Danh tướng Lê Văn Linh (1376-1448)
Chia sẻ bởi Lê Xuân Long |
Ngày 10/05/2019 |
41
Chia sẻ tài liệu: Danh tướng Lê Văn Linh (1376-1448) thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
Danh tướng Lê Văn Linh (1376-1448)
VN Times -
Danh tướng Lê Văn Linh (1377-1448), "ông là Khai quốc Công thần và là nguyên lão đại thần của ba triều (Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông - NKT), bản tính điềm tĩnh, đã giàu mưu lược lại rất am hiểu chính sự, ý kiến bàn bạc ở triều đình thường rất sáng suốt...”.
Danh tướng Lê Văn Linh sinh năm Đinh Tỵ (1377) tại làng Hải Lịch, huyện Lôi Dương (nay là xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), mất vào tháng chạp năm Mậu Thìn (1448) , hưởng thọ 71 tuổi.
Thời Hồ (1400 - 1407), danh tướng Lê Văn Linh đã nổi tiếng là người hay chữ đẹp của huyện Lôi Dương, tuy nhiên, không thấy sử chép gì về việc thi cử của ông. Khi Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa, Lê Văn Linh là một trong những người đầu tiên nhiệt liệt hưởng ứng. Và ông là một trong số 19 người tham dự Hội thề Lũng Nhai , tổ chức vào năm 1416.
Là người có tiếng hay chữ, Lê Văn Linh thường được Bộ chỉ huy Lam Sơn và Bình Định Vương Lê Lợi sử dụng như một văn thần. Dẫu vậy, những ý kiến xuất sắc của ông đối với hoạt động của lực lượng vũ trang luôn luôn được đánh giá rất cao. Sử sách xưa nay phần nhiều vẫn xếp ông vào hàng những nhà quân sự có tài. Tương truyền vào thời ông còn trẻ, đất làng Hải Lịch vẫn thường bị cọp hoành hành, dân làng rất lấy làm khổ sở. Sử cũ chép rằng: “Ông vốn là người có khí tiết cao. Lúc ấy, dân trong làng thường khổ vì nạn cọp. Ông liền nhân đó viết bức thư trách cọp. Từ đó, cọp bỏ đi hết. Vì lẽ ấy, người ta ví ông như Hàn Thuyên là người đã làm thơ đuổi cá sấu đi nơi khác” (Đại Nam Nhất thống chí, Tỉnh Thanh Hóa - Tập hậu - mục Nhân vật).
Về những cống hiến của Lê Văn Linh trong thời kỳ tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, sử cũ chỉ chép một cách rất vắn tắt:
Năm 1329, danh tướng Lê Văn Linh được phong làm Nhập nội Thiếu Phó. Năm 1435, Lê Văn Linh được lệnh cùng với Lê Bôi đem quân đi đánh Cầm Quý ở châu Ngọc Ma (phía Tây của đất Nghệ An ngày nay).
“Khi (Lê) Thái Tổ (tức Lê Lợi - NKT) còn đang trong thời kỳ bí mật chuẩn bị ở Lam Sơn, ông đã hăng hái theo về. Đến năm Mậu Tuất (tức năm 1418 - NKT), Vua (Lê Thái Tổ) dấy nghĩa binh thường cùng với Nguyễn Trãi luôn ở bên cạnh để bàn mưu, bày kế thần diệu trong màn trướng. Việc tính toán vận trù (Thuật ngữ quân sự cổ nghĩa là tính toán trước và tính toán đúng để có thể quyết thắng) quyết thắng thường là có công lao.
Khi Vua vây thành Đông Quan, ông bàn mưu kín mà lấy được thành, khiến cho người Minh cuối cùng phải xin hàng, Vương Thông phải rút về, nước nhà nhờ đó mà thái bình yên tĩnh” (Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí).
Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, danh tướng Lê Văn Linh được xếp vào hàng Khai quốc Công thần, tước Hương Thượng Hầu. Đó là tước vị thuộc hàng cao nhất mà vua Lê Thái Tổ đã ban cho những người từng đồng cam cộng khổ và có nhiều công lao trong sự nghiệp đánh đuổi quân Minh.
Sử cũ chép:
“Châu Ngọc Ma ở phía Tây Nghệ An, phía Đông của Ai Lao. Ở đó, Cầm Quý có hơn 1 vạn quân. Khi (vua Lê) Thái Tổ khởi nghĩa, Cầm Quý đã từng đem quân tới giúp và từng được trao hàm Thái úy. Ít lâu sau (Cầm Quý) tỏ ý ngờ vực, hối hận mà rút quân về. Đến khi dẹp xong giặc Ngô, (Cầm) Quý rất lấy làm hổ thẹn và lo sợ, nhưng hắn vẫn cậy có đất hiểm, lại ở chốn xa xôi nên không chịu thần phục. (Cầm) Quý là tên tham lam và tàn bạo, không cho dân được trồng trọt tranh với mình. Hắn cho xây cung thất lớn, lấy đồng làm cột, vợ cả vợ lẽ kể đến hàng trăm. Hắn bắt dân đóng góp nặng, nói láo là để nạp cống, nhưng thực là để vơ vét cho riêng mình. (Vua Lê) Thái Tổ định giết hắn, nhưng vì lúc bấy giờ đang có nhiều việc, chưa rảnh mà hỏi đến. Tới đây, vua (Lê Thái Tông) sai đi đánh, bắt được Cầm Quý đóng cũi, đem về kinh sư” (Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển XI, tờ 32a-b), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên,
VN Times -
Danh tướng Lê Văn Linh (1377-1448), "ông là Khai quốc Công thần và là nguyên lão đại thần của ba triều (Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông - NKT), bản tính điềm tĩnh, đã giàu mưu lược lại rất am hiểu chính sự, ý kiến bàn bạc ở triều đình thường rất sáng suốt...”.
Danh tướng Lê Văn Linh sinh năm Đinh Tỵ (1377) tại làng Hải Lịch, huyện Lôi Dương (nay là xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), mất vào tháng chạp năm Mậu Thìn (1448) , hưởng thọ 71 tuổi.
Thời Hồ (1400 - 1407), danh tướng Lê Văn Linh đã nổi tiếng là người hay chữ đẹp của huyện Lôi Dương, tuy nhiên, không thấy sử chép gì về việc thi cử của ông. Khi Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa, Lê Văn Linh là một trong những người đầu tiên nhiệt liệt hưởng ứng. Và ông là một trong số 19 người tham dự Hội thề Lũng Nhai , tổ chức vào năm 1416.
Là người có tiếng hay chữ, Lê Văn Linh thường được Bộ chỉ huy Lam Sơn và Bình Định Vương Lê Lợi sử dụng như một văn thần. Dẫu vậy, những ý kiến xuất sắc của ông đối với hoạt động của lực lượng vũ trang luôn luôn được đánh giá rất cao. Sử sách xưa nay phần nhiều vẫn xếp ông vào hàng những nhà quân sự có tài. Tương truyền vào thời ông còn trẻ, đất làng Hải Lịch vẫn thường bị cọp hoành hành, dân làng rất lấy làm khổ sở. Sử cũ chép rằng: “Ông vốn là người có khí tiết cao. Lúc ấy, dân trong làng thường khổ vì nạn cọp. Ông liền nhân đó viết bức thư trách cọp. Từ đó, cọp bỏ đi hết. Vì lẽ ấy, người ta ví ông như Hàn Thuyên là người đã làm thơ đuổi cá sấu đi nơi khác” (Đại Nam Nhất thống chí, Tỉnh Thanh Hóa - Tập hậu - mục Nhân vật).
Về những cống hiến của Lê Văn Linh trong thời kỳ tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, sử cũ chỉ chép một cách rất vắn tắt:
Năm 1329, danh tướng Lê Văn Linh được phong làm Nhập nội Thiếu Phó. Năm 1435, Lê Văn Linh được lệnh cùng với Lê Bôi đem quân đi đánh Cầm Quý ở châu Ngọc Ma (phía Tây của đất Nghệ An ngày nay).
“Khi (Lê) Thái Tổ (tức Lê Lợi - NKT) còn đang trong thời kỳ bí mật chuẩn bị ở Lam Sơn, ông đã hăng hái theo về. Đến năm Mậu Tuất (tức năm 1418 - NKT), Vua (Lê Thái Tổ) dấy nghĩa binh thường cùng với Nguyễn Trãi luôn ở bên cạnh để bàn mưu, bày kế thần diệu trong màn trướng. Việc tính toán vận trù (Thuật ngữ quân sự cổ nghĩa là tính toán trước và tính toán đúng để có thể quyết thắng) quyết thắng thường là có công lao.
Khi Vua vây thành Đông Quan, ông bàn mưu kín mà lấy được thành, khiến cho người Minh cuối cùng phải xin hàng, Vương Thông phải rút về, nước nhà nhờ đó mà thái bình yên tĩnh” (Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí).
Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, danh tướng Lê Văn Linh được xếp vào hàng Khai quốc Công thần, tước Hương Thượng Hầu. Đó là tước vị thuộc hàng cao nhất mà vua Lê Thái Tổ đã ban cho những người từng đồng cam cộng khổ và có nhiều công lao trong sự nghiệp đánh đuổi quân Minh.
Sử cũ chép:
“Châu Ngọc Ma ở phía Tây Nghệ An, phía Đông của Ai Lao. Ở đó, Cầm Quý có hơn 1 vạn quân. Khi (vua Lê) Thái Tổ khởi nghĩa, Cầm Quý đã từng đem quân tới giúp và từng được trao hàm Thái úy. Ít lâu sau (Cầm Quý) tỏ ý ngờ vực, hối hận mà rút quân về. Đến khi dẹp xong giặc Ngô, (Cầm) Quý rất lấy làm hổ thẹn và lo sợ, nhưng hắn vẫn cậy có đất hiểm, lại ở chốn xa xôi nên không chịu thần phục. (Cầm) Quý là tên tham lam và tàn bạo, không cho dân được trồng trọt tranh với mình. Hắn cho xây cung thất lớn, lấy đồng làm cột, vợ cả vợ lẽ kể đến hàng trăm. Hắn bắt dân đóng góp nặng, nói láo là để nạp cống, nhưng thực là để vơ vét cho riêng mình. (Vua Lê) Thái Tổ định giết hắn, nhưng vì lúc bấy giờ đang có nhiều việc, chưa rảnh mà hỏi đến. Tới đây, vua (Lê Thái Tông) sai đi đánh, bắt được Cầm Quý đóng cũi, đem về kinh sư” (Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển XI, tờ 32a-b), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên,
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Xuân Long
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)