ĐAI VIỆT SỬ THI 1
Chia sẻ bởi Tống Hoàng Linh |
Ngày 11/05/2019 |
58
Chia sẻ tài liệu: ĐAI VIỆT SỬ THI 1 thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
ĐẠI VIỆT SỬ THI
Hồ Ðắc Duy
QUYỂN I
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
Dân tộc ta từ ngày dựng nước
Giòng sử thiêng đã được viết ra
Hằng nghìn năm trước trôi qua
Đất đây đã có quốc gia Việt Thường
THỜI ĐẠI HỒNG BÀNG
(2879 - 257 TCN)
Vua Thần Nông vốn giòng Lạc Việt
Cháu : Đế Minh . Nối nghiệp vua ban (2879 TCN)
Rừng xanh, Ngũ Lĩnh chiêm quan
Phương Nam chọn đất , cưới nàng Vụ Tiên
KINH DƯƠNG VƯƠNG - XÍCH QUỶ
Với mỹ nhân xe duyên kết tóc
Sinh ra đời Lộc Tục hoàng nam
Cắm lều, dựng trại, chiêu dân
Đặt tên Xích Quỷ giang sơn một vùng
Kinh Dương Vương xưng hùng một cõi
Đất nước dài một giải mênh mông
Kết hôn con gái Thần Long
Sinh ra Sùng Lãm nối dòng Vương gia
LẠC LONG QUÂN
Lạc Long Quân có bà vợ trẻ
Nàng Âu Cơ diễm lệ thướt tha
Bà sinh một bọc trứng ngà
Một trăm trứng nở thành ra trăm người
Đi theo cha, năm mươi về tới
Bỏ núi rừng ra mãi Biển Đông
Mẹ cha dòng dõi : Tiên , Rồng
Như rừng với biển khó lòng cùng nhau
HÙNG VƯƠNG - VĂN LANG
Mãi về sau, Long Quân chọn được
Đất Phong Châu khí vượng kinh đô
Văn Lang lập quốc bấy giờ
Hùng Vương xưng đế, cõi bờ tuần tra
Nước Văn Lang, nhìn ra Đông Hải
Động Đình Hồ ở mãi Bắc phương
Bờ Tây : Ba Thục chắn đường
Phía Nam giáp nước Hồ Tôn của Chàm
Chia đất nước ra làm mấy bộ
Lấy Văn Lang làm chỗ trung quân
Việt Thường, Ninh Hải, Cửu Chân
Hoài Hoan, Giao Chỉ, Bình Văn, Dương Tuyền
Miền Vũ Dịch, Chu Diên, Cửu Đức
Miề⮠Tân Hưng, Phúc Lộc, Vũ Ninh
Ngoài xa Lục Hải mấy thành
Bên trong Lạc Tướng vây quanh bên ngài
Người Bách Việt chen vai sát cánh
Sống quây quần bên nhánh sông Lô
Đất, rừng trù phú trời cho
Dân chuyên nông nghiệp, rành đồ gốm nung
Nền Văn Hóa Đông Sơn rực rỡ
Chế Trống Đồng dùng ở khắp nơi
Khai sinh tục vẽ trên người
Xâm mình để tránh các loài dưới sông
Vào cuối đời Vua Hùng thứ sáu
Phù Đổng hương có cậu con trai
Lên ba chẳng nói chẳng cười
Nghe tin giặc đến liền đòi sứ vô
Tâu Hoàng Thượng : Xin cho thảo tặc
Sẽ đánh nhừ tan tác giặc Ân
Xin đúc ngựa sắt roi thần
Để làm vũ khí đánh quân bạo tàn
Rồi vươn vai, xua tan lũ giặc
Xong quay về đến đất Sóc Sơn
Áo nhung bỏ lại bên đường
Dấu chân Phù Đổng Thiên Vương nay còn
Đời Thành Vương, vua sai đem lễ (1062 TCN)
Biếu nhà Chu : Bạch trĩ vũ mao
Mở đầu hai nước bang giao
Chu công đáp lại , xe trao đưa về
Nàng Mị Nương muôn bề sắc sảo
Trai Thục bang kỉnh báo cầu thân
Vua Hùng hỏi ý quần thần
Xét rằng bên Thục mười phân đáng ngờ
Việc hôn nhân chẳng qua là tính
Dùng mưu ngầm kiêm định Văn Lang
Vua Hùng đã biết ý gian
Lựa lời từ chối Thục Vương việc này
Lại treo bảng kén tài phò mã
Ai nhanh chân sẽ gả Mị Nương
Sơn Tinh sớm, được hưởng hương
Chậm chân chàng Thủy đau thương hận thầm
Thủy Tinh thề , mổi năm làm lụt
Ra oai thần mưa trút nước dâng
Thục Vương xấu hổ còn hơn
Dặn cho con cháu quyết tâm trả thù
THỜI ĐẠI NHÀ THỤC (257 - 208 TCN)
AN DƯƠNG VƯƠNG ÂU LẠC
Năm Giáp Thìn (257TCN) bấy giờ Thục Phán
Xâm lấn dần địa phận Văn Lang
Tự xưng hiệu An Dương Vương
Kinh đô đóng ở Việt Thường Phong Khê
Bỏ quốc hiệu Văn Lang ngày trước (257TCN)
Đổi ra thành Âu Lạc từ đây
Tính theo năm tháng đến rày
Hăm bảy thế kỷ , kế thay vua Hùng
Đời cuối cùng của giòng Hồng Lạc
Tính ra là mười tám Hùng Vương
Trải bao điền hải tang thương
Đến nay Thục Phán chiếm luôn riêng mình
Chọn được chỗ lương điền đất tốt
Vua cho người động thổ khởi công
Cổ Loa thành gọi Tư Long
Xoay theo xoắn ốc từ trong ra ngoài
Thành Tư Long xây hoài chẳng được
Thần Kim Quy bày chước trừ ma
Dặn rằng dù có can qua
Linh Quang, Kim Trảo, móng ta cho người
Cổ Loa thành bời bời dũng khí
Tường thì cao, hào rộng lại sâu
Giang sơn Vua Thục từ sau
Linh Giang Nam Bắc đối đầu Trung Hoa
Tần Thủy Hoàng làm vua Trung Quốc
Cho Nhâm Ngao đất được một miền (214TCN)
Triệu Đà giữ trấn Long Xuyên
Phía Nam Thiên Đức thuộc quyền Thục Vương
Đất Nam phương lăm le muốn lấy
Đã mấy lần thất bại mưu sâu
Sai con Trọng Thủy
Hồ Ðắc Duy
QUYỂN I
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
Dân tộc ta từ ngày dựng nước
Giòng sử thiêng đã được viết ra
Hằng nghìn năm trước trôi qua
Đất đây đã có quốc gia Việt Thường
THỜI ĐẠI HỒNG BÀNG
(2879 - 257 TCN)
Vua Thần Nông vốn giòng Lạc Việt
Cháu : Đế Minh . Nối nghiệp vua ban (2879 TCN)
Rừng xanh, Ngũ Lĩnh chiêm quan
Phương Nam chọn đất , cưới nàng Vụ Tiên
KINH DƯƠNG VƯƠNG - XÍCH QUỶ
Với mỹ nhân xe duyên kết tóc
Sinh ra đời Lộc Tục hoàng nam
Cắm lều, dựng trại, chiêu dân
Đặt tên Xích Quỷ giang sơn một vùng
Kinh Dương Vương xưng hùng một cõi
Đất nước dài một giải mênh mông
Kết hôn con gái Thần Long
Sinh ra Sùng Lãm nối dòng Vương gia
LẠC LONG QUÂN
Lạc Long Quân có bà vợ trẻ
Nàng Âu Cơ diễm lệ thướt tha
Bà sinh một bọc trứng ngà
Một trăm trứng nở thành ra trăm người
Đi theo cha, năm mươi về tới
Bỏ núi rừng ra mãi Biển Đông
Mẹ cha dòng dõi : Tiên , Rồng
Như rừng với biển khó lòng cùng nhau
HÙNG VƯƠNG - VĂN LANG
Mãi về sau, Long Quân chọn được
Đất Phong Châu khí vượng kinh đô
Văn Lang lập quốc bấy giờ
Hùng Vương xưng đế, cõi bờ tuần tra
Nước Văn Lang, nhìn ra Đông Hải
Động Đình Hồ ở mãi Bắc phương
Bờ Tây : Ba Thục chắn đường
Phía Nam giáp nước Hồ Tôn của Chàm
Chia đất nước ra làm mấy bộ
Lấy Văn Lang làm chỗ trung quân
Việt Thường, Ninh Hải, Cửu Chân
Hoài Hoan, Giao Chỉ, Bình Văn, Dương Tuyền
Miền Vũ Dịch, Chu Diên, Cửu Đức
Miề⮠Tân Hưng, Phúc Lộc, Vũ Ninh
Ngoài xa Lục Hải mấy thành
Bên trong Lạc Tướng vây quanh bên ngài
Người Bách Việt chen vai sát cánh
Sống quây quần bên nhánh sông Lô
Đất, rừng trù phú trời cho
Dân chuyên nông nghiệp, rành đồ gốm nung
Nền Văn Hóa Đông Sơn rực rỡ
Chế Trống Đồng dùng ở khắp nơi
Khai sinh tục vẽ trên người
Xâm mình để tránh các loài dưới sông
Vào cuối đời Vua Hùng thứ sáu
Phù Đổng hương có cậu con trai
Lên ba chẳng nói chẳng cười
Nghe tin giặc đến liền đòi sứ vô
Tâu Hoàng Thượng : Xin cho thảo tặc
Sẽ đánh nhừ tan tác giặc Ân
Xin đúc ngựa sắt roi thần
Để làm vũ khí đánh quân bạo tàn
Rồi vươn vai, xua tan lũ giặc
Xong quay về đến đất Sóc Sơn
Áo nhung bỏ lại bên đường
Dấu chân Phù Đổng Thiên Vương nay còn
Đời Thành Vương, vua sai đem lễ (1062 TCN)
Biếu nhà Chu : Bạch trĩ vũ mao
Mở đầu hai nước bang giao
Chu công đáp lại , xe trao đưa về
Nàng Mị Nương muôn bề sắc sảo
Trai Thục bang kỉnh báo cầu thân
Vua Hùng hỏi ý quần thần
Xét rằng bên Thục mười phân đáng ngờ
Việc hôn nhân chẳng qua là tính
Dùng mưu ngầm kiêm định Văn Lang
Vua Hùng đã biết ý gian
Lựa lời từ chối Thục Vương việc này
Lại treo bảng kén tài phò mã
Ai nhanh chân sẽ gả Mị Nương
Sơn Tinh sớm, được hưởng hương
Chậm chân chàng Thủy đau thương hận thầm
Thủy Tinh thề , mổi năm làm lụt
Ra oai thần mưa trút nước dâng
Thục Vương xấu hổ còn hơn
Dặn cho con cháu quyết tâm trả thù
THỜI ĐẠI NHÀ THỤC (257 - 208 TCN)
AN DƯƠNG VƯƠNG ÂU LẠC
Năm Giáp Thìn (257TCN) bấy giờ Thục Phán
Xâm lấn dần địa phận Văn Lang
Tự xưng hiệu An Dương Vương
Kinh đô đóng ở Việt Thường Phong Khê
Bỏ quốc hiệu Văn Lang ngày trước (257TCN)
Đổi ra thành Âu Lạc từ đây
Tính theo năm tháng đến rày
Hăm bảy thế kỷ , kế thay vua Hùng
Đời cuối cùng của giòng Hồng Lạc
Tính ra là mười tám Hùng Vương
Trải bao điền hải tang thương
Đến nay Thục Phán chiếm luôn riêng mình
Chọn được chỗ lương điền đất tốt
Vua cho người động thổ khởi công
Cổ Loa thành gọi Tư Long
Xoay theo xoắn ốc từ trong ra ngoài
Thành Tư Long xây hoài chẳng được
Thần Kim Quy bày chước trừ ma
Dặn rằng dù có can qua
Linh Quang, Kim Trảo, móng ta cho người
Cổ Loa thành bời bời dũng khí
Tường thì cao, hào rộng lại sâu
Giang sơn Vua Thục từ sau
Linh Giang Nam Bắc đối đầu Trung Hoa
Tần Thủy Hoàng làm vua Trung Quốc
Cho Nhâm Ngao đất được một miền (214TCN)
Triệu Đà giữ trấn Long Xuyên
Phía Nam Thiên Đức thuộc quyền Thục Vương
Đất Nam phương lăm le muốn lấy
Đã mấy lần thất bại mưu sâu
Sai con Trọng Thủy
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Tống Hoàng Linh
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)