lại trổ và tạo hạt trong điều kiện thời tiết tốt, d² đầy đủ thì tỉ lệ hạt chắc sẽ cao và ngược lại. Muốn có năng suất cao, tỷ lệ hạt chắc phải đạt trên 80 %.
Các biện pháp kỹ thuật cần lưu ý để gia tăng tỉ lệ hạt chắc:
- Chọn giống tốt, trổ gọn, khả năng thụ phấn cao và số hạt trên bông vừa phải.
- Sạ cấy đúng thời vụ để lúa trổ và chín trong lúc thời tiết tốt, với mật độ sạ cấy vừa phải, tránh lúa bị lốp đổ.
- Bón phân nuôi đòng (18-20 ngày trước khi trổ) và nuôi hạt (khi lúa trổ đều) đầy đủ và cân đối để lúa trổ bông, thụ phấn, thụ tinh và tạo hạt đầy đủ.
- Chăm sóc chu đáo, tránh cho lúa bị khô hạn hoặc bị sâu bệnh trong thời gian này.
4. Trọng lượng hạt
-Trọng lượng hạt được quyết định ngay từ thời kỳ phân hoá hoa đến khi lúa chín, nhưng quan trọng nhất là các thời kỳ giảm nhiễm tích cực và vào chắc rộ.
-Trọng lượng hạt tùy thuộc cỡ hạt và độ mẩy của hạt lúa. Đối với lúa, người ta thường biểu thị trọng lượng hạt bằng trọng lượng của 1000 hạt với đơn vị là gram. Ở phần lớn các giống lúa, trọng lượng 1000 hạt thường biến thiên tập trung trong khoảng 20 – 30 g
. Trong lượng hạt chủ yếu do đặc tính di truyền của giống quyết định, điều kiện môi trường có ảnh hưởng một phần vào thời kỳ giảm nhiễm (18 ngày trước khi trổ) trên cỡ hạt; cho đến khi vào chắc rộ (15 – 25 ngày sau khi trổ) trên độ mẩy của hạt.
Các biện pháp kỹ thuật cần lưu ý để tăng trọng lượng hạt:
- Chọn giống có cỡ hạt lớn, trổ tập trung.
- Bón phân nuôi đòng để tăng cỡ hạt đến đúng kích thước di truyền của giống và
bón phân nuôi hạt, giữ nước đầy đủ, bảo vệ nước không bị ngã đổ hoặc sâu bệnh phá hoại, bố trí thời vụ cho lúa ngậm sữa, vào chắc trong điều kiện thuận lợi để tăng sự tích lũy vào hạt làm hạt chắc và no đầy.
Câu 13(4 điểm): Trình bày các yếu tố chính làm giảm năng suất thực tế trên đồng ruộng so với tiềm năng năng suất của giống?
-Trong thực tế, khi môi trường canh tác càng ít được kiểm soát như mong muốn
theo yêu cầu sinh trưởng và phát triển của cây lúa, năng suất lúa thường đạt được thấp hơn rất nhiều so với tiềm năng của nó. Gomez (1977) đã tổng kết nhiều nghiên cứu và đưa ra sơ đồ so sánh năng suất trong điều kiện thí nghiệm, năng suất tiềm năng và năng suất thực tế có thể đạt được trên đồng ruộng của nông dân. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng sụt giảm nầy bao gồm cả các lý do sinh học, thời tiết và kinh tế xã hội
-Trong điều kiện thí nghiệm có kiểm soát, tất cả các yếu tố bất lợi đều được khống chế, năng suất lúa sẽ phát huy tối đa. Khi đưa ra sản xuất, tiềm năng năng suất lúa có thể đạt được, sẽ thấp hơn năng suất lúa trong điều kiện thí nghiệm do sự khác biệt về môi trường, ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu và việc chuyển giao kỹ thuật.
Câu 14 (4điểm): Một thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố N đến năng suất lúa tại Phú Thọ cho kết quả như sau:
Công thức không bón đạm cho năng suất là 130kg/sào BB
Công thức có bón đạm cho năng suất 290kg/sào BB
Tính số lượng đạm nguyên chất và số lượng ure đã sử dụng cho 1 sào Bắc bộ trong thí nghiệm trên. Biết rằng:
- Hiệu suất sử dụng N của cây lúa là 50kg
- Cây lúa chỉ hấp thụ được 40% N cung cấp
- Ure có hàm lượng N là 46%
(Coi sự ảnh hưởng của các nhân tố khác đến năng suất ở các công thức là như nhau)
Vai trò của đạm trong sinh trưởng và phát triển của cây lúa .Việc tính lượng đạm sử dụng như trên có ý nghĩa gì trong sản xuất?
-Số lượng đạm nguyên chất hút vào: N hút vào ==3,2
-Số lương đạm nguyên chất bón vào : N bón vào = =8
-Ure bón vào ==17,39
*Vai trò của đạm :Câu 6
*Ý nghĩa của việc tính lượng đạm :
-ở vùng nhiệt đới,tỷ lệ đạm cây hút đc trên lượng bón vào chỉ khoảng 30-50% tùy thuộc vào tc đất,pp số lượng và tgian bón,kthuat bón.tỷ lệ này cao khi mức đạm bón thấp và sâu vào lòng đất or bón ở các kỳ sinh trưởng về sau
Hiệu suất sd khoảng 50,tức mỗi kg đạm cây sản sinh ra khoảng 50kg hạt
Y=y0+dy(t)
Cthuc thể hiện mối tương quan giữa nsuat muốn đạt với đk đất đai mt và lượng bón vào
Câu 16(3 điểm): Trình bày vai trò của cây ngô đối với sản xuất nông nghiệp và đời sống con người? Tình hình sản xuất ngô ở Việt nam
*Vai trò của cây ngô :Ngô là cây lương thực quan trọng trên toàn thế giới bên cạnh lúa mì và lúa gạo.
- Ở các nước thuộc Trung Mỹ, Nam Á và Châu Phi, người ta sử dụng ngô
làm lương thực chính cho người với phương thức rất đa dạng theo vùng địa lí và
tập quán từng nơi.
-Ở Việt Nam :
+Ngô là cây thức ăn chăn nuôi quan trọng nhất hiện nay : 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp của gia súc là từ ngô; ngô còn là thức ăn xanh và ủ chua lí tưởng cho đại gia súc đặc biệt là bò sữa
+ cây ngô còn là cây thực phẩm; người ta dùng bắp ngô bao tử làm rau cao cấp vì nó sạch và có hàm lượng dinh dưỡng cao; ngô nếp, ngô đường (ngô ngọt) được dùng làm quả ăn tươi (luộc, nướng) hoặc đóng hộp làm thực phẩm xuất khẩu.
+ Ngô còn là nguyên liệu của ngành CN lương thực - thực phẩm và công nghiệp nhẹ để sản xuất rượu, cồn, tinh bột, dầu, glucôzơ, bánh kẹo…Trong y dược ngô được dùng để trị áp huyết, râu ngô được dùng để làm thuốc.
*Tình hình SX ngô ở Việt Nam :
Việt Nam nằm trong vùng sinh thái nhiệt đới thấp; cây ngô đã được đưa
vào sản xuất cách đây 300 năm. Những năm gần đây, nhờ có các chính sách
khuyến khích của Nhà nước và nhiều tiến bộ kĩ thuật, đặc biệt là về giống, cây
ngô đã có những những tăng trưởng đáng kể về diện tích, năng suất và sản
lượng, đồng thời đã hình thành 8 vùng trồng ngô chính trong cả nước.
+Vùng 1: vùng miền núi phía Bắc bao gồm các tỉnh biên giới phía Bắc và Đông Bắc như: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang và Phú Thọ.
+Vùng 2:vùng miền núi Tây Bắc gồm các tỉnh Lai Châu,Sơn La và HB
+ Vùng 3: Đồng bằng sông Hồng bao gồm các tỉnh: VP, BN, Hà Tây, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình,HN,Hải Phòng. + Vùng 4: vùng miền Bắc Trung Bộ bao gồm các tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế
+ Vùng 5: vùng cao nguyên Trung Bộ
+ Vùng 6: vùng duyên hải miền Trung bao gồm các tỉnh: Quảng Nam, Đà
Nẵng, Bình Định
+ Vùng 7: vùng Đông Nam Bộ bao gồm các tỉnh; Đồng Nai, Sông Bé, Tây
Ninh và thành phố Hồ Chí Minh 2
+ Vùng 8: đồng bằng sông Cửu Long
Hiện nay, diện tích trồng ngô ở Việt Nam chiếm vị trí thứ hai chỉ sau cây
lúa nước. Cây ngô có vị trí rất quan trọng trong cơ cấu cây lương thực ở các tỉnh
trung du miền núi, do ở đây nhiều dân tộc đã sử dụng ngô như một loại lương
thực chính. Ở đồng bằng, ngô trồng nhiều trên các vùng đất bãi ven sông và
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu cây trồng vụ đông trên đất hai vụ lúa của đồng
bằng Bắc Bộ.
*Tính cảm quang của cây lúa thể hiện ở loại thực vật chỉ cảm ứng ra hoa trong điều kiện quang kỳ ngắn.
*Dựa vào mức độ cảm ứng đối với quang kỳ của từng giống lúa, người ta phân biệt 2 nhóm lúa chính: nhóm cảm quang và nhóm không cảm quang.
1.Nhóm lúa cảm quang
-Nhóm lúa cảm quang là nhóm giống lúa có cảm ứng với quang kỳ, chỉ ra hoa
trong điều kiện ánh sáng ngày ngắn thích hợp, nên gọi là lúa mùa, tức lúa chỉ trổ và chín theo mùa.
- Đặc tính cảm quang rất hữu ích trong công tác chọn giống lúa thích nghi với chế độ nước ở một khu vực sản xuất cụ thể.
-Tuy nhiên, đặc tính quang cảm sẽ gây trở ngại rất lớn cho việc thâm canh tăng vụ vì các giống lúa này chỉ có thể trồng được 1 vụ/năm mà thôi.
- Tùy mức độ mẫn cảm với quang kỳ nhiều hay ít, mạnh hay yếu người ta phân biệt: lúa mùa sớm, mùa lỡ hoặc mùa muộn. Phần lớn các giống lúa cổ truyền của ta đều là giống lúa cảm quang.
+ Nhóm lúa mùa sớm là nhóm giống lúa có cảm quang yếu, trồng trái vụ vẫn trổ được nhưng thời gian sinh trưởng thay đổi không nhiều.
+ Nhóm lúa mùa lỡ là những giống lúa có phản ứng trung bình đối với quang
kỳ, trổ vào tháng 11 dl và chín vào tháng 12 dl.
+ Nhóm lúa mùa muộn là những giống lúa có phản ứng rất mạnh đối với
quang kỳ. Các giống lúa này chỉ trổ trong khoảng thời gian nhất định trong năm, khi quang kỳ ngắn nhất vào tháng 12 hoặc có khi đến đầu tháng 1 dl. Thời gian sinh trưởng của các giống này thay đổi rất lớn tùy theo thời điểm gieo cấy sớm hay muộn.Hầu hết các giống này phân bố ở các vùng trũng nước ngập sâu và rút muộn
2.Nhóm lúa ko cảm quang
-Hầu như các giống lúa mới lai tạo phục vụ cho việc thâm canh tăng vụ hiện nay đều không quang cảm. Các giống lúa này lại ngắn ngày (90 – 120 ngày) hoặc trung mùa (120-150 ngày) có thời gian sinh trưởng hầu như không thay đổi khi trồng trong các thời vụ khác nhau nên có thể trồng được nhiều vụ 1 năm và có thể trồng bất cứ lúc nào trong năm, miễn bảo đảm đủ nước tưới và yêu cầu dinh dưỡng. IR8, IR20, IR26, TN73 – 2, NN3A, NN6A,OMCS2000, OM1490,… đều thuộc nhóm không cảm quang
Câu 2 (4 điểm): So sánh đặc trưng hình thái và sinh lý tổng quát của 3 nhóm giống lúa Indica, Javanica và Japonica? Xuất xứ của từng nhóm? Các giống lúa trồng ở Việt Nam thuộc nhóm nào vì sao?
*Bảng so sánh đặc trưng hình thái và sinh lý tổng quát của 3 nhóm giống lúa:
Đặc tính
*Xuất xứ:Tên gọi của 3 nhóm thể hiện nguồn gốc xuất phát của các giống lúa từ 3 vùng địa lí khác nhau:
- Nhóm Indica (= “ Hsien” = lúa tiên) bao gồm các giống lúa từ Sri Lanka, Nam và Trung Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Indinesia, Philippines, Đài Loan và nhiều nước khác ở vùng nhiệt đới. Có nguồn gốc từ India (Ấn Độ).
- Nhóm Javanica: để đặt tên cho giống lúa cổ truyền của Indonesia
- Nhóm Japonica: ( “Keng” = lúa cánh) bao gồm các giống lúa từ miền Bắc và Đông Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên, nói chung là tập trung ở các vùng á nhiệt đới và ôn đới. Xuất xứ từ Nhật Bản.
*Các giống lúa ở VN thuộc nhóm:Indica vì khí hậu,địa hình
Câu 5 (4 điểm): Ảnh hưởng của ánh sáng đến sinh trưởng và phát triển của cây lúa? ứng dụng trong thực tế?
- Ánh sáng ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng, phát triển và phát dục của cây lúa trên 2 phương diện: cường độ ánh sáng và độ dài chiếu sáng trong ngày(quangkỳ)
*Cường độ a/s:
- Cường độ ánh sáng ảnh hưởng trực tiếp đến sự quang hợp của cây lúa, thể hiện chủ yếu bằng năng lượng ánh sáng mặt trời chiếu trên đơn vị diện tích đất (lượng bức xạ). Bức xạ mặt trời gồm: ánh sáng trực xạ (ánh sáng chiếu trực tiếp), ánh sáng phản xạ (ánh sáng phản chiếu), ánh sáng tán xạ (ánh sáng khuyếch tán) và ánh sáng thấu qua…đều có tác dụng nhất định đối với quang hợp của quần thể ruộng lúa
- Thông thường, cây lúa chỉ sử dụng được khoảng 65% năng lượng ánh sáng mặt trời chiếu tới ruộng lúa. Trong điều kiện bình thường, lượng bức xạ trung bình từ 250-300 cal/cm2/ngày thì cây lúa sinh trưởng tốt và trong phạm vi nầy thì lượng bức xạ càng cao thì quá trình quang hợp xảy ra càng mạnh. Bức xạ mặt trời ảnh hưởng lớn đến các giai đọan sinh trưởng khác nhau và năng suất lúa, đặc biệt ở các giai đoạn sau.
+GĐ lúa non: nếu thiếu ánh sáng cây lúa sẽ ốm yếu, màu lá từ xanh nhạt
chuyển sang vàng, lúa không nở bụi được.
+GĐ thời kỳ phân hóa đòng: nếu thiếu ánh sáng thì bông lúa sẽ ngắn, ít hạt và hạt nhỏ, hạt thoái hóa nhiều, dễ bị sâu bệnh phá hại. 78Thời kỳ lúa trổ: thiếu ánh sáng sự thụ phấn, thụ tinh bị trở ngại làm tăng số hạt lép, giảm số hạt chắc và hạt phát triển không đầy đủ (hạt lửng), đồng thời cây có khuynh hướng vươn lóng dễ đổ ngã.
+GĐ lúa chín: nếu ruộng lúa khô nước, nhiệt độ không khí cao, ánh sáng
mạnh thì lúa chín nhanh và tập trung hơn; ngược lại thời gian chín sẽ kéo dài.
+Kết quả từ nhiều thí nghiệm cho thấy, thời kỳ cần năng lượng mặt trời cực trọng nhất đối với lúa là từ lúc phân hóa đòng đến khoảng 10 ngày truớc khi lúa chín,vì sự tích lũy tinh bột trong lá và thân đã bắt đầu ngay từ khoảng 10 ngày trước khi trổ và được chuyển vị vào hạt rất mạnh sau khi trổ.
*Quang chu kì
- Quang kỳ là khoảng thời gian chiếu sáng trong ngày tính từ lúc bình minh đến lúc hoàng hôn.
- Pha dinh dưỡng căn bản): là giai đọan sinh trưởng sớm, khi cây còn non không bị ảnh hưởng bởi quang kỳ.
-Pha cảm ứng:là GĐ ảm ứng với ngày ngắn, ngày dài để ra hoa
*ƯD trong thực tế
- Ở ĐBSCL, lượng bức xạ hàng năm rất dồi dào, đáp ứng đủ yêu cầu sinh trưởng và phát triển của cây lúa gần như quanh năm. Số giờ nắng toàn năm trung bình lên tới 2000 – 2400 giờ. Suốt các tháng mùa khô, số giờ nắng vượt quá 200 giờ mỗi tháng, nhất là tháng 3, trung bình có 7 – 8 giờ nắng mỗi ngày. Trong những tháng mùa mưa, lượng bức xạ tương đối thấp (7 – 8 giờ nắng/ngày), nhất là vào tháng 6 và 9.
- Ở ĐBSCL, quang kỳ trong năm biến thiên từ 10:00-13:30 giờ/ngày. Mùa đông ngày ngắn - ngắn nhất là ngày đông chí (22/12 dl), mùa hè dài hơn và dài nhất là ngày hạ chí (22/6 dl). Các giống lúa có cảm ứng với quang kỳ ngắn (quang cảm) chỉ trổ bông vào những thời điểm nhất định trong năm, lúc mà quang kỳ bắt đầu ngắn dần từ sau ngày thu phân (23/9 dl)
Câu 6 (4 điểm): Vai trò của đạm trong sinh trưởng và phát triển của cây lúa? Liên hệ khi bón phân đạm cho cây lúa?
-Vai trò của đạm: là chất tạo hình cây lúa, là thành phần chủ yếu của protein và chất diệp lục làm cho lá xanh tốt, gia tăng chiều cao cây, số chồi và kích thước lá thân. Khác với các cây trồng cạn, cây lúa có thể hấp thu và sử dụng cả hai dạng đạm nitrat ( NO3- ) và ammonium (NH4+).
-Đặc điểm hấp thụ đạm: Ở các giai đọan sinh trưởng ban đầu, đạm được tích lũy chủ yếu trong thân lá, khi lúa trổ, khoảng 48-71 % đạm được đưa lên bông.
-Thiếu đạm: cây lúa lùn hẳn lại, nở bụi ít, chồi nhỏ, lá ngắn hẹp, trở nên vàng
và rụi sớm, cây lúa còi cọc không phát triển.
-Thừa đạm: cây lúa phát triển thân lá quá mức, mô non, mềm, dễ ngã, tán lá rậm rạp, lượng đạm tự do trong cây cao, nên cây dễ nhiễm bệnh làm giảm năng suất rất lớn.
-Công thức tính nhu cầu đạm và năng suất: Y = Y0 + dYf
Hoặc Y = Y0 + (Hiệu suất sử dụng phân đạm) * Nf
Trong đó:
Y = Năng suất hạt cuối cùng
Y0 = Năng suất thu được khi không bón đạm
dYf = Phần năng suất tăng lên khi bón đạm
Nf = Lượng đạm bón
-Liên hệ khi bón đạm cho lúa:
Câu 7 (4 điểm): Vai trò của lân trong sinh trưởng và phát triển của cây lúa? Liên hệ khi bón phân lân cho cây lúa?
-Tác dụng: Lân là chất sinh năng (tạo năng lượng), là thành phần của ATP, NADP…. Thúc đẩy việc sử dụng và tổng hợp chất đạm trong cây, kích thích rễ phát triển, giúp cây lúa mau lại sức sau khi cấy, nở bụi mạnh, kết nhiều hạt chắc, tăng phẩm chất gạo, giúp lúa chín sớm và tập trung hơn.
- Lân còn là thành phần cấu tạo acid nhân (acid nucleic), thường tập trung nhiều trong hạt. Cây lúa cần lân nhất là trong giai đoạn đầu, nên cần bón lót trước khi sạ cấy. Khi lúa trổ, khoảng 37 – 83 % chất lân được chuyển lên bông.
- Thiếu lân, cây lúa cũng lùn hẳn lại, nở bụi kém, lá rất thẳng hẹp và màu sậm hơn bình thường hoặc ngã sang màu tím bầm, lúa sẽ trổ và chín muộn, hạt không no đầy và phẩm chất giảm
-Liên hệ khi bón phân lân cho lúa:
Câu 8 (4 điểm): Vai trò của kali trong sinh trưởng và phát triển của cây lúa? Liên hệ khi bón phân kali cho cây lúa?
-Tác dụng:
+ Kali còn gọi là bồ tạt (potassium), kali giúp cho quá trình vận chuyển và tổng hợp các chất trong cây
+ duy trì sức trương của tế bào, giúp cây cứng cáp, tăng khả năng chống sâu bệnh, chống ngã đổ, chịu hạn và lạnh khỏe hơn
+ tăng số hạt chắc trên bông và làm hạt no đầy hơn. Kali tập trung chủ yếu trong rơm rạ, chỉ khoảng 6-20% ở trên bông.
-Thiếu Kali: cây lúa có chiều cao và số chồi gần như bình thường, lá vẫn xanh
nhưng mềm rủ, yếu ớt, dễ đổ ngã, dễ nhiễm bệnh nhất là bệnh đốm nâu
(Helminthosporium oryzae), lá già rụi sớm.
-Thiếu kali thường xảy ra ở đất thoát thủy kém, đất trầm thủy, do các độc chất sinh ra trong điều kiện yếm khí đã ngăn cản sự hấp thụ K của cây lúa.
-Ở đất phèn cây lúa thiếu K thường kết hợp với triệu chứng ngộ độc
do sắt. Thiếu kali còn có thể xảy ra trên đất cát, nghèo dinh dưỡng
-Liên hệ khi bón phân kali cho cây lúa:
Câu 9 (4 điểm): Trình bày phương pháp làm mạ sân và phương pháp làm mạ khay? Theo anh chị hai phương pháp này thường được áp dụng vào vụ xuân hay vụ mùa? Vì sao?
*Phương pháp làm mạ sân:
-CB đất: Mạ được gieo trên sân đất hoặc ngay cả trên sân gạch, rải một lớp đất bột mịn trộn với phân hữu cơ đã hoai mụt hoặc mụn dừa dầy khoảng 3-5 cm. Kinh nghiệm: Dải 1 chút chấu để khi lấy mạ k bị dính.
-Đặc điểm hạt giống: Hạt giống khô or đã wa ngâm ủ. Dải thật đều trên mặt luống. Đối với phương pháp này cần phải che mát và tưới ẩm hàng ngày.
-Chăm sóc: Khi mạ lên được 7-10 ngày thì tưới phân urê pha loãng hằng ngày cho mạ mọc tốt. Bằng cách nầy cây mạ có thể sẵn sàng để cấy sau 15-16 ngày sau khi gieo, rút ngắn thời gian gieo mạ. Khi nhổ mạ chỉ cần cuộn mạ lại theo từng mảng với ngọn mạ hướng vào trong, hoặc xé thàng từng miếng 30-50 cm để mang ra ruộng cấy.
*Phương pháp làm mạ khay:
-CB khay: Khay kích thước 1m * 0,7m. Mỗi khay bón 700g NPK, lượng phân bón này trộn đều với đất nền, sau đó cho đất vào khay.
-Chăm sóc: Dùng ô doa or bình phun thuốc sâu tưới cho đất thật ẩm,tưới đến khi nc nổi lên mặt là đc, sau đó bắt đầu gieo hạt.
+Gieo xong thì phủ 1 lớp đất bột dày 1cm đến miệng khay,phun nc cho đủ ấm
+Che phủ mạ (.) 7 ngày.Sau đó bỏ tấm che và tưới nc.Khay có thể đặt trong phòng,hành lang,sân,… Có thể chống lên tiết kiệm S.Câu 11 (4 điểm): Trình bày kỹ thuật bón phân cho cây lúa? Tại sao lại chia thành các lần bón như trình bày? So sánh giữa bón phân cho lúa vụ mùa và bón phân cho lúa vụ xuân tại miền Bắc Việt Nam?
Đối với ruộng lúa cấy có thể bón phân làm 4 phần cơ bản như sau đây:
- Bón lót: (trước khi trục lần cuối để cấy) giúp lúa mau hồi phục và nở bụi sớm.
+ Toàn bộ lượng phân chuồng, phân lân.
+ 1/5 lượng phân đạm.
+ 1/2 lượng phân kali.
- Bón thúc: (15 ngày sau khi cấy) 2/5 lượng đạm để lúa nở bụi mạnh, sớm đạt chồi tối đa.
- Bón nuôi đòng: (lúc lúa còn đòng đòng dài khoảng 1-2 cm tức 18-20 ngày trước khi trổ) 1/5 lượng đạm và 1/2 lượng phân kali.
- Bón nuôi hạt: lúc lúa trổ đều, bón 1/5 lượng phân đạm cuối cùng để nuôi hạt.
Câu 12 (4 điểm): Trình bày các yếu tố cấu thành năng suất và các biện pháp kĩ thuật để nâng cao năng suất lúa thông qua việc tác động vào các yếu tố cấu thành năng suất?
*Các yếu tố cấu thành năng suất lúa:
Năng suất lúa được hình thành và chịu ảnh hưởng trực tiếp của 4 yếu tố, gọi là 4 thành phần năng suất lúa.
Năng suất lúa = Số bông/đơn vị diện tích x Số hạt/ bông x Tỉ lệ hạt chắc x Trọng lượng hạt
- Các thành phần năng suất có liên quan chặt chẽ với nhau.
Do đó, muốn đạt năng suất cao cần nắm vững các yếu tố ảnh hưởng đến từng thành phần trong từng thời kỳ và điều kiện nhất định, để có thể tác động các biện pháp tích cực nhằm phát huy đầy đủ và tốt nhất các thành phần năng suất
* Các biện pháp kĩ thuật để nâng cao năng suất lúa thông qua việc tác động vào các yếu tố cấu thành năng suất:
1. Số bông trên đơn vị diện tích
-Số bông trên đơn vị diện tích được quyết định vào giai đọan sinh trưởng ban đầu của cây lúa (giai đoạn tăng trưởng), nhưng chủ yếu là giai đoạn từ khi cấy đến khoảng 10 ngày trước khi có chồi tối đa.
- Số bông trên đơn vị diện tích tùy thuộc vào mật độ sạ cấy và khả năng nở bụi của lúa
-Số bông trên đơn vị diện tích có ảnh hưởng thuận với năng suất.
- Nói chung, đối với giống lúa ngắn ngày, thấp cây, nở bụi ít, đất xấu, nhiều nắng nên cấy dầy để tăng số bông trên đơn vị diện tích. Ngược lại, trên đất giàu hữu cơ, thời tiết tốt, lượng phân bón nhiều (nhất là N) và giữ nước thích hợp thì lúa nở bụi khỏe có thể sạ cấy thưa hơn. Các giống lúa cải thiện thấp cây có số bông trên m2 trung bình phải đạt 500-600 bông /m2 đối với lúa sạ hoặc 350-450 bông/m2 đối với lúa cấy, mới có thể có năng suất cao.
Các biện pháp kỹ thuật cần lưu ý để tăng số bông trên đơn vị diện tích:
- Chọn giống thích hợp với đất đai và mùa vụ tại chổ.
- Làm mạ tốt để có cây mạ to khỏe, có chồi ngạnh trê, xanh tốt và không sâu bệnh.
- Chuẩn bị đất chu đáo, mềm, sạch cỏ và giữ nước thích hợp.
- Cấy đúng tuổi mạ, đúng khoảng cách thích hợp cho từng giống cấy cạn để lúa nở bụi khỏe. Đối với lúa sạ thì ngâm ủ đúng kỹ thuật và sạ với mật độ thích hợp.
- Bón phân lót đầy đủ, bón thúc sớm để lúa chóng hồi phục và nở bụi sớm mau đạt chồi tối đa và chồi khỏe cho nhiều bông và bông to sau nầy.
- Làm cỏ, sục bùn đúng lúc, giữ nước vừa phải và liên tục để điều hòa nhiệt độ và khống chế cỏ dại.
- Phòng trừ sâu bệnh kịp thời
2. Số hạt trên bông
-Số hạt trên bông được quyết định từ lúc tượng cổ bông đến 5 ngày trước khi trổ, nhưng quan trọng nhất là thời kỳ phân hóa hoa và giảm nhiễm tích cực. Ở giai đoạn này, số hạt trên bông có ảnh hưởng thuận đối với năng suất.
-Như vậy, số hạt trên bông tùy thuộc vào số hoa được phân hóa và số hoa bị thoái hóa. Hai yếu tố này bị ảnh hưởng bởi giống lúa, kỹ thuật canh tác và điều kiện thời tiết.
-Nói chung, đối với những giống lúa bông to, kỹ thuật canh tác tốt, bón phân đầy đủ, chăm sóc đúng mức, thời tiết thuận lợi thì số hoa phân hóa càng nhiều, số hoa thoái hóa càng ít, nên số hạt cuối cùng trên bông cao. Ở các giống lúa cải thiện, số hạt trên bông từ 80 - 100 hạt đối với lúa sạ hoặc 100 - 120 hạt đối với lúa cấy là tốt trong điều kiện đồng bằng sông Cửu Long.
Các biện pháp kỹ thuật cần lưu ý để tăng số hạt trên bông:
- Chọn giống tốt, loại hình bông to, nhiều hạt, nở bụi sớm (chồi ra càng sớm càng có khả năng cho bông to).
- Ức chế sự gia tăng của số chồi vô hiệu vào thời kỳ bắt đầu phân hóa đòng để tập trung dinh dưỡng nuôi chồi hữu hiệu.
- Bón phân đón đòng (khi bắt đầu phân hóa đòng) để tăng số hoa phân hóa và bón phân nuôi đòng (18-20 ngày trước khi trổ) để giảm số hoa bị thoái hóa.
- Bảo vệ lúa khỏi bị sâu bệnh tấn công .
- Chọn thời vụ thích hợp để cây lúa phân hóa đòng lúc thời tiết thuận lợi, không
mưa bão.
3. Tỉ lệ hạt chắc:
(tính bằng phần trăm hạt chắc trên tổng số hạt)
-Tỉ lệ hạt chắc được quyết định từ đầu thời kỳ phân hoá đòng đến khi lúa vào chắc nhưng quan trọng nhất là các thời kỳ phân bào giảm nhiễm, trổ bông, phơi màu, thụ phấn, thụ tinh và vào chắc.
-Tỉ lệ hạt chắc tuỳ thuộc số hoa trên bông, đặc tính sinh lý của cây lúa và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại cảnh. Thường số hoa trên bông quá nhiều dễ dẫn đến tỉ lệ hạt chắc thấp. Các giống lúa có khả năng quang hợp, tích lũy và chuyển vị các chất mạnh, cộng với cấu tạo mô cơ giới vững chắc không đổ ngã sớm, lại trổ và tạo hạt trong điều kiện thời tiết tốt, d² đầy đủ thì tỉ lệ hạt chắc sẽ cao và ngược lại. Muốn có năng suất cao, tỷ lệ hạt chắc phải đạt trên 80 %.
Các biện pháp kỹ thuật cần lưu ý để gia tăng tỉ lệ hạt chắc:
- Chọn giống tốt, trổ gọn, khả năng thụ phấn cao và số hạt trên bông vừa phải.
- Sạ cấy đúng thời vụ để lúa trổ và chín trong lúc thời tiết tốt, với mật độ sạ cấy vừa phải, tránh lúa bị lốp đổ.
- Bón phân nuôi đòng (18-20 ngày trước khi trổ) và nuôi hạt (khi lúa trổ đều) đầy đủ và cân đối để lúa trổ bông, thụ phấn, thụ tinh và tạo hạt đầy đủ.
- Chăm sóc chu đáo, tránh cho lúa bị khô hạn hoặc bị sâu bệnh trong thời gian này.
4. Trọng lượng hạt
-Trọng lượng hạt được quyết định ngay từ thời kỳ phân hoá hoa đến khi lúa chín, nhưng quan trọng nhất là các thời kỳ giảm nhiễm tích cực và vào chắc rộ.
-Trọng lượng hạt tùy thuộc cỡ hạt và độ mẩy của hạt lúa. Đối với lúa, người ta thường biểu thị trọng lượng hạt bằng trọng lượng của 1000 hạt với đơn vị là gram. Ở phần lớn các giống lúa, trọng lượng 1000 hạt thường biến thiên tập trung trong khoảng 20 – 30 g
. Trong lượng hạt chủ yếu do đặc tính di truyền của giống quyết định, điều kiện môi trường có ảnh hưởng một phần vào thời kỳ giảm nhiễm (18 ngày trước khi trổ) trên cỡ hạt; cho đến khi vào chắc rộ (15 – 25 ngày sau khi trổ) trên độ mẩy của hạt.
Các biện pháp kỹ thuật cần lưu ý để tăng trọng lượng hạt:
- Chọn giống có cỡ hạt lớn, trổ tập trung.
- Bón phân nuôi đòng để tăng cỡ hạt đến đúng kích thước di truyền của giống và
bón phân nuôi hạt, giữ nước đầy đủ, bảo vệ nước không bị ngã đổ hoặc sâu bệnh phá hoại, bố trí thời vụ cho lúa ngậm sữa, vào chắc trong điều kiện thuận lợi để tăng sự tích lũy vào hạt làm hạt chắc và no đầy.
Câu 13(4 điểm): Trình bày các yếu tố chính làm giảm năng suất thực tế trên đồng ruộng so với tiềm năng năng suất của giống?
-Trong thực tế, khi môi trường canh tác càng ít được kiểm soát như mong muốn
theo yêu cầu sinh trưởng và phát triển của cây lúa, năng suất lúa thường đạt được thấp hơn rất nhiều so với tiềm năng của nó. Gomez (1977) đã tổng kết nhiều nghiên cứu và đưa ra sơ đồ so sánh năng suất trong điều kiện thí nghiệm, năng suất tiềm năng và năng suất thực tế có thể đạt được trên đồng ruộng của nông dân. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng sụt giảm nầy bao gồm cả các lý do sinh học, thời tiết và kinh tế xã hội
-Trong điều kiện thí nghiệm có kiểm soát, tất cả các yếu tố bất lợi đều được khống chế, năng suất lúa sẽ phát huy tối đa. Khi đưa ra sản xuất, tiềm năng năng suất lúa có thể đạt được, sẽ thấp hơn năng suất lúa trong điều kiện thí nghiệm do sự khác biệt về môi trường, ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu và việc chuyển giao kỹ thuật.
Câu 14 (4điểm): Một thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố N đến năng suất lúa tại Phú Thọ cho kết quả như sau:
Công thức không bón đạm cho năng suất là 130kg/sào BB
Công thức có bón đạm cho năng suất 290kg/sào BB
Tính số lượng đạm nguyên chất và số lượng ure đã sử dụng cho 1 sào Bắc bộ trong thí nghiệm trên. Biết rằng:
- Hiệu suất sử dụng N của cây lúa là 50kg
- Cây lúa chỉ hấp thụ được 40% N cung cấp
- Ure có hàm lượng N là 46%
(Coi sự ảnh hưởng của các nhân tố khác đến năng suất ở các công thức là như nhau)
Vai trò của đạm trong sinh trưởng và phát triển của cây lúa .Việc tính lượng đạm sử dụng như trên có ý nghĩa gì trong sản xuất?
-Số lượng đạm nguyên chất hút vào: N hút vào ==3,2
-Số lương đạm nguyên chất bón vào : N bón vào = =8
-Ure bón vào ==17,39
*Vai trò của đạm :Câu 6
*Ý nghĩa của việc tính lượng đạm :
-ở vùng nhiệt đới,tỷ lệ đạm cây hút đc trên lượng bón vào chỉ khoảng 30-50% tùy thuộc vào tc đất,pp số lượng và tgian bón,kthuat bón.tỷ lệ này cao khi mức đạm bón thấp và sâu vào lòng đất or bón ở các kỳ sinh trưởng về sau
Hiệu suất sd khoảng 50,tức mỗi kg đạm cây sản sinh ra khoảng 50kg hạt
Y=y0+dy(t)
Cthuc thể hiện mối tương quan giữa nsuat muốn đạt với đk đất đai mt và lượng bón vào
Câu 16(3 điểm): Trình bày vai trò của cây ngô đối với sản xuất nông nghiệp và đời sống con người? Tình hình sản xuất ngô ở Việt nam
*Vai trò của cây ngô :Ngô là cây lương thực quan trọng trên toàn thế giới bên cạnh lúa mì và lúa gạo.
- Ở các nước thuộc Trung Mỹ, Nam Á và Châu Phi, người ta sử dụng ngô
làm lương thực chính cho người với phương thức rất đa dạng theo vùng địa lí và
tập quán từng nơi.
-Ở Việt Nam :
+Ngô là cây thức ăn chăn nuôi quan trọng nhất hiện nay : 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp của gia súc là từ ngô; ngô còn là thức ăn xanh và ủ chua lí tưởng cho đại gia súc đặc biệt là bò sữa
+ cây ngô còn là cây thực phẩm; người ta dùng bắp ngô bao tử làm rau cao cấp vì nó sạch và có hàm lượng dinh dưỡng cao; ngô nếp, ngô đường (ngô ngọt) được dùng làm quả ăn tươi (luộc, nướng) hoặc đóng hộp làm thực phẩm xuất khẩu.
+ Ngô còn là nguyên liệu của ngành CN lương thực - thực phẩm và công nghiệp nhẹ để sản xuất rượu, cồn, tinh bột, dầu, glucôzơ, bánh kẹo…Trong y dược ngô được dùng để trị áp huyết, râu ngô được dùng để làm thuốc.
*Tình hình SX ngô ở Việt Nam :
Việt Nam nằm trong vùng sinh thái nhiệt đới thấp; cây ngô đã được đưa
vào sản xuất cách đây 300 năm. Những năm gần đây, nhờ có các chính sách
khuyến khích của Nhà nước và nhiều tiến bộ kĩ thuật, đặc biệt là về giống, cây
ngô đã có những những tăng trưởng đáng kể về diện tích, năng suất và sản
lượng, đồng thời đã hình thành 8 vùng trồng ngô chính trong cả nước.
+Vùng 1: vùng miền núi phía Bắc bao gồm các tỉnh biên giới phía Bắc và Đông Bắc như: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang và Phú Thọ.
+Vùng 2:vùng miền núi Tây Bắc gồm các tỉnh Lai Châu,Sơn La và HB
+ Vùng 3: Đồng bằng sông Hồng bao gồm các tỉnh: VP, BN, Hà Tây, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình,HN,Hải Phòng. + Vùng 4: vùng miền Bắc Trung Bộ bao gồm các tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế
+ Vùng 5: vùng cao nguyên Trung Bộ
+ Vùng 6: vùng duyên hải miền Trung bao gồm các tỉnh: Quảng Nam, Đà
Nẵng, Bình Định
+ Vùng 7: vùng Đông Nam Bộ bao gồm các tỉnh; Đồng Nai, Sông Bé, Tây
Ninh và thành phố Hồ Chí Minh 2
+ Vùng 8: đồng bằng sông Cửu Long
Hiện nay, diện tích trồng ngô ở Việt Nam chiếm vị trí thứ hai chỉ sau cây
lúa nước. Cây ngô có vị trí rất quan trọng trong cơ cấu cây lương thực ở các tỉnh
trung du miền núi, do ở đây nhiều dân tộc đã sử dụng ngô như một loại lương
thực chính. Ở đồng bằng, ngô trồng nhiều trên các vùng đất bãi ven sông và
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu cây trồng vụ đông trên đất hai vụ lúa của đồng
bằng Bắc Bộ.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thị Thu Lan
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)