D D MẸ MANG THANG
Chia sẻ bởi Duy Dai |
Ngày 24/10/2018 |
109
Chia sẻ tài liệu: D D MẸ MANG THANG thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Chế độ dinh dưỡng dành cho
phụ nữ cho con bú
Môn : Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
Nhóm thực hiện : 1. Vũ Thị Anh
2. Võ Đăng Lân
3. Trương Kim Trọng
Phần I. Dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai:
Mầm sống mới trong cơ thể người mẹ hoàn toàn dựa vào sự tuần hoàn máu của "bà bầu" để hấp thu oxy và các chất dinh dưỡng, từ đó hoàn thành quá trình chuyển hóa, phát triển.
Dinh dưỡng của người mẹ là dinh dưỡng của mầm sống mới, bà bầu thiếu dinh dưỡng có nghĩa là nguồn chất chuyển hóa của bào thai bị thiếu hụt, quá trình sinh trưởng, phát triển của bào thai sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Việc bồi bổ cũng phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thai nhi thì mới đạt hiệu quả cao.
Thường chia làm 3 giai đoạn dinh dưỡng :
Ở thời kỳ đầu mang thai (giai đoạn 3 tháng đầu), thai nhi phát triển tương đối chậm, do vậy nhu cầu về các loại chất dinh dưỡng chỉ cần đáp ứng giống như trước khi mang thai, nghĩa là đủ dinh dưỡng hợp lý cung cấp cho người mẹ cả về đạm, đường, mỡ và các yếu tố vi lượng như khoáng chất và các vitamin.
Ở thời kỳ giữa mang thai (được 4-7 tháng): Giai đoạn này thai nhi phát triển mạnh, do đó đòi hỏi nhu cầu về các loại chất dinh dưỡng tăng lên rất cao. Nếu như không đáp ứng lượng dinh dưỡng cần thiết sẽ xuất hiện nhiều hiện tượng khó chịu như thiếu máu, chuột rút...
Trong thời kỳ này, người mẹ cần ăn nhiều các thức ăn giàu dinh dưỡng như trứng, thịt nạc, cá, đậu, sữa, rau xanh và trái cây để tăng cường đạm, đường, các khoáng chất đặc biệt là canxi, sắt, kẽm, iốt, axit folic, sêlen..., các vitamin đặc biệt là nhóm B, vitamin C, A, D, E... ăn ít mỡ, nhưng lại cần ăn cá nhiều để dễ hấp thu canxi và axit béo omega-3.
Khi mang thai ở tuần thứ 15, mỗi ngày nên uống 2g canxi để huyết áp luôn giữ ở mức thấp hơn trung bình trong suốt thai kỳ
Thời kỳ cuối mang thai (được 8-9 tháng), thai nhi phát triển nhanh hơn, song lượng dinh dưỡng cần được tích trữ trong thai nhi cũng cao nhất ở giai đoạn này. Vì vậy nhu cầu về chất dinh dưỡng trong từng bữa cơm cũng rất cao, nên người mẹ phải ăn đa dạng thức ăn giàu dinh dưỡng để bảo đảm nhu cầu phát triển nhanh chóng của thai nhi.
Khi xây dựng một thực đơn cho bữa ăn đầy đủ chất cần phải hội tụ 3 nguyên tắc:
- Thức ăn phải có đủ 4 nhóm chất: chất đạm, chất béo, chất bột đường, các vitamin và muối khoáng, chất xơ.
- Cần đủ nước cho cơ thể để chuyển hóa các chất thông qua các phản ứng sinh hóa trong cơ thể, giải phóng năng lượng, thực hiện quá trình đồng hóa và dị hóa của cơ thể, đào thải các cặn bã, chất độc trong cơ thể qua đường niệu, mồ hôi, hơi thở..., điều hòa thân nhiệt, tuần hoàn huyết dịch... Vì vậy, nước chiếm hầu hết trong cơ thể và các tế bào kể cả tế bào xương, thần kinh...
- Thực phẩm phải an toàn: Thịt, cá, hải sản, trái cây phải tươi sống, thực phẩm chế biến sẵn như sữa chua, xúc xích, ruốc bảo đảm không có hóa chất, biến đổi gen... Các loại rau quả khi chế biến không làm nhàu nát để khi rửa không làm mất các vitamin tan trong nước như nhóm B, C, PP, acid folic... Thay đổi thực đơn thích hợp để vừa đủ chất lại ngon miệng, kích thích ăn uống.
Thực phẩm nên tránh
Các loại động vật có vỏ như trai, sò, vẹm, cua, hến và tôm v.v... Trong thời gian mang thai tuyệt đối không nên ăn gỏi cá.
Tránh ăn một số loại thực phẩm khác như patê, khoai lên mầm, cafein, rượu, trứng sống, trứng chế biến chưa chín, thịt súc vật sống, phó mát xanh, cá biển sống sâu dưới lòng đại dương như cá mập, cá kiếm, cá ngừ...
Thực phẩm nên ăn
Các loại hạt tươi sống như quả hồ đào, hạt điều, đậu, đỗ, vừng v.v... đây là những nguồn thực phẩm có chứa hàm lượng các dưỡng chất cao. Tuy nhiên đây cũng là nguồn thực phẩm giàu mỡ, nhưng các chất mỡ này lại có tác dụng rất tốt cho việc phát triển trí não và thần kinh của trẻ sơ sinh. Trong số những loại thực phẩm dạng hạt này, các loại hạt tươi sống được xem là tốt nhất.
Chuối: Theo rất nhiều nghiên cứu khoa học thì chuối là thực phẩm rất bổ dưỡng cho con người. Nếu phụ nữ mang thai ăn nhiều chuối sẽ có tác dụng tốt cho việc giảm thiểu hiện tượng co thắt, nhất là ở phụ nữ cao tuổi. Lý do là chuối có chứa nhiều magiê khoáng, có tác dụng làm thư giãn cơ bắp, kích hoạt quá trình co bóp trong khi trở dạ sinh con bằng cách giảm căng dạ con và tạo năng lượng cho quá trình sinh đẻ. Ăn nhiều chuối kèm với một nhóm hạt điều hay đậu, đỗ có thể làm cân bằng lượng đường trong máu, duy trì sức khỏe dẻo dai và không bị mệt.
Thực phẩm giàu vitamin B: Vitamin B, kể cả axit folic là những dưỡng chất vô cùng cần thiết để giúp cơ thể tạo ra tế bào máu, giúp não trẻ phát triển tốt, cân bằng năng lượng trong cơ thể người mẹ. Những nguồn thực phẩm giàu vitamin B như các loại thực phẩm dạng hạt nguyên, kể cả gạo, mì, kê, ngũ cốc, lạc, vừng, đậu đỗ, rau lá xanh thẫm, chuối, lê, thịt gà, cá hồi, sữa pho mát...
Lượng vitamin B bổ sung hàng ngày ở phụ nữ mang thai là 20mg - 25mg (B1, B2, B3, B5 và B6), Biotin và 500mg đối với axit folic. Cá hồi chế biến cho thêm tỏi gừng, nấm, cải xào hoặc rau các loại ăn với cơm vừa ngon, vừa bổ dưỡng.
Trứng: Theo một số nghiên cứu thì ăn lòng đỏ trứng gà trong giai đoạn mang thai có thể làm tăng trí thông minh cho đứa trẻ trong tương lai, lý do là lòng đỏ trứng gà có chứa một loại mỡ rất quan trọng làm tăng trí thông minh và trí nhớ của trẻ. Tuy nhiên, không nên lạm dụng quá nhiều mà chỉ nên ăn không quá 5 quả/tuần
Một khẩu phần hợp lý với người có thai trong 6 tháng cuối phải bảo đảm mỗi ngày được cung cấp 2.550 Kcalo (bình thường 2.200 Kcalo), 1,5-2g protein/kg, 0,7-1g lipid (mỡ và dầu)/kg, 6-7 glucid/kg; có đủ vitamin, chất khoáng và vi chất. Với những gia đình kinh tế eo hẹp, cũng phải cố gắng dành ưu tiên cho người mẹ trong 3 tháng cuối của thai kỳ sao cho mỗi ngày được bổ sung thêm 350 Kcalo, 15g protein, 0,2mg vitamin B1, 0,2mg vitamin B2, 2,3mg vitamin PP; bảo đảm cung cấp 30mg vitamin C, 750 microgam vitamin A, 10 đơn vị vitamin D, 1-1,2g canxi, 14-28mg sắt.
Rau quả là nguồn chủ yếu cung cấp cho cơ thể vitamin, chất khoáng và vi chất dinh dưỡng. Lượng vitamin C trong rau muống tính theo mg là 20; rau ngót 143, rau dền: 26; lượng caroten trong cà chua: 1,90, cà rốt 0,85-7,65, gấc 18,3, hành lá: 4,80, rau dền 1,44, rau muống 2,50, rau thơm 2,80, đu đủ chín 1,30, muỗm 3,05.
Trong suốt thai kỳ, người mẹ cần tăng 10-12kg. Trong đó, ba tháng đầu tăng 1kg, ba tháng giữa tăng 4-5kg và ba tháng cuối tăng 5-6kg.
Nhóm BMI Tăng cân đề nghị (kg) cho 6 tháng cuối
Thấp 0,5kg/tuần
Bình thường 0,4kg/tuần
Cao 1,3kg/tuần
Note: Chỉ số khối cơ thể của phụ nữ trước khi có thai (BMI - Body Mass Index)
Nhóm thực phẩm 4 tháng đầu 5 tháng cuối Mẹ cho con bú
Nhóm ngũ cốc, khoai 1 lon ½ 1 lon ¾ 1 lon ½
1/2 lon gạo
= 1 ổ bánh mì 160g
= 2 củ khoai lang 150g
= 4 củ khoai tây 150g
Nhóm dầu, mỡ, bơ... 3 muỗng 4 muỗng 1,5 – 2 muỗng
Nhóm thức ăn giàu đạm 250g 400 - 450g 250g
(Quy ra thịt).
60g thịt = 1 trứng gà
= 1/2 bìa tàu hũ
= 1 ly sữa tươi
= 2-3 hũ yaourt
(Nên ăn 3-7 trứng/tuần,uống ít nhất 1 ly sữa bò, sữa đậu nành/ngay,1 chén tàu hũ + nước đường)
Nhóm rau lá xanh và rau khác: 350 - 400g 400 - 450g 300 - 400g
Nên ăn 1/2 dưới dạng nước ép tươi, 1/2 dưới dạng xào, luộc, hoặc trong canh. Rau lá càng xanh đậm, rau trái, củ càng đậm màu sắc xanh, đỏ, vàng, cam càng giàu vitamin.
Nhóm nước mắm, nước chấm... 1,5 - 2 muỗng 2 - 3 muỗng 1 - 1,5 muỗng
Nhóm trái cây tráng miệng: 2 trái chuối 3 trái chuối 2 - 3 trái
Có thể thay thế chuối = 300-350g đu đủ
= 2 trái cam hay quýt
= 2 trái vú sữa
= 1/2 trái bưởi
Phần II.
I.Sữa mẹ được tạo ra như thế nào ?
Sữa được tạo ra nhờ 2 chất trong cơ thể mẹ: prolactin và oxytoxin.
1. Prolactin - chất kích thích tạo sữa
Prolactin là một chất do não của mẹ tiết ra khi bé mút vú mẹ. Chất này có tác dụng kích thích tạo sữa. Do vậy, bé càng mút vú, mẹ sẽ càng tạo nhiều sữa và không cần phải bỏ cữ bú nào của trẻ với ý định để dành sữa cho bữa bú sau. Nếu bà mẹ không cho bé bú hoặc bú ít thì vú sẽ giảm và ngưng tiết sữa.
Khi bé không bú hết, lượng sữa tồn đọng trong vú sẽ là chất ức chế, ngăn cản sự tạo sữa. Vì vậy, mẹ phải vắt hết sữa bằng tay hoặc bằng bơm để giúp sữa tiếp tục được tạo ra.
Prolactin được tiết ra nhiều về đêm, nên cho bú đêm nếu bé đòi bú.
2. Oxytoxin - chất kích thích sữa trong vú được chảy ra
Oxytoxin là một chất do não mẹ tiết ra khi cho bé mút vú mẹ, làm cho sữa trong vú chảy ra khi bé bú mẹ.
Sự tạo sữa dễ bị ảnh hưởng bởi những cảm giác và tình cảm của mẹ. Khi mẹ cảm thấy hài lòng, thương yêu trẻ và tin tưởng sữa mình là tốt nhất cho trẻ, điều này giúp tăng tiết sữa. Nếu mẹ lo lắng hoặc nghi ngờ là mình không đủ sữa, sữa mẹ sẽ ngừng chảy. Vì vậy, sau khi sinh, mẹ nên nằm cạnh con để có sự gắn bó tình cảm với trẻ và cho trẻ bú sớm. Việc cho trẻ bú sớm còn giúp cho dạ con (tử cung) co hồi tốt và làm ngưng chảy máu sau khi sinh.
3. Quá trình xuống sữa
Sau khi sinh, vú mẹ tiết ra một ít sữa non có màu vàng nhạt và sánh. Sau đó, mẹ sẽ cảm thấy hai vú căng đầy, gọi là xuống sữa. Sự xuống sữa sẽ xảy ra nhanh nếu bé được cho bú ngay sau khi sinh. Thời gian tiếp theo, mẹ có cảm giác bầu vú ít căng hơn, nhưng sữa vẫn đang tiếp tục được sản xuất và đủ cho bé ít nhất từ 4 đến 6 tháng tuổi
II. Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ:
Sữa mẹ luôn là thức ăn tốt nhất cho bé, ngay cả khi mẹ bị bệnh, có thai, có kinh hay gầy ốm. Sữa mẹ chứa tất cả các chất dinh dưỡng mà trẻ cần trong khoảng thời gian 4-6 tháng tuổi.
Chất đạm và chất béo trong sữa mẹ dễ tiêu hóa và dễ hấp thụ, có men lypase giúp tiêu hóa chất mỡ
Đường lactose trong sữa mẹ nhiều hơn các loại sữa khác. Đó là chất thiết yếu cho cơ thể đang phát triển của bé
Chất sắt trong sữa mẹ dễ hấp thu nên bé bú mẹ sẽ không bị thiếu máu do thiếu sắt
Sữa mẹ có đầy đủ các loại vitamin và lượng nước cần thiết cho bé ngay cả khi thời tiết nóng. Nếu bé được bú mẹ hoàn toàn, không cần bổ sung thêm nước, vitamin hoặc nước trái cây trong vòng 4 tháng đầu.
Sữa mẹ chứa đủ lượng canxi và phốt phát, giúp bé phát triển tốt.
Sữa mẹ giúp trẻ phát triển trí não tối ưu. Trẻ được nuôi bằng sữa mẹ đạt chỉ số phát triển trí tuệ MDI = 108.
Sữa mẹ giúp trẻ chống lại các bệnh nhiễm khuẩn.
Tiện lợi và tiết kiệm: Sữa mẹ có sẵn và ít tốn kém hơn nuôi con bằng sản phẩm thay thế.
Gắn bó tình cảm giữa mẹ và con
Giúp mẹ co hồi tử cung sớm sau khi sinh
Vóc dáng người mẹ nhanh chóng trở về bình thường
Giảm nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng ở mẹ
Giảm khả năng thụ thai trở lại của người mẹ
III. Những thay đổi của sữa mẹ:
1. Sữa non:
Là sữa đầu tiên được tạo ra từ vú. Vú bắt đầu tạo sữa non (đặc, dính, vàng hay trắng) vào tuần thứ 16 của thời kỳ mang thai. Vì sữa non có rất ít nên một số bạn lần đầu tiên làm mẹ nghĩ rằng mình “không có sữa”. Sữa non tuy ít nhưng lại rất bổ. Đó là thức ăn lý tưởng cho bé sơ sinh vì:
Sữa non có chứa một lượng lớn kháng thể giúp bảo vệ bé chống lại bệnh tật trong những tháng đầu tiên
Sữa non là nguồn dinh dưỡng rất đậm đặc, chứa nhiều protein và muối khoáng.
Chỉ có một lượng ít sữa non nên bé sơ sinh thực tập bú mẹ dễ dàng hơn: Mút, nuốt và thở cùng lúc một cách nhịp nhàng. Khi bé quen dần động tác bú, cơ thể bạn sẽ tiết sữa nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của bé.
Sữa non có nhiều chất bảo vệ cơ thể, giúp bé chống nhiễm khuẩn và dị ứng.
Nó cũng có tác dụng xổ nhẹ, hỗ trợ việc tống phân xu và giúp bé đỡ bị vàng da.
Các yếu tố phát triển trong sữa non giúp bộ máy tiêu hóa của bé trưởng thành.
Sữa non còn có nhiều vitamin A, giúp bé phòng chống nhiễm khuẩn và bệnh khô mắt do thiếu vitamin A.
Vì vậy, nên cho bé bú sớm từ nửa giờ đến một giờ sau khi sinh. Không được cho trẻ dùng bất kỳ thức ăn, thức uống nào trước khi bé bắt đầu bú mẹ
2. Sữa trung gian:
Thành phần bắt đầu ổn định, lượng đạm giảm, đường lactose, chất béo và năng lượng gia tăng.
3. Sữa trưởng thành:
Thành phần ổn định hơn và gia tăng về số lượng. Sữa loãng hơn, có màu trắng xanh, giàu chất béo và năng lượng hơn
Trong một cữ bú của bé, thành phần của sữa thay đổi như sau:
Sữa đầu: Là sữa ở đầu cữ bú của bé, có màu trắng trong và lỏng. Bé bú sữa đầu sẽ nhận được nhiều chất dinh dưỡng: protein, lactose, vitamin, chất khoáng và nước.
Sữa cuối: Là sữa ở cuối cữ bú, có màu trắng đục vì chứa nhiều chất béo.
Cần cho bé bú hết một bên vú rồi mới chuyển sang vú khác để nhận được chất béo có nhiều năng lượng, giúp bé tăng cân tốt.
Bé bú mẹ ít bị tiêu chảy, ít bị nhiễm khuẩn đường hô hấp như viêm họng, viêm phổi...
IV. Chế độ ăn của mẹ:
Khi cho con bú, nhu cầu dinh dưỡng và năng lượng cho mẹ cao hơn cả khi mang thai.
Người mẹ cần ăn uống đầy đủ và cân đối, không nên kiêng khem quá mức. Mỗi ngày bạn cần ăn nhiều thức ăn từ mỗi nhóm sau:
+ Thịt, cá, gà, trứng, bơ …
+ Các loại hạt, đậu.
+ Trái cây và nước quả.
+ Rau cải xanh và rau quả có màu vàng.
+ Bánh mì, ngũ cốc, gạo, mì nui.
+ Sữa và phô mai.
Những điều cần tránh:
+ Cà phê, thuốc lá, rượu bia.
+ Thức ăn nhiều gia vị như ớt, hành, tỏi, tiêu …
+ Không lao động quá mức.
+ Tránh lo lắng, buồn phiền.
1. Cố gắng ăn những thực phẩm có nhiều chất dinh dưỡng. Bạn nên kềm chế cơn thèm với những thứ trước đây bạn thích nhưng có chứa ít hàm lượng calo nhé.
2. Cân bằng chế độ dinh dưỡng hàng ngày với lượng protein, chất béo, cacbonhydrate vừa đủ.
3. Mỗi ngày cung cấp thêm hàm lượng calo, không quá 500g.
4. Uống nhiều nước vì khi cho con bú cơ thể sẽ bị thiếu nước. Trước mỗi lần cho con bú, nên uống một cốc nước, tuyệt đối tránh dùng cà phê hay các thức uống khác như: bia, rượu, trà…Nên uống 8 cốc nước mỗi ngày.
5. Nếu bạn nghiện hoặc thèm rượu hoặc uống vì bất kỳ lý do gì thì chỉ uống khi đảm bảo không cho con bú sau đó một vài giờ, và không uống quá 1 hoặc 2 cốc/ngày.
Trong chế độ ăn uống hàng ngày nên chú ý tới lượng calci và sắt. Để giúp cho cơ thể bạn hấp thụ chất sắt tốt hơn, kết hợp thực phẩm giàu chất sắt với thực phẩm chứa vitamin C.
7. Vẫn tiếp tục duy trì “nạp” lượng vitamin giống như trước khi sinh. Dành chút thời gian phơi nắng hàng ngày để làm tăng lượng vitamin D trong cơ thể bạn.
Lưu ý:
Cho con bú chính là phương thức hữu hiệu để giúp bạn giảm cân..
Hãy xem xét kỹ lưỡng các loại thuốc mà bạn sử dụng
Một chế độ ăn chay hợp lý cũng không quá ảnh hưởng gì đến các bà mẹ khi đang cho con bú. Nhưng nếu vì lý do gì đó mà bạn đang thực hiện chế độ ăn chay thì nên tìm cách cung cấp đủ các dưỡng chất, vitamin cần thiết.
Nếu như trẻ hay khóc hoặc đau bụng thì có lẽ trẻ rất nhạy cảm với chế độ ăn uống của bạn đấy (đặc biệt trong gia đình bạn có “tiền sử” bị dị ứng thức ăn). Thủ phạm có thể là các thực phẩm chế biến từ sữa, cà phê, thực phẩm có chứa chất acid và chất cay nóng.
Trong suốt thời kỳ mang thai, mẹ cần tăng từ 10 đến 12 kg, (trong đó, 3 tháng đầu tăng 1-2 kg, 3 tháng giữa tăng 4-5 kg, 3 tháng cuối tăng 5-6 kg).
Trong ba bữa ăn chính hằng ngày, mỗi bữa nên ăn thêm 1 bát cơm. Ăn thêm 1-2 bữa phụ như củ khoai, bắp ngô, trái chuối, bánh giò, quả trứng hay ly sữa. Ưu tiên các thực phẩm có nhiều canxi, phốt pho như sữa, thịt, cá, tôm, cua, rau xanh...(để giúp cho sự tạo xương của thai nhi) và có nhiều đạm, chất sắt như gan, thịt, cá, trứng, sữa, lạc, vừng, đậu đỗ... (để phòng thiếu máu).
Nên ăn các thực phẩm có nhiều đạm và giàu tiền sinh tố A. Đó là các loại rau màu xanh đậm và màu đỏ như rau ngót, rau muống, rau lang, xà lách, mùng tơi, rau dền; các loại quả chín có màu vàng cam như chuối, đu đủ, cam, xoài...
V. Một số món ăn tăng tiết sữa:
1. Canh móng giò, hoàng kỳ: Móng giò 500 g, hoàng kỳ 30 g, đương quy 15 g, thông thảo 4 g. Tất cả cho vào nồi hầm nhừ, cho thêm ít rượu và mấy lát gừng nấu thêm chút nữa là ăn được, ăn hết cả nước lẫn cái. Ăn trong 5-7 ngày.
2. Sườn lợn hầm sơn giáp: Sườn lợn 500 g, xuyên sơn giáp 10 g, hoàng kỳ 30 g. Tất cả nấu cùng đến nhừ, thêm chút rượu vào, ăn thịt uống canh. Cần ăn 4-5 ngày.
3. Thịt cừu hầm đương quy: Thịt cừu 500 g, đương quy 20 g, cho cả vào hầm nhừ, sau thêm chút rượu và mấy lát gừng tươi, ăn thịt uống canh. Ăn trong 4-5 ngày.
4. Canh móng giò: Móng giò 1 cặp, gia vị vừa đủ, luộc chín vớt ra, giữ nước cho mì vào, ăn mì nước với móng giò. Cần ăn trong 7-10 ngày.
5. Canh móng giò, thông thảo: Móng giò 1 chiếc, thông thảo 2 g, cho vào cùng luộc nhừ, nêm gia vị vừa miệng, ăn thịt, uống nước canh. Mỗi ngày ăn 1 lần, cần ăn 4-6 ngày.
6. Canh móng giò, lá quýt, thanh bì: Móng giò 500 g, lá quýt diệp 10 g, thanh bì 10 g, nấu chín nhừ ăn thịt uống nước canh. Ăn trong 5-7 ngày.
7. Canh mạch nha, cá diếc: Cá diếc sống 1 con, mạch nha 20 g, nấu chín, nêm đủ gia vị, ăn cá uống nước canh. Cần ăn 5-7 ngày.
8. Canh cá diếc, thông thảo: Cá diếc sống 1 con, thông thảo 3 g, đương quy 5 g, nấu cùng, chín ăn cá, uống nước canh. Cần ăn 5-7 ngày.
9. Gà mái hầm hoàng kỳ: Gà mái 1 con, hoàng kỳ 50 g, cho hầm nhừ pha chút rượu và mấy lát gừng, ăn cái uống nước canh. Cần ăn 4-5 lần, ngày 1 lần, có thể ăn cách nhật
Đối với bà mẹ nuôi con bú, nǎng lượng cung cấp tỷ lệ với lượng sữa sản xuất, nhưng nói chung, ở bà mẹ nuôi con 6 tháng đầu, nǎng lượng cần đạt được 2750 Kcal/ngày, như vậy, nǎng lượng tǎng thêm mỗi ngày là 550 Kcal (tương đương với 3 bát cơm mỗi ngày).
Cần cho trẻ bú sớm 30 phút sau khi sinh, cho trẻ bú hoàn toàn 4 tháng đầu, không nên cai sữa trước 12 tháng, nên cho trẻ bú đến 18-24 tháng
VI. Mẹ cần lưu ý:
1. Không được cho con bú khi:
- Dùng thuốc trị bệnh ung thư.
- Trị bệnh bằng các chất phóng xạ.
2. Nên tạm ngưng cho bú khi:
- Dùng các thuốc tâm thần hoặc thuốc chống co giật (barbiturate, diazepam) vì trẻ có thể bị lơ mơ hoặc hoạt động cơ bắp bị yếu đi.
- Uống một số thuốc kháng sinh như cloramphenicol, metronidazole, tetracyclin, ciprofloxacin...
Nên theo dõi vàng da ở trẻ nếu mẹ sử dụng sulfonamide, cotrimoxazone, fansidar, dapsone... Mẹ không nên dùng những thuốc làm giảm tiết sữa như thuốc tránh thai có oestrogen, thuốc lợi niệu.
Vẫn cho bé bú và theo dõi khi bà mẹ dùng các loại thuốc sau với liều bình thường:
- Thuốc giảm đau, hạ sốt như paracetamol (Acmol), acetyl salicylic acide (Aspirin), ibuprofen...
- Nhóm morphine, pethidinne...
- Thuốc kháng sinh: ampiciline, erythoromycine, cloxaciline, penicilline.
- Thuốc chống lao, chống phong.
- Thuốc chống sốt rét (trừ mefloquine).
- Thuốc chống nấm, tẩy giun sán.
- Thuốc trị hen, dị dứng như salbutamol, corticoide, kháng histamin...
- Thuốc trị bệnh cao huyết áp, tiểu đường.
- Các loại vitamin (đặc biệt không dùng vitamin A liều cao ở phụ nữ có thai), chất khoáng như sắt, iốt...
Khi cai sữa cho trẻ cần chú ý:
- Không nên cai sữa cho trẻ quá sớm, khi chưa đủ thức ǎn thay thế hoàn toàn những bữa bú mẹ.
- Không nên cai sữa cho trẻ vào mùa hè nóng nực, trẻ kém ǎn.
- Không nên cai sữa cho trẻ đột ngột dễ gây sang chấn tinh thần làm cho trẻ quấy khóc biếng ǎn.
- Không cai sữa cho trẻ khi trẻ bị ốm nhất là khi bị tiêu chảy vì thức ǎn thay thế trẻ chưa thích nghi được càng bị rối loạn tiêu hoá, dễ gây hậu quả suy dinh dưỡng.
Sau khi cai sữa, cần có các chế độ ǎn thay thế đảm bảo đủ chất dinh dưỡng cho trẻ, nhất là chất đạm (thịt, cá, trứng, đậu, đỗ...) chất béo (dầu, mỡ) và các loại rau quả.
Bảo vệ nguồn sữa mẹ.
a. Muốn có sữa cho con bú thì người mẹ ngay trong thời kỳ có thai cần được ǎn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, có chế độ nghỉ ngơi, lao động hợp lý, tinh thần thoải mái, giúp người mẹ tǎng cân tốt (10 - 12kg), đó là nguồn dự trữ mỡ để sản xuất sữa sau khi sinh.
b. Khi nuôi con bú, điều trước tiên cần phải quan tâm là người mẹ cần được ǎn đủ, uống đủ ngủ đẫy giấc. Người mẹ nên ǎn uống bồi dưỡng. Khẩu phần ǎn cần cao hơn mức bình thường. Hàng ngày ǎn thêm vài bát cơm, một ít thịt, cá, hoặc trứng, một ít rau đậu. Nên ǎn thêm quả chín để có đủ vitamin. Các món ǎn cổ truyền như cháo chân giò gạo nếp, ý dĩ thường có tác dụng kích thích bài tiết sữa. Nên hạn chế các thức ǎn gia vị như ớt, hành, tỏi có thể qua sữa gây mùi khó chịu, trẻ dễ bỏ bú.
Khi cho con bú, nên hạn chế dùng thuốc vì một số thuốc có thể qua sữa gây ngộ độc cho trẻ và làm giảm tiết sữa.
Người mẹ cho con bú nên uống nhiều nước nhất là cháo, nước quả, sữa... (mỗi ngày khoảng một lít rưỡi đến hai lít).
d. Vì sữa mẹ được tiết theo cơ chế phản xạ, cho nên tinh thần của người mẹ phải thoải mái, tự tin tránh những cǎng thẳng, cảm xúc buồn phiền, lo âu, mất ngủ. Chế độ lao động nghỉ ngơi sau khi sinh đẻ có ảnh hưởng đến bài tiết sữa.
e. Điều quan trọng để tạo nhiều sữa, người mẹ cần cho con bú thường xuyên và bú đúng cách. Trẻ ngậm bắt bú đúng sẽ bú có hiệu quả và tránh đau rát vú.
phụ nữ cho con bú
Môn : Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
Nhóm thực hiện : 1. Vũ Thị Anh
2. Võ Đăng Lân
3. Trương Kim Trọng
Phần I. Dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai:
Mầm sống mới trong cơ thể người mẹ hoàn toàn dựa vào sự tuần hoàn máu của "bà bầu" để hấp thu oxy và các chất dinh dưỡng, từ đó hoàn thành quá trình chuyển hóa, phát triển.
Dinh dưỡng của người mẹ là dinh dưỡng của mầm sống mới, bà bầu thiếu dinh dưỡng có nghĩa là nguồn chất chuyển hóa của bào thai bị thiếu hụt, quá trình sinh trưởng, phát triển của bào thai sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Việc bồi bổ cũng phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thai nhi thì mới đạt hiệu quả cao.
Thường chia làm 3 giai đoạn dinh dưỡng :
Ở thời kỳ đầu mang thai (giai đoạn 3 tháng đầu), thai nhi phát triển tương đối chậm, do vậy nhu cầu về các loại chất dinh dưỡng chỉ cần đáp ứng giống như trước khi mang thai, nghĩa là đủ dinh dưỡng hợp lý cung cấp cho người mẹ cả về đạm, đường, mỡ và các yếu tố vi lượng như khoáng chất và các vitamin.
Ở thời kỳ giữa mang thai (được 4-7 tháng): Giai đoạn này thai nhi phát triển mạnh, do đó đòi hỏi nhu cầu về các loại chất dinh dưỡng tăng lên rất cao. Nếu như không đáp ứng lượng dinh dưỡng cần thiết sẽ xuất hiện nhiều hiện tượng khó chịu như thiếu máu, chuột rút...
Trong thời kỳ này, người mẹ cần ăn nhiều các thức ăn giàu dinh dưỡng như trứng, thịt nạc, cá, đậu, sữa, rau xanh và trái cây để tăng cường đạm, đường, các khoáng chất đặc biệt là canxi, sắt, kẽm, iốt, axit folic, sêlen..., các vitamin đặc biệt là nhóm B, vitamin C, A, D, E... ăn ít mỡ, nhưng lại cần ăn cá nhiều để dễ hấp thu canxi và axit béo omega-3.
Khi mang thai ở tuần thứ 15, mỗi ngày nên uống 2g canxi để huyết áp luôn giữ ở mức thấp hơn trung bình trong suốt thai kỳ
Thời kỳ cuối mang thai (được 8-9 tháng), thai nhi phát triển nhanh hơn, song lượng dinh dưỡng cần được tích trữ trong thai nhi cũng cao nhất ở giai đoạn này. Vì vậy nhu cầu về chất dinh dưỡng trong từng bữa cơm cũng rất cao, nên người mẹ phải ăn đa dạng thức ăn giàu dinh dưỡng để bảo đảm nhu cầu phát triển nhanh chóng của thai nhi.
Khi xây dựng một thực đơn cho bữa ăn đầy đủ chất cần phải hội tụ 3 nguyên tắc:
- Thức ăn phải có đủ 4 nhóm chất: chất đạm, chất béo, chất bột đường, các vitamin và muối khoáng, chất xơ.
- Cần đủ nước cho cơ thể để chuyển hóa các chất thông qua các phản ứng sinh hóa trong cơ thể, giải phóng năng lượng, thực hiện quá trình đồng hóa và dị hóa của cơ thể, đào thải các cặn bã, chất độc trong cơ thể qua đường niệu, mồ hôi, hơi thở..., điều hòa thân nhiệt, tuần hoàn huyết dịch... Vì vậy, nước chiếm hầu hết trong cơ thể và các tế bào kể cả tế bào xương, thần kinh...
- Thực phẩm phải an toàn: Thịt, cá, hải sản, trái cây phải tươi sống, thực phẩm chế biến sẵn như sữa chua, xúc xích, ruốc bảo đảm không có hóa chất, biến đổi gen... Các loại rau quả khi chế biến không làm nhàu nát để khi rửa không làm mất các vitamin tan trong nước như nhóm B, C, PP, acid folic... Thay đổi thực đơn thích hợp để vừa đủ chất lại ngon miệng, kích thích ăn uống.
Thực phẩm nên tránh
Các loại động vật có vỏ như trai, sò, vẹm, cua, hến và tôm v.v... Trong thời gian mang thai tuyệt đối không nên ăn gỏi cá.
Tránh ăn một số loại thực phẩm khác như patê, khoai lên mầm, cafein, rượu, trứng sống, trứng chế biến chưa chín, thịt súc vật sống, phó mát xanh, cá biển sống sâu dưới lòng đại dương như cá mập, cá kiếm, cá ngừ...
Thực phẩm nên ăn
Các loại hạt tươi sống như quả hồ đào, hạt điều, đậu, đỗ, vừng v.v... đây là những nguồn thực phẩm có chứa hàm lượng các dưỡng chất cao. Tuy nhiên đây cũng là nguồn thực phẩm giàu mỡ, nhưng các chất mỡ này lại có tác dụng rất tốt cho việc phát triển trí não và thần kinh của trẻ sơ sinh. Trong số những loại thực phẩm dạng hạt này, các loại hạt tươi sống được xem là tốt nhất.
Chuối: Theo rất nhiều nghiên cứu khoa học thì chuối là thực phẩm rất bổ dưỡng cho con người. Nếu phụ nữ mang thai ăn nhiều chuối sẽ có tác dụng tốt cho việc giảm thiểu hiện tượng co thắt, nhất là ở phụ nữ cao tuổi. Lý do là chuối có chứa nhiều magiê khoáng, có tác dụng làm thư giãn cơ bắp, kích hoạt quá trình co bóp trong khi trở dạ sinh con bằng cách giảm căng dạ con và tạo năng lượng cho quá trình sinh đẻ. Ăn nhiều chuối kèm với một nhóm hạt điều hay đậu, đỗ có thể làm cân bằng lượng đường trong máu, duy trì sức khỏe dẻo dai và không bị mệt.
Thực phẩm giàu vitamin B: Vitamin B, kể cả axit folic là những dưỡng chất vô cùng cần thiết để giúp cơ thể tạo ra tế bào máu, giúp não trẻ phát triển tốt, cân bằng năng lượng trong cơ thể người mẹ. Những nguồn thực phẩm giàu vitamin B như các loại thực phẩm dạng hạt nguyên, kể cả gạo, mì, kê, ngũ cốc, lạc, vừng, đậu đỗ, rau lá xanh thẫm, chuối, lê, thịt gà, cá hồi, sữa pho mát...
Lượng vitamin B bổ sung hàng ngày ở phụ nữ mang thai là 20mg - 25mg (B1, B2, B3, B5 và B6), Biotin và 500mg đối với axit folic. Cá hồi chế biến cho thêm tỏi gừng, nấm, cải xào hoặc rau các loại ăn với cơm vừa ngon, vừa bổ dưỡng.
Trứng: Theo một số nghiên cứu thì ăn lòng đỏ trứng gà trong giai đoạn mang thai có thể làm tăng trí thông minh cho đứa trẻ trong tương lai, lý do là lòng đỏ trứng gà có chứa một loại mỡ rất quan trọng làm tăng trí thông minh và trí nhớ của trẻ. Tuy nhiên, không nên lạm dụng quá nhiều mà chỉ nên ăn không quá 5 quả/tuần
Một khẩu phần hợp lý với người có thai trong 6 tháng cuối phải bảo đảm mỗi ngày được cung cấp 2.550 Kcalo (bình thường 2.200 Kcalo), 1,5-2g protein/kg, 0,7-1g lipid (mỡ và dầu)/kg, 6-7 glucid/kg; có đủ vitamin, chất khoáng và vi chất. Với những gia đình kinh tế eo hẹp, cũng phải cố gắng dành ưu tiên cho người mẹ trong 3 tháng cuối của thai kỳ sao cho mỗi ngày được bổ sung thêm 350 Kcalo, 15g protein, 0,2mg vitamin B1, 0,2mg vitamin B2, 2,3mg vitamin PP; bảo đảm cung cấp 30mg vitamin C, 750 microgam vitamin A, 10 đơn vị vitamin D, 1-1,2g canxi, 14-28mg sắt.
Rau quả là nguồn chủ yếu cung cấp cho cơ thể vitamin, chất khoáng và vi chất dinh dưỡng. Lượng vitamin C trong rau muống tính theo mg là 20; rau ngót 143, rau dền: 26; lượng caroten trong cà chua: 1,90, cà rốt 0,85-7,65, gấc 18,3, hành lá: 4,80, rau dền 1,44, rau muống 2,50, rau thơm 2,80, đu đủ chín 1,30, muỗm 3,05.
Trong suốt thai kỳ, người mẹ cần tăng 10-12kg. Trong đó, ba tháng đầu tăng 1kg, ba tháng giữa tăng 4-5kg và ba tháng cuối tăng 5-6kg.
Nhóm BMI Tăng cân đề nghị (kg) cho 6 tháng cuối
Thấp 0,5kg/tuần
Bình thường 0,4kg/tuần
Cao 1,3kg/tuần
Note: Chỉ số khối cơ thể của phụ nữ trước khi có thai (BMI - Body Mass Index)
Nhóm thực phẩm 4 tháng đầu 5 tháng cuối Mẹ cho con bú
Nhóm ngũ cốc, khoai 1 lon ½ 1 lon ¾ 1 lon ½
1/2 lon gạo
= 1 ổ bánh mì 160g
= 2 củ khoai lang 150g
= 4 củ khoai tây 150g
Nhóm dầu, mỡ, bơ... 3 muỗng 4 muỗng 1,5 – 2 muỗng
Nhóm thức ăn giàu đạm 250g 400 - 450g 250g
(Quy ra thịt).
60g thịt = 1 trứng gà
= 1/2 bìa tàu hũ
= 1 ly sữa tươi
= 2-3 hũ yaourt
(Nên ăn 3-7 trứng/tuần,uống ít nhất 1 ly sữa bò, sữa đậu nành/ngay,1 chén tàu hũ + nước đường)
Nhóm rau lá xanh và rau khác: 350 - 400g 400 - 450g 300 - 400g
Nên ăn 1/2 dưới dạng nước ép tươi, 1/2 dưới dạng xào, luộc, hoặc trong canh. Rau lá càng xanh đậm, rau trái, củ càng đậm màu sắc xanh, đỏ, vàng, cam càng giàu vitamin.
Nhóm nước mắm, nước chấm... 1,5 - 2 muỗng 2 - 3 muỗng 1 - 1,5 muỗng
Nhóm trái cây tráng miệng: 2 trái chuối 3 trái chuối 2 - 3 trái
Có thể thay thế chuối = 300-350g đu đủ
= 2 trái cam hay quýt
= 2 trái vú sữa
= 1/2 trái bưởi
Phần II.
I.Sữa mẹ được tạo ra như thế nào ?
Sữa được tạo ra nhờ 2 chất trong cơ thể mẹ: prolactin và oxytoxin.
1. Prolactin - chất kích thích tạo sữa
Prolactin là một chất do não của mẹ tiết ra khi bé mút vú mẹ. Chất này có tác dụng kích thích tạo sữa. Do vậy, bé càng mút vú, mẹ sẽ càng tạo nhiều sữa và không cần phải bỏ cữ bú nào của trẻ với ý định để dành sữa cho bữa bú sau. Nếu bà mẹ không cho bé bú hoặc bú ít thì vú sẽ giảm và ngưng tiết sữa.
Khi bé không bú hết, lượng sữa tồn đọng trong vú sẽ là chất ức chế, ngăn cản sự tạo sữa. Vì vậy, mẹ phải vắt hết sữa bằng tay hoặc bằng bơm để giúp sữa tiếp tục được tạo ra.
Prolactin được tiết ra nhiều về đêm, nên cho bú đêm nếu bé đòi bú.
2. Oxytoxin - chất kích thích sữa trong vú được chảy ra
Oxytoxin là một chất do não mẹ tiết ra khi cho bé mút vú mẹ, làm cho sữa trong vú chảy ra khi bé bú mẹ.
Sự tạo sữa dễ bị ảnh hưởng bởi những cảm giác và tình cảm của mẹ. Khi mẹ cảm thấy hài lòng, thương yêu trẻ và tin tưởng sữa mình là tốt nhất cho trẻ, điều này giúp tăng tiết sữa. Nếu mẹ lo lắng hoặc nghi ngờ là mình không đủ sữa, sữa mẹ sẽ ngừng chảy. Vì vậy, sau khi sinh, mẹ nên nằm cạnh con để có sự gắn bó tình cảm với trẻ và cho trẻ bú sớm. Việc cho trẻ bú sớm còn giúp cho dạ con (tử cung) co hồi tốt và làm ngưng chảy máu sau khi sinh.
3. Quá trình xuống sữa
Sau khi sinh, vú mẹ tiết ra một ít sữa non có màu vàng nhạt và sánh. Sau đó, mẹ sẽ cảm thấy hai vú căng đầy, gọi là xuống sữa. Sự xuống sữa sẽ xảy ra nhanh nếu bé được cho bú ngay sau khi sinh. Thời gian tiếp theo, mẹ có cảm giác bầu vú ít căng hơn, nhưng sữa vẫn đang tiếp tục được sản xuất và đủ cho bé ít nhất từ 4 đến 6 tháng tuổi
II. Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ:
Sữa mẹ luôn là thức ăn tốt nhất cho bé, ngay cả khi mẹ bị bệnh, có thai, có kinh hay gầy ốm. Sữa mẹ chứa tất cả các chất dinh dưỡng mà trẻ cần trong khoảng thời gian 4-6 tháng tuổi.
Chất đạm và chất béo trong sữa mẹ dễ tiêu hóa và dễ hấp thụ, có men lypase giúp tiêu hóa chất mỡ
Đường lactose trong sữa mẹ nhiều hơn các loại sữa khác. Đó là chất thiết yếu cho cơ thể đang phát triển của bé
Chất sắt trong sữa mẹ dễ hấp thu nên bé bú mẹ sẽ không bị thiếu máu do thiếu sắt
Sữa mẹ có đầy đủ các loại vitamin và lượng nước cần thiết cho bé ngay cả khi thời tiết nóng. Nếu bé được bú mẹ hoàn toàn, không cần bổ sung thêm nước, vitamin hoặc nước trái cây trong vòng 4 tháng đầu.
Sữa mẹ chứa đủ lượng canxi và phốt phát, giúp bé phát triển tốt.
Sữa mẹ giúp trẻ phát triển trí não tối ưu. Trẻ được nuôi bằng sữa mẹ đạt chỉ số phát triển trí tuệ MDI = 108.
Sữa mẹ giúp trẻ chống lại các bệnh nhiễm khuẩn.
Tiện lợi và tiết kiệm: Sữa mẹ có sẵn và ít tốn kém hơn nuôi con bằng sản phẩm thay thế.
Gắn bó tình cảm giữa mẹ và con
Giúp mẹ co hồi tử cung sớm sau khi sinh
Vóc dáng người mẹ nhanh chóng trở về bình thường
Giảm nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng ở mẹ
Giảm khả năng thụ thai trở lại của người mẹ
III. Những thay đổi của sữa mẹ:
1. Sữa non:
Là sữa đầu tiên được tạo ra từ vú. Vú bắt đầu tạo sữa non (đặc, dính, vàng hay trắng) vào tuần thứ 16 của thời kỳ mang thai. Vì sữa non có rất ít nên một số bạn lần đầu tiên làm mẹ nghĩ rằng mình “không có sữa”. Sữa non tuy ít nhưng lại rất bổ. Đó là thức ăn lý tưởng cho bé sơ sinh vì:
Sữa non có chứa một lượng lớn kháng thể giúp bảo vệ bé chống lại bệnh tật trong những tháng đầu tiên
Sữa non là nguồn dinh dưỡng rất đậm đặc, chứa nhiều protein và muối khoáng.
Chỉ có một lượng ít sữa non nên bé sơ sinh thực tập bú mẹ dễ dàng hơn: Mút, nuốt và thở cùng lúc một cách nhịp nhàng. Khi bé quen dần động tác bú, cơ thể bạn sẽ tiết sữa nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của bé.
Sữa non có nhiều chất bảo vệ cơ thể, giúp bé chống nhiễm khuẩn và dị ứng.
Nó cũng có tác dụng xổ nhẹ, hỗ trợ việc tống phân xu và giúp bé đỡ bị vàng da.
Các yếu tố phát triển trong sữa non giúp bộ máy tiêu hóa của bé trưởng thành.
Sữa non còn có nhiều vitamin A, giúp bé phòng chống nhiễm khuẩn và bệnh khô mắt do thiếu vitamin A.
Vì vậy, nên cho bé bú sớm từ nửa giờ đến một giờ sau khi sinh. Không được cho trẻ dùng bất kỳ thức ăn, thức uống nào trước khi bé bắt đầu bú mẹ
2. Sữa trung gian:
Thành phần bắt đầu ổn định, lượng đạm giảm, đường lactose, chất béo và năng lượng gia tăng.
3. Sữa trưởng thành:
Thành phần ổn định hơn và gia tăng về số lượng. Sữa loãng hơn, có màu trắng xanh, giàu chất béo và năng lượng hơn
Trong một cữ bú của bé, thành phần của sữa thay đổi như sau:
Sữa đầu: Là sữa ở đầu cữ bú của bé, có màu trắng trong và lỏng. Bé bú sữa đầu sẽ nhận được nhiều chất dinh dưỡng: protein, lactose, vitamin, chất khoáng và nước.
Sữa cuối: Là sữa ở cuối cữ bú, có màu trắng đục vì chứa nhiều chất béo.
Cần cho bé bú hết một bên vú rồi mới chuyển sang vú khác để nhận được chất béo có nhiều năng lượng, giúp bé tăng cân tốt.
Bé bú mẹ ít bị tiêu chảy, ít bị nhiễm khuẩn đường hô hấp như viêm họng, viêm phổi...
IV. Chế độ ăn của mẹ:
Khi cho con bú, nhu cầu dinh dưỡng và năng lượng cho mẹ cao hơn cả khi mang thai.
Người mẹ cần ăn uống đầy đủ và cân đối, không nên kiêng khem quá mức. Mỗi ngày bạn cần ăn nhiều thức ăn từ mỗi nhóm sau:
+ Thịt, cá, gà, trứng, bơ …
+ Các loại hạt, đậu.
+ Trái cây và nước quả.
+ Rau cải xanh và rau quả có màu vàng.
+ Bánh mì, ngũ cốc, gạo, mì nui.
+ Sữa và phô mai.
Những điều cần tránh:
+ Cà phê, thuốc lá, rượu bia.
+ Thức ăn nhiều gia vị như ớt, hành, tỏi, tiêu …
+ Không lao động quá mức.
+ Tránh lo lắng, buồn phiền.
1. Cố gắng ăn những thực phẩm có nhiều chất dinh dưỡng. Bạn nên kềm chế cơn thèm với những thứ trước đây bạn thích nhưng có chứa ít hàm lượng calo nhé.
2. Cân bằng chế độ dinh dưỡng hàng ngày với lượng protein, chất béo, cacbonhydrate vừa đủ.
3. Mỗi ngày cung cấp thêm hàm lượng calo, không quá 500g.
4. Uống nhiều nước vì khi cho con bú cơ thể sẽ bị thiếu nước. Trước mỗi lần cho con bú, nên uống một cốc nước, tuyệt đối tránh dùng cà phê hay các thức uống khác như: bia, rượu, trà…Nên uống 8 cốc nước mỗi ngày.
5. Nếu bạn nghiện hoặc thèm rượu hoặc uống vì bất kỳ lý do gì thì chỉ uống khi đảm bảo không cho con bú sau đó một vài giờ, và không uống quá 1 hoặc 2 cốc/ngày.
Trong chế độ ăn uống hàng ngày nên chú ý tới lượng calci và sắt. Để giúp cho cơ thể bạn hấp thụ chất sắt tốt hơn, kết hợp thực phẩm giàu chất sắt với thực phẩm chứa vitamin C.
7. Vẫn tiếp tục duy trì “nạp” lượng vitamin giống như trước khi sinh. Dành chút thời gian phơi nắng hàng ngày để làm tăng lượng vitamin D trong cơ thể bạn.
Lưu ý:
Cho con bú chính là phương thức hữu hiệu để giúp bạn giảm cân..
Hãy xem xét kỹ lưỡng các loại thuốc mà bạn sử dụng
Một chế độ ăn chay hợp lý cũng không quá ảnh hưởng gì đến các bà mẹ khi đang cho con bú. Nhưng nếu vì lý do gì đó mà bạn đang thực hiện chế độ ăn chay thì nên tìm cách cung cấp đủ các dưỡng chất, vitamin cần thiết.
Nếu như trẻ hay khóc hoặc đau bụng thì có lẽ trẻ rất nhạy cảm với chế độ ăn uống của bạn đấy (đặc biệt trong gia đình bạn có “tiền sử” bị dị ứng thức ăn). Thủ phạm có thể là các thực phẩm chế biến từ sữa, cà phê, thực phẩm có chứa chất acid và chất cay nóng.
Trong suốt thời kỳ mang thai, mẹ cần tăng từ 10 đến 12 kg, (trong đó, 3 tháng đầu tăng 1-2 kg, 3 tháng giữa tăng 4-5 kg, 3 tháng cuối tăng 5-6 kg).
Trong ba bữa ăn chính hằng ngày, mỗi bữa nên ăn thêm 1 bát cơm. Ăn thêm 1-2 bữa phụ như củ khoai, bắp ngô, trái chuối, bánh giò, quả trứng hay ly sữa. Ưu tiên các thực phẩm có nhiều canxi, phốt pho như sữa, thịt, cá, tôm, cua, rau xanh...(để giúp cho sự tạo xương của thai nhi) và có nhiều đạm, chất sắt như gan, thịt, cá, trứng, sữa, lạc, vừng, đậu đỗ... (để phòng thiếu máu).
Nên ăn các thực phẩm có nhiều đạm và giàu tiền sinh tố A. Đó là các loại rau màu xanh đậm và màu đỏ như rau ngót, rau muống, rau lang, xà lách, mùng tơi, rau dền; các loại quả chín có màu vàng cam như chuối, đu đủ, cam, xoài...
V. Một số món ăn tăng tiết sữa:
1. Canh móng giò, hoàng kỳ: Móng giò 500 g, hoàng kỳ 30 g, đương quy 15 g, thông thảo 4 g. Tất cả cho vào nồi hầm nhừ, cho thêm ít rượu và mấy lát gừng nấu thêm chút nữa là ăn được, ăn hết cả nước lẫn cái. Ăn trong 5-7 ngày.
2. Sườn lợn hầm sơn giáp: Sườn lợn 500 g, xuyên sơn giáp 10 g, hoàng kỳ 30 g. Tất cả nấu cùng đến nhừ, thêm chút rượu vào, ăn thịt uống canh. Cần ăn 4-5 ngày.
3. Thịt cừu hầm đương quy: Thịt cừu 500 g, đương quy 20 g, cho cả vào hầm nhừ, sau thêm chút rượu và mấy lát gừng tươi, ăn thịt uống canh. Ăn trong 4-5 ngày.
4. Canh móng giò: Móng giò 1 cặp, gia vị vừa đủ, luộc chín vớt ra, giữ nước cho mì vào, ăn mì nước với móng giò. Cần ăn trong 7-10 ngày.
5. Canh móng giò, thông thảo: Móng giò 1 chiếc, thông thảo 2 g, cho vào cùng luộc nhừ, nêm gia vị vừa miệng, ăn thịt, uống nước canh. Mỗi ngày ăn 1 lần, cần ăn 4-6 ngày.
6. Canh móng giò, lá quýt, thanh bì: Móng giò 500 g, lá quýt diệp 10 g, thanh bì 10 g, nấu chín nhừ ăn thịt uống nước canh. Ăn trong 5-7 ngày.
7. Canh mạch nha, cá diếc: Cá diếc sống 1 con, mạch nha 20 g, nấu chín, nêm đủ gia vị, ăn cá uống nước canh. Cần ăn 5-7 ngày.
8. Canh cá diếc, thông thảo: Cá diếc sống 1 con, thông thảo 3 g, đương quy 5 g, nấu cùng, chín ăn cá, uống nước canh. Cần ăn 5-7 ngày.
9. Gà mái hầm hoàng kỳ: Gà mái 1 con, hoàng kỳ 50 g, cho hầm nhừ pha chút rượu và mấy lát gừng, ăn cái uống nước canh. Cần ăn 4-5 lần, ngày 1 lần, có thể ăn cách nhật
Đối với bà mẹ nuôi con bú, nǎng lượng cung cấp tỷ lệ với lượng sữa sản xuất, nhưng nói chung, ở bà mẹ nuôi con 6 tháng đầu, nǎng lượng cần đạt được 2750 Kcal/ngày, như vậy, nǎng lượng tǎng thêm mỗi ngày là 550 Kcal (tương đương với 3 bát cơm mỗi ngày).
Cần cho trẻ bú sớm 30 phút sau khi sinh, cho trẻ bú hoàn toàn 4 tháng đầu, không nên cai sữa trước 12 tháng, nên cho trẻ bú đến 18-24 tháng
VI. Mẹ cần lưu ý:
1. Không được cho con bú khi:
- Dùng thuốc trị bệnh ung thư.
- Trị bệnh bằng các chất phóng xạ.
2. Nên tạm ngưng cho bú khi:
- Dùng các thuốc tâm thần hoặc thuốc chống co giật (barbiturate, diazepam) vì trẻ có thể bị lơ mơ hoặc hoạt động cơ bắp bị yếu đi.
- Uống một số thuốc kháng sinh như cloramphenicol, metronidazole, tetracyclin, ciprofloxacin...
Nên theo dõi vàng da ở trẻ nếu mẹ sử dụng sulfonamide, cotrimoxazone, fansidar, dapsone... Mẹ không nên dùng những thuốc làm giảm tiết sữa như thuốc tránh thai có oestrogen, thuốc lợi niệu.
Vẫn cho bé bú và theo dõi khi bà mẹ dùng các loại thuốc sau với liều bình thường:
- Thuốc giảm đau, hạ sốt như paracetamol (Acmol), acetyl salicylic acide (Aspirin), ibuprofen...
- Nhóm morphine, pethidinne...
- Thuốc kháng sinh: ampiciline, erythoromycine, cloxaciline, penicilline.
- Thuốc chống lao, chống phong.
- Thuốc chống sốt rét (trừ mefloquine).
- Thuốc chống nấm, tẩy giun sán.
- Thuốc trị hen, dị dứng như salbutamol, corticoide, kháng histamin...
- Thuốc trị bệnh cao huyết áp, tiểu đường.
- Các loại vitamin (đặc biệt không dùng vitamin A liều cao ở phụ nữ có thai), chất khoáng như sắt, iốt...
Khi cai sữa cho trẻ cần chú ý:
- Không nên cai sữa cho trẻ quá sớm, khi chưa đủ thức ǎn thay thế hoàn toàn những bữa bú mẹ.
- Không nên cai sữa cho trẻ vào mùa hè nóng nực, trẻ kém ǎn.
- Không nên cai sữa cho trẻ đột ngột dễ gây sang chấn tinh thần làm cho trẻ quấy khóc biếng ǎn.
- Không cai sữa cho trẻ khi trẻ bị ốm nhất là khi bị tiêu chảy vì thức ǎn thay thế trẻ chưa thích nghi được càng bị rối loạn tiêu hoá, dễ gây hậu quả suy dinh dưỡng.
Sau khi cai sữa, cần có các chế độ ǎn thay thế đảm bảo đủ chất dinh dưỡng cho trẻ, nhất là chất đạm (thịt, cá, trứng, đậu, đỗ...) chất béo (dầu, mỡ) và các loại rau quả.
Bảo vệ nguồn sữa mẹ.
a. Muốn có sữa cho con bú thì người mẹ ngay trong thời kỳ có thai cần được ǎn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, có chế độ nghỉ ngơi, lao động hợp lý, tinh thần thoải mái, giúp người mẹ tǎng cân tốt (10 - 12kg), đó là nguồn dự trữ mỡ để sản xuất sữa sau khi sinh.
b. Khi nuôi con bú, điều trước tiên cần phải quan tâm là người mẹ cần được ǎn đủ, uống đủ ngủ đẫy giấc. Người mẹ nên ǎn uống bồi dưỡng. Khẩu phần ǎn cần cao hơn mức bình thường. Hàng ngày ǎn thêm vài bát cơm, một ít thịt, cá, hoặc trứng, một ít rau đậu. Nên ǎn thêm quả chín để có đủ vitamin. Các món ǎn cổ truyền như cháo chân giò gạo nếp, ý dĩ thường có tác dụng kích thích bài tiết sữa. Nên hạn chế các thức ǎn gia vị như ớt, hành, tỏi có thể qua sữa gây mùi khó chịu, trẻ dễ bỏ bú.
Khi cho con bú, nên hạn chế dùng thuốc vì một số thuốc có thể qua sữa gây ngộ độc cho trẻ và làm giảm tiết sữa.
Người mẹ cho con bú nên uống nhiều nước nhất là cháo, nước quả, sữa... (mỗi ngày khoảng một lít rưỡi đến hai lít).
d. Vì sữa mẹ được tiết theo cơ chế phản xạ, cho nên tinh thần của người mẹ phải thoải mái, tự tin tránh những cǎng thẳng, cảm xúc buồn phiền, lo âu, mất ngủ. Chế độ lao động nghỉ ngơi sau khi sinh đẻ có ảnh hưởng đến bài tiết sữa.
e. Điều quan trọng để tạo nhiều sữa, người mẹ cần cho con bú thường xuyên và bú đúng cách. Trẻ ngậm bắt bú đúng sẽ bú có hiệu quả và tránh đau rát vú.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Duy Dai
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)