CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở CƠ SỞ
Chia sẻ bởi Nguyễn Quốc Tuấn |
Ngày 23/10/2018 |
94
Chia sẻ tài liệu: CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở CƠ SỞ thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
TƯ VẤN KHÁCH HÀNG
GIÁO TRÌNH BÀI GIẢNG
Công tác dân vận
( ở cơ sở)
Biên soạn: Nguyễn Quốc Tuấn
PHÓ TRƯỞNG BAN DÂN VẬN
HUYỆN ỦY ĐÔNG HẢI
TƯ VẤN KHÁCH HÀNG
Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử của đất nước. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ XHCN và của đảng ta.
LỜI NÓI ĐẦU
Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và sự củng cố, tăng cường mối quan hệ máu, thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thực hiện công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ, lực lượng vũ trang.
Công tác dân vận là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, là một đặc trưng chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Xác định đúng vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác dân vận, từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn quan tâm đến công tác dân vận, luôn xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và xem đây là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nó có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng, của đất nước.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang nổ lực đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác dân vận càng phải được phát huy để tập trung sức mạnh toàn dân, khơi dậy nội lực kết hợp với sức mạnh bên ngoài tạo thành động lực to lớn để hoàn thành mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng nước ta dưới nhiều hình thức cho nên việc nghiên cứu và quán triệt các quan điểm về công tác dân vận của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội cần được quan tâm, nghiên cứu một cách nghiêm túc và hiệu quả hơn.
Là cán bộ ở cơ sở trong một thời gian nhất định, việc nắm vững những nội dung công tác dân vận ở cơ sở là việc cần thiết để làm hành trang cho mình.
Do đặc điểm giới hạn về thời gian và yêu cầu nâng cao nhận thức về công tác dân vận của đảng, chuyên đề này tôi chỉ được trình bày với các đồng chí trong 1 buổi, chắc chắn còn nhiều vấn đề các đồng chí phải tìm đọc và nghiên cứu thêm; vấn đề quan trọng là học trong thực tiễn và áp dụng trong thực tiễn, việc làm hàng ngày của mỗi người chúng ta khi về đơn vị mình công tác.
I. Ý ĐỊNH BÀI GIẢNG
Cung cấp cho các đồng chí những nội dung và những phương pháp cơ bản về công tác dân vận của đảng, về công tác vận động quần chúng ở cơ sở.
Những quan điển cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin – Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và công tác dân vận.
Công tác dân vận của cấp ủy đảng, Công tác dân vận của chính quyền, Công tác dân vận của Mặt trận và các đoàn thể, các hội quần chúng và công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số; đồng bào có đạo.
Tình hình công tác dân vận ở cơ sở trên địa bàn huyện trong thời gian qua và những nhiệm vụ và giải pháp công tác dân vận trong thời gian tới.
II. CẤU TRÚC BÀI GIẢNG:
(có hai phần)
PHẤN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở CƠ SỞ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và Quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận.
Những nhiệm vụ tổng quát và giải pháp chủ yếu về công tác dân vận trong tình hình mới.
Công tác dân vận của từng tổ chức trong hệ thống chính trị.
Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số; đồng bào có đạo.
PHẤN THỨ HAI: TÌNH HÌNH CÔNG TÁC DÂN VẬN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THỜI GIAN QUA VÀ NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC DÂN VẬN THỜI GIAN TỚI.
1.Tình hình công tác dân vận ở cơ sở trên địa bàn huyện trong thời gian qua.
2. những nhiệm vụ và giải pháp công tác dân vận trong thời gian tới.
- Trọng tâm phần thứ nhất, trọng điểm ở mục 2 và 3 phần thứ nhất.
- Thời gian lên lớp: 04 tiết.
Phần mở bài trên cho chúng ta thấy, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi công tác vận động, tổ chức cho quần chúng tham gia vào mọi công việc của cách mạng là vấn đề có tính chiến lược xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi tìm thấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định rõ mục đích trước hết của người là trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Sau khi giành chính quyền, đến năm 1949, Người lại khẳng định: Việc dân vận rất quan trọng. “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
NỘI DUNG CHÍNH CỦA BÀI
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở CƠ SỞ
A – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ NHÂN DÂN VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬN
1 – Công tác dân vận là gì?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những việc nên làm, những việc chính phủ và đoàn thể giao cho”.
Từ định nghĩa trên, chúng ta thấy Bác khái quát rất rõ các vấn đề: Dân vận là vận động quần chúng; Vận động ai? Quy mô vận động? vận động để làm gì?
2 - Đối tượng công tác dân vận là nhân dân và vì vậy, công tác dân vận rất quan trọng.
(1)- Vận động ai?
Bác xác định: Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào. Có nghĩa là phải thực hiện công tác vận động từ công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, các nhà doanh nghiệp, đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
(2)-Vì sao phải làm công tác dân vận? ngay trong cuốn Đường cách mạng, xuất bản năm 1927, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “cách mạng là việc chung chứ không phải việc của một hai người”. Nghĩa là, việc chung thì mọi ngưòi phải cùng làm, muốn mọi người cùng làm thì phải vận động. Bác muốn nhấn mạnh đến vai trò, vị trí của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.
(3) Về vai trò, vị trí của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Đây là một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ chí Minh về vai trò, vị trí của nhân dân. Xuất phát từ việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin; kế thừa và phát triển những tinh hoa của triết học phương Đông lẫn phương Tây cũng như những tư tưởng tiến bộ của ông cha ta về nhân dân.
- Ngay từ xa xưa, Ông cha ta đã quan niệm: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” " (Nguyễn Trãi). Vì vậy, dân là gốc (chứ không phải lấy dân làm gốc) và quan niệm rằng: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, đó là thượng sách giữ nước”. (Trần quốc Tuấn). Tức là phải chăm lo cho dân, dân có giàu thì nước mới mạnh, nước mạnh thì mới giữ được nước..Nếu Hồ Nguyên Trừng còn sống, chắc ông sẽ nói: Thần không ngại ra chính sách, chỉ sợ lòng dân không theo. Dân không theo thì chính sách dù hay đến đâu cũng trở nên vô dụng. (Hồ Nguyên Trừng là con trai cả của vua Hồ Quý Ly. Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự, Tư đồ. Đầu năm 1.400)
- Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và những giá trị tinh thần - nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra những quan điểm rất độc đáo:
Thứ nhất, Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là “ Tối thượng”. “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Hoặc là Bác nêu: “ Ở trong xã hội, muốn thành công phải có 3 điều kiện: Thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà. Nhân hoà là thế nào? Nhân hoà là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”.
Thứ hai, Dân là gốc của cách mạng. “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”. Hoặc là: “ Nước lấy dân làm gốc...Gốc có vững, cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.
Thứ ba, Dân là chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
- Dân chủ là tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bài Dân vận đăng trên báo sự thật (ngày 15-10-1949),
trước khi bàn về nội dung, phương pháp dân vận, Người đã chỉ rõ cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần về bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta đó là: “ Nước ta là nước dân chủ” và đây cũng là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Người để xây dựng một nhà nước tốt đẹp, trong đó người dân thực sự là chủ: “ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Chính từ cái cốt lõi: dân là gốc, dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết.; muốn Dân là gốc thì dân phải là chủ. Mất cái lõi “Dân là gốc” thì dân chủ sẽ trở thành vô nghĩa.
- Theo Hồ Chí Minh, giải quyết vấn đề dân chủ là đi vào những cái rất cụ thể, đó là mối quan hệ giữa lợi ích và nghĩa vụ, lợi ích phải được ràng buộc về trách nhiệm:
+ Dân chủ phải được hiểu là quyền con người, quyền được mưu cầu hạnh phúc như nhau. Bác nhấn mạnh: Lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ. “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”.
+ Bác cũng viết: “Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng cùng ở nơi dân”. Nhưng người cũng nhấn mạnh: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”.
+ “Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Muốn vận động được dân thì điều cơ bản đầu tiên là phải dân chủ, tức là phải làm cho dân biết làm chủ, hiểu được quyền và nghĩa vụ của người làm chủ, đó là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn.
Từ việc xác định vai trò vị trí của nhân dân như vậy, Bác khẳng định tầm quan trọng của công tác dân vận với một luận đề có tính chân lý: “ Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. ( Trong thực tế sẽ gặp không ít cán bộ nhận thức vai trò của nhân dân không đúng, xem cán bộ là trên dân, là quan phụ mẫu của dân)
3 - Mục tiêu công tác dân vận là mục tiêu chung của cách mạng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, về mục tiêu công tác dân vận là: “ ...góp thành lực lượng toàn dân để thực hành những việc nên làm, những việc Chính phủ và đoàn thể giao cho”. Nghĩa là mục tiêu công tác dân vận là mục tiêu chung của cách mạng. Mỗi thời kỳ cách mạng, có mục tiêu có nội dung riêng, Mục tiêu của công tác dân vận chính là thực hiện mục tiêu của mỗi giai đoạn cách mạng mà Đảng đã đề ra.
- Trong cách mạng chống ngoại xâm, thì mục tiêu của công tác dân vận trong thời kỳ đó là: vận động nhân dân cống hiến xương máu, sức người, sức của để theo Đảng đánh đuổi kẻ thù xâm lược giành độc lập tự do cho tổ quốc.
- Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thì mục tiêu công tác dân vận là vận động nhân dân tham gia xây dựng một nước Việt Nam : Dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Và cụ thể hơn Đảng ta chỉ rõ: Mục tiêu công tác dân vận trong những năm tới là động viên mọi tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước. Chăm lo, tạo điều kiện cho mọi vùng sớm xoá đói giảm nghèo, mọi nhà no ấm; không những nâng cao dân trí, xây dựng xóm làng, đoàn kết, yên vui, gia đình hoà thuận, hạnh phúc, xã hội công bằng, đất nước ổn định.
Vận dụng nội dung này trong tư tưởng của Bác thì: mục tiêu của công tác dân vận đối với từng địa phương cơ sở, chính là vận động nhân dân thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ cơ sở đã đề ra.
4 - Nội dung cơ bản của công tác dân vận là: Đoàn kết tổ chức lực lượng nhân dân, vận động nhân thực hiện đại đoàn kết toàn dân để thực hiện nhiệm vụ của cách mạng.
Ngay từ năm 1927, trong cuốn Đường cách mệnh, người đã viết: “ Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được” và người kêu gọi: “ Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Nội dung cơ bản công tác dân vận phải hướng tới sự đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở có sự “ đồng tâm”. “ đồng sức”, “ đồng lòng”, “ đồng thuận” của toàn dân. Vì vậy, Đảng ta xác định: Nội dung cơ bản của công tác Dân vận trong giai đoạn mới này là Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập thống nhất của tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
( Trong thực tế, vấn đề đoàn kết trong từng nơi từng lúc có vấn đề, nhất là đoàn kết trong nội bộ; đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp nhân dân, giữa người dân tại chỗ với dân tộc khác, giữa người kinh và người dân tộc thiểu số do kẻ xấu kích động)
5 - Phương thức cơ bản của công tác dân vận theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Có 3 nội dung cần chú ý là:
(1)- Bác đề ra quy trình 4 điểm về dân vận và công tác dân vận: giải thích cho dân hiểu;bàn với dân; tổ chức để dân thi hành; cùng dân kiểm thảo lại công việc. Bác viết: Dân vận không thể chỉ dùng báo chương sách vở, mittin, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất, là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ. họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng.
Đây là cơ sở để khi ban hành chủ trương phát huy quyền làm chủ của nhân dân và trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Đảng ta đề ra phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra; và hiện nay đang chờ ý kiến Bộ Chính trị: Dân hưởng lợi.
(2)- Cán bộ, đảng viên phải tự mình làm gương cho quần chúng, đặc biệt là những người có chức, có quyền. ( Thực tế hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu; nêu thí dụ ………..)
(3)- Cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện tuyên truyền, khẩu hiệu…đều phải lấy câu này làm khuôn phép: Từ quần chúng mà ra, về sâu trong quần chúng; cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp thì phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. ( Hiện nay, mọi việc cứ trông chờ ỷ lại vào cấp trên, nêu ví dụ về sự thiếu linh hoạt, sáng tạo trong giải quyết công việc)
6 - Ai phụ trách dân vận?.
Theo Bác: Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả các đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh v.v) đều phải phụ trách dân vận. Chúng ta cần chú ý 4 vấn đề:
(1) – Tất cả cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong hệ thống chính trị phải làm công tác dân vận.
(2) Điểm đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong lực lượng làm công tác dân vận Bác nêu đầu tiên là tất cả cán bộ chính quyền...
Đây là đặc điểm công tác dân vận khi Đảng có chính quyền; chính quyền không những cần phải làm công tác dân vận mà còn có điều kiện để làm công tác dân vận. Cán bộ chính quyền làm công tác dân vận như thế nào, Bác chỉ rõ: Cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn...;
Cụ thể hơn Bác nêu tiếp: Cán bộ canh nông thì hợp tác mật thiết với cán bộ địa phương, đi sát với dân, thiết thực bày vẽ cho dân cách trồng trọt, chăn nuôi, cách chọn giống, ủ phân làm cỏ...
(3) Sau khi nói rõ về trách nhiệm của cán bộ chính quyền, Người đề cập đến trách nhiệm làm công tác dân vận của cán bộ đoàn thể (tức là cán bộ Đảng); hội viên của các tổ chức nhân dân. “Những hội viên của các đoàn thể thì phải xung phong thi đua làm, để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm”.
(4) Mỗi loại cán bộ đều có cách làm dân vận theo chức năng của mình, song phải phối hợp thật chặt chẽ.
( Hiện nay vẫn còn không ít cán bộ xem công tác dân vận là của Đảng, của Mặt trận và các đoàn thể, điều động về công tác dân vận không muốn về)
7 - Về phong cách của cán bộ phụ trách dân vận.
Cũng trong bài báo Dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: Những cán bộ phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào công việc. Đây là những yêu cầu rất nghiêm ngặt với cán bộ:
Óc nghĩ: được Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu. Điều này cho thấy Người đặc biệt chú ý đến tầm cao, trí tuệ của người làm công tác dân vận. Hoạt động dân vận trước hết là sự hiểu biết về lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, về đường lối, quan điểm, của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; về khả năng thực hiện công tác của người cán bộ trong thuyết phục quần chúng; là nắm bắt kịp thời, chính xác tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để kịp thời tham mưu cho Đảng những chủ trương, giải pháp đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân; phải có trình độ tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng.
Mắt trông: là yêu cầu đặc biệt nghiêm ngặt đối với cán bộ. cán bộ phải sát cơ sở, sát quần chúng, tuyệt đối không được quan liêu, chỉ ngồi nghe điện thoại, nhận báo cáo rồi nhận định, phán xét.
Tai nghe: đây là một phương pháp khoa học của công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, người làm công tác dân vận phải nắm bắt kịp thời các thông tin quần chúng, phải biết nghe dân nói, phải hiểu được nguyện vọng chính đáng của nhân dân và biết phân tích thông tin một cách chính xác, biết loại trừ những thông tin nhiễu, thiếu chân thực, không khách quan, không đúng sự thật. Nghe dân nói nhưng không rơi vào tình trạng theo đuôi quần chúng, mà phải biểu thị được thái độ cầu thị, vừa định hướng, dẫn dắt được quần chúng.
Chân đi: là một đòi hỏi bức thiết luôn đặt ra đối với cán bộ; đây cũng là một yếu tố chống căn bệnh quan liêu, hành chính, nặng về làm việc theo kiểu giấy tờ. Phải luôn dành thời gian đi xuống ấp, gần dân, lắng nghe ý kiến của dân và trực tiếp tháo gỡ những khó khăn cho dân. Xuống với dân như về với gia đình mình; xuống ấp phải thấy được khó khăn của ấp để cảm thông và chia sẻ...góp ý nhẹ nhàng, nhưng phải hết sức cụ thể, sâu sắc.
Miệng nói: là một phương pháp không thể thiếu của cán bộ nói chung và cán bộ cơ sở nói riêng. Bởi vì, cán bộ phải thường xuyên có trách nhiệm tuyên truyền và cổ động cho nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh...Theo Hồ Chí Minh, để dân hiểu, dân tin, dân làm theo thì công tác tuyên truyền bằng miệng nói phải đúng và phải khéo.
Nói với dân phải đơn giản, rõ ràng, thiết thực và cụ thể, tránh mệnh lệnh; hơn thế nữa phải có thái độ mềm mỏng. Đối với người già, các bậc lớn tuổi phải cung kính; với anh em phải khiêm tốn, lễ độ; với phụ nữ phải một mực nghiêm trang; với nhi đồng thì phải thương yêu, quý mến; đến với dân, nói với dân phải chân thành, bình đẳng và không độc thoại. Ở đây, tôi muôn nói sâu thêm một việc, về tư tưởng của Bác đối với công tác tuyên truyền. Theo Bác: Tuyền truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên tuyền thất bại. Trong công tác tuyên truyền, Bác nhắc đến 3 vấn đề:
Một là mình phải hiểu rõ nội dung tuyên truyền. Ví dụ: Tuyên truyền về xây dựng NTM thì phải hiểu rõ chủ trương xây dựng NTM cuảng và Nhà nước. Vì sao phải xây dựng NTM, Không xây dựng NTM có hại thế nào….. trong xây dựng NTM, mỗi các tầng lớp nhân dân và ban chỉ đạo xã phải làm những việc gì.
Hai là phải biết cách nói. Nói thì giản đơn, rõ ràng, thiết thực. Phải có đầu, có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được. Chớ dùng những danh từ lạ, ít người hiểu. Chớ nói ra ngoài đề, chớ lắp đi, lắp lại...
Ba là phải có lễ độ.
Tay làm: Đây là một phương pháp hết sức quan trọng của cán bộ. Nói đi đôi với làm còn là phạm trù đạo đức đối với chúng ta. Phải chống cho được cán bộ nói không đi đôi với làm; phải coi trọng hiệu quả công việc, lấy hiệu quả công việc làm thước đo đạo đức và đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Trong cuộc sống của mình, Hồ Chí Minh luôn thực hành phương thức: “ dĩ nhân nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo” tức là trước hết phải giáo dục bằng tâm gương sống và làm việc của mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói.
( Cán bộ trên cây, cán bộ ngồi dưới đất)
Vừa qua tôi đã trình bày xong nội dung (I) tư tưởng HCM về nhân dân và dân vận. Tiếp theo tôi xin trình bày nội dung II.
II - QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA
VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN.
- Tư tưởng coi công tác dân vận có ý nghĩa chiến lược đã được Đảng ta khẳng định từ lâu, như phần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận tôi đã trình bày ở trên. Đến Đại hội VI của Đảng đã tổng kết bài học kinh nghiệm số một của cách mạng Việt Nam là lấy “dân làm gốc” và yêu cầu thực hiện có nền nếp khẩu hiệu: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Hội nghị lần thứ tám BCHTW Khoá VI, đã ra Nghị quyết 8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nêu lên 4 quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác quần chúng của Đảng:
Một là, Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân .
Hai là, Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân.
Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
Bốn là, Công tác dân vận là công tác vận động và tổ chức nhân dân chỉ có thể thành công nếu trước hết bảo vệ và đáp ứng được trên thực tế lợi ích thiết thân của người dân, từ đó kết hợp hài hòa các lợi ích, gắn chặt nghĩa vụ và quyền lợi công dân. Đồng thời phải uốn nắn những lệch lạc trong dân chỉ thấy quyền lợi mà quên nghĩa vụ, chỉ thấy lợi ích cá nhân và gia đình mà coi nhẹ lợi ích cộng đồng.
Điều cần quan tâm là, dân chủ cũng là một loại lợi ích. Do vậy, cùng với việc chăm lo lợi ích thiết thực cho dân về đời sống, phải hết sức coi trọng vấn đề dân chủ.
3 - Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
(1) - Lý do phải đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân
dân.
Nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng, Đảng ta bao giờ cũng coi trọng việc tổ chức, tập hợp nhân dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong giai đoạn mới Đảng ta chủ trương đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, vì mấy lý do sau:
- Trong giai đoạn mới, cơ cấu giai cấp, dân cư, nghề nghiệp… có sự phát triển mới cùng với sự phát triển kinh tế thị trường. Do đó nhu cầu lợi ich của xã hội, nhu cầu về tổ chức cũng rất đa dạng.
- Để nhân lên sức mạnh của nhân dân, để xây dựng cuộc sống mới cần phải có nhiều hình thức và hoạt động thích ứng.
- Trình độ của các tầng lớp nhân dân không đồng nhất, do đó phải có cấp độ khác nhau về hình thức tập hợp.
- Phải có nhiều hình thức tập hợp để phát huy dân chủ.
(2) - Đa dạng hóa hình thức tập hợp nhân dân như thế nào?.
Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân được thể hiện trên các mặt sau đây:
- Đa dạng hóa về mặt tổ chức:
Các tổ chức chính trị - xã hội truyền thống gồm: Tổ chức liên đoàn lao động (Công đoàn), Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ.
Các tổ chức mang tính xã hội, nghề nghiệp: Hội luật gia, Hội nhà báo, Hội chữ thập đỏ, Hội nuôi ong, Hội làm vườn…; Hội nhân đạo từ thiện như Hội người mù, Hội nạn nhân chất độc màu da cam, Hội bảo vệ người tàn tật và trẻ em mồ côi…; các tổ chức theo nhu cầu cầu, sở thích như: thể dục, thể thao… đây là các tổ chức tự nguyện của quần chúng nhằm giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực lao động, nghề nghiệp…đáp ứng các nhu cầu, sở thích, nhân đạo.
- Đa dạng hóa về mặt hệ thống tổ chức:
+ Không nhất thiết đoàn thể nào cũng phải có tổ chức ở 4 cấp, mà tùy theo tình hình, nhiệm vụ có thể chỉ tổ chức 1 hoặc 2 cấp. Có tổ chức chỉ có ở địa phương này mà không có ở địa phương khác trong một thời gian nhất định hòan thành một công việc rồi tự giải thể, cũng có tổ chức chỉ phát triển ở cơ sở như Hội cha mẹ học sinh…
+ Không nhất thiết phải tổ chức thành Hội, đoàn mà tập hợp nhân dân bằng nhiều hình thức khác như: câu lạc bộ, các loại quỹ, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tương trợ…
+ Các tổ chức chính trị xã hội cũng phải đa dạng hóa về nhiều hình thức tổ chức và tập hợp nhằm phát huy vai trò nòng cốt, sáng tạo của các đoàn thể theo nhu cầu, nguyện vọng của từng đối tượng quần chúng ở cơ sở…
+ Xu hướng chung là sẽ có nhiều tổ chức mới ra đời. Vấn đề đặt ra là ở đâu có sự tập hợp quần chúng ở đó phải có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Ở đâu có sự tập hợp của quần chúng ở đó có sự lãnh đạo của Đảng, tuyệt đối không được buông lỏng.
. Mặt khác phải thực hiện sự quản lý của Nhà nước, phải thực hiện quy định của Chính phủ về sự quản lý nhà nước đối với các Hội. Hội mới thành lập phải theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính; hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân, tương ái. Đồng thời nhà nước cần có chính sách cụ thể tạo điều kiện về vật chất và pháp lý cho hoạt động của các đoàn thể nhân dân. ( Sự đòi hỏi sau khi thành lập)
4 - Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Quan điểm này xác định chủ thể tiến hành công tác dân vận. Bác Hồ đã chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân, đều phải phụ trách dân vận. Đảng ta chỉ rõ: “Công tác quần chúng không chỉ là trách nhiệm của các đoàn thể, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, có sự phối hợp với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình”.
B – NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG THỜI KỲ MỚI
I - BỐI CẢNH MỚI CỦA CÔNG TÁC DÂN VẬN VÀ ĐẶC ĐIỂM MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI.
1 – Bối cảnh mới của công tác dân vận
(1)- Trình độ các mặt của nhân dân ngày càng nâng cao, dân chủ ngày càng được phát huy.
- Khi trình độ của nhân dân được nâng lên, đòi hỏi công tác vận động quần chúng phải đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp để đáp ứng được với những nhu cầu mới của nhân dân về vật chất cũng như tình thần ở cả bộ phận đa số cũng như những khó khăn của bộ phận thiểu số và thu hút đông đảo quần chúng tham gia các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đi đôi với vấn đề phát huy dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đòi hỏi phải làm thế nào để phát huy quyền làm chủ của nhân dân như:
phải nâng cao trình độ để mọi người dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; nội dung, hình thức, phương pháp để tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; nội dung và giải pháp để nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ mới...
(2)- Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và sự hội nhập quốc tế ngày càng phát triển đã làm nảy sinh nhiều thuận lợi và khó khăn và đặt nhiều vấn đề đối với công tác dân vận như:
- Thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa đòi hỏi phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đặt ra vấn đề về quan điểm, nội dung, giải pháp để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân như thế nào?
- Xây dựng nền kinh tế thị trường cùng với những mặt tích cực, cũng đồng thời xuất hiện những mặt trái của nó đòi hỏi công tác dân vận phải tham gia giải quyết như: vấn đề phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, các giai tầng trong xã hội; vấn đề duy trì, phát triển các thành phần kinh tế song không làm mất đi tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, không dẫn tới đảo lộn về chính trị, không làm xói mòn, biến dạng phẩm giá, đạo đức, lối sống, bản sắc văn hoá; vấn đề thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
- Trong quá trình hội nhập quốc tế có cả những mặt tích cực, nhưng cũng có cả những mặt tiêu cực, công tác dân vận phải góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ tri thức cho cán bộ, đảng viên, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta chủ động thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng.
(3)- Âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch ngày càng thâm độc, quyết liệt tác động trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhiều tầng lớp nhân dân khác nhau, nhất là việc lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền với nhiều nội dung, hình thức, phương pháp khác nhau, đòi hỏi công tác dân vận của hệ thống chính trị: phải đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền vận động quần chúng để đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của chúng một cách kịp thời, sắc bén, giúp nhân dân nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của địch để từ đó tham gia đấu tranh chống lại có hiệu quả; vấn đề củng cố khối đại đoàn kết (yếu tố quan trọng hàng đầu) để làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn chia rẽ của các thế lực thù địch.
2 – Đặc điểm mối quan hệ giữa Đảng với dân trong thời kỳ mới
Trước hết, chúng ta cùng xem lại mối quan hệ giữa Đảng với dân trong lịch sử tồn tại và phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam. Thể hiện ở các điểm sau:
(1)- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng cũng chính là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, như một lẽ đương nhiên, Đảng có sự gắn bó máu thịt của nhân dân. Đây chính là nguồn gốc tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng. Nơi nào, giai đoạn nào mối quan hệ này chưa tốt thì nơi đó sức mạnh của đảng bị suy giảm.
(2)- Trong Lịch sử của Đảng công tác dân vận được đặt ra rất sớm. Ngay từ khi mới ra đời trong Nghị quyết hội nghị tháng 10 năm 1930 về nhiệm vụ cách mạng nước ta, trong đó có công tác dân vận, quyết định tổ chức các Ban chuyên môn về các giới vận động (công nhận, nông dân, binh lính, phụ nữ...). Từ đó nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận ra đời để củng cố mối quan hệ giữa đảng với nhân dân và đã góp phần quan trọng động viên nhân dân lập nên những chiến công oanh liệt và những thành tựu to lớn.
(3)- Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân ngày càng được củng cố, giữ vững và phát triển. Thể hiện: Một là, Đảng luôn tin ở nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, một lòng, một dạ chiến đấu vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Và Dân tin Đảng, hết lòng thương yêu, che chở đùm bọc. Hai là, Đảng luôn đi sâu tổng kết hoạt động thực tiễn, sáng tạo của nhân dân, bổ sung phát triển đường lối lãnh đạo của mình. Nhân dân là người nêu sáng kiến, mà khi sáng kiến của mình trở thành đường lối của Đảng thì chính nhân dân lại là người hăng hái thực hiện. Mối quan hệ giữa đảng với dân trở thành truyền thống cực kỳ quý báu và là sức mạnh vô địch của Đảng.
(4) Mối quan hệ giữa Đảng và dân là mối quan hệ 2 chiều. Nhân dân cần có Đảng để lãnh đạo để làm cách mạng. Đảng cần có dân để có sức mạnh vật chất và tinh thần, trí tuệ. Có dân là có tất cả. Mất dân cũng là mất tất cả.
Từ những vấn đề rút ra từ mối quan hệ giữ Đảng với dân trong lịch sử tồn tại và phát triển của Đảng, chúng ta cần quan tâm:
- Củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân có ý nghĩa sâu sắc là vấn đề có tính quy luật trong sự hình thành, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Sự sụp đổ về mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông âu; Một số diễn biến tình hình phức tạp gần đây ở các địa phương ở nước ta về an ninh chính chính trị, an ninh nông thôn...là những tiếng chuông cánh báo về nguy cơ xa dân, mất chỗ dựa ở dân.
- Củng cố mối quan hệ giữa Đảng với dân, cùng với việc chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thàn của nhân dân, đồng thời phải đặc biệt chú ý đến cuộc đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch kích động chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với dân, âm mưu xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng.
Đặc điểm mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong thời kỳ mới.
(1) Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trước hết và chủ yếu thể hiện ở mối quan hệ gi
GIÁO TRÌNH BÀI GIẢNG
Công tác dân vận
( ở cơ sở)
Biên soạn: Nguyễn Quốc Tuấn
PHÓ TRƯỞNG BAN DÂN VẬN
HUYỆN ỦY ĐÔNG HẢI
TƯ VẤN KHÁCH HÀNG
Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử của đất nước. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ XHCN và của đảng ta.
LỜI NÓI ĐẦU
Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và sự củng cố, tăng cường mối quan hệ máu, thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thực hiện công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ, lực lượng vũ trang.
Công tác dân vận là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, là một đặc trưng chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Xác định đúng vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác dân vận, từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn quan tâm đến công tác dân vận, luôn xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và xem đây là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nó có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng, của đất nước.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang nổ lực đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác dân vận càng phải được phát huy để tập trung sức mạnh toàn dân, khơi dậy nội lực kết hợp với sức mạnh bên ngoài tạo thành động lực to lớn để hoàn thành mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng nước ta dưới nhiều hình thức cho nên việc nghiên cứu và quán triệt các quan điểm về công tác dân vận của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội cần được quan tâm, nghiên cứu một cách nghiêm túc và hiệu quả hơn.
Là cán bộ ở cơ sở trong một thời gian nhất định, việc nắm vững những nội dung công tác dân vận ở cơ sở là việc cần thiết để làm hành trang cho mình.
Do đặc điểm giới hạn về thời gian và yêu cầu nâng cao nhận thức về công tác dân vận của đảng, chuyên đề này tôi chỉ được trình bày với các đồng chí trong 1 buổi, chắc chắn còn nhiều vấn đề các đồng chí phải tìm đọc và nghiên cứu thêm; vấn đề quan trọng là học trong thực tiễn và áp dụng trong thực tiễn, việc làm hàng ngày của mỗi người chúng ta khi về đơn vị mình công tác.
I. Ý ĐỊNH BÀI GIẢNG
Cung cấp cho các đồng chí những nội dung và những phương pháp cơ bản về công tác dân vận của đảng, về công tác vận động quần chúng ở cơ sở.
Những quan điển cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin – Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và công tác dân vận.
Công tác dân vận của cấp ủy đảng, Công tác dân vận của chính quyền, Công tác dân vận của Mặt trận và các đoàn thể, các hội quần chúng và công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số; đồng bào có đạo.
Tình hình công tác dân vận ở cơ sở trên địa bàn huyện trong thời gian qua và những nhiệm vụ và giải pháp công tác dân vận trong thời gian tới.
II. CẤU TRÚC BÀI GIẢNG:
(có hai phần)
PHẤN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở CƠ SỞ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và Quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận.
Những nhiệm vụ tổng quát và giải pháp chủ yếu về công tác dân vận trong tình hình mới.
Công tác dân vận của từng tổ chức trong hệ thống chính trị.
Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số; đồng bào có đạo.
PHẤN THỨ HAI: TÌNH HÌNH CÔNG TÁC DÂN VẬN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THỜI GIAN QUA VÀ NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC DÂN VẬN THỜI GIAN TỚI.
1.Tình hình công tác dân vận ở cơ sở trên địa bàn huyện trong thời gian qua.
2. những nhiệm vụ và giải pháp công tác dân vận trong thời gian tới.
- Trọng tâm phần thứ nhất, trọng điểm ở mục 2 và 3 phần thứ nhất.
- Thời gian lên lớp: 04 tiết.
Phần mở bài trên cho chúng ta thấy, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi công tác vận động, tổ chức cho quần chúng tham gia vào mọi công việc của cách mạng là vấn đề có tính chiến lược xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi tìm thấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định rõ mục đích trước hết của người là trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Sau khi giành chính quyền, đến năm 1949, Người lại khẳng định: Việc dân vận rất quan trọng. “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
NỘI DUNG CHÍNH CỦA BÀI
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở CƠ SỞ
A – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ NHÂN DÂN VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬN
1 – Công tác dân vận là gì?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những việc nên làm, những việc chính phủ và đoàn thể giao cho”.
Từ định nghĩa trên, chúng ta thấy Bác khái quát rất rõ các vấn đề: Dân vận là vận động quần chúng; Vận động ai? Quy mô vận động? vận động để làm gì?
2 - Đối tượng công tác dân vận là nhân dân và vì vậy, công tác dân vận rất quan trọng.
(1)- Vận động ai?
Bác xác định: Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào. Có nghĩa là phải thực hiện công tác vận động từ công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, các nhà doanh nghiệp, đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
(2)-Vì sao phải làm công tác dân vận? ngay trong cuốn Đường cách mạng, xuất bản năm 1927, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “cách mạng là việc chung chứ không phải việc của một hai người”. Nghĩa là, việc chung thì mọi ngưòi phải cùng làm, muốn mọi người cùng làm thì phải vận động. Bác muốn nhấn mạnh đến vai trò, vị trí của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.
(3) Về vai trò, vị trí của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Đây là một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ chí Minh về vai trò, vị trí của nhân dân. Xuất phát từ việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin; kế thừa và phát triển những tinh hoa của triết học phương Đông lẫn phương Tây cũng như những tư tưởng tiến bộ của ông cha ta về nhân dân.
- Ngay từ xa xưa, Ông cha ta đã quan niệm: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” " (Nguyễn Trãi). Vì vậy, dân là gốc (chứ không phải lấy dân làm gốc) và quan niệm rằng: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, đó là thượng sách giữ nước”. (Trần quốc Tuấn). Tức là phải chăm lo cho dân, dân có giàu thì nước mới mạnh, nước mạnh thì mới giữ được nước..Nếu Hồ Nguyên Trừng còn sống, chắc ông sẽ nói: Thần không ngại ra chính sách, chỉ sợ lòng dân không theo. Dân không theo thì chính sách dù hay đến đâu cũng trở nên vô dụng. (Hồ Nguyên Trừng là con trai cả của vua Hồ Quý Ly. Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự, Tư đồ. Đầu năm 1.400)
- Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và những giá trị tinh thần - nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra những quan điểm rất độc đáo:
Thứ nhất, Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là “ Tối thượng”. “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Hoặc là Bác nêu: “ Ở trong xã hội, muốn thành công phải có 3 điều kiện: Thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà. Nhân hoà là thế nào? Nhân hoà là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”.
Thứ hai, Dân là gốc của cách mạng. “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”. Hoặc là: “ Nước lấy dân làm gốc...Gốc có vững, cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.
Thứ ba, Dân là chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
- Dân chủ là tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bài Dân vận đăng trên báo sự thật (ngày 15-10-1949),
trước khi bàn về nội dung, phương pháp dân vận, Người đã chỉ rõ cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần về bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta đó là: “ Nước ta là nước dân chủ” và đây cũng là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Người để xây dựng một nhà nước tốt đẹp, trong đó người dân thực sự là chủ: “ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Chính từ cái cốt lõi: dân là gốc, dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết.; muốn Dân là gốc thì dân phải là chủ. Mất cái lõi “Dân là gốc” thì dân chủ sẽ trở thành vô nghĩa.
- Theo Hồ Chí Minh, giải quyết vấn đề dân chủ là đi vào những cái rất cụ thể, đó là mối quan hệ giữa lợi ích và nghĩa vụ, lợi ích phải được ràng buộc về trách nhiệm:
+ Dân chủ phải được hiểu là quyền con người, quyền được mưu cầu hạnh phúc như nhau. Bác nhấn mạnh: Lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ. “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”.
+ Bác cũng viết: “Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng cùng ở nơi dân”. Nhưng người cũng nhấn mạnh: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”.
+ “Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Muốn vận động được dân thì điều cơ bản đầu tiên là phải dân chủ, tức là phải làm cho dân biết làm chủ, hiểu được quyền và nghĩa vụ của người làm chủ, đó là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn.
Từ việc xác định vai trò vị trí của nhân dân như vậy, Bác khẳng định tầm quan trọng của công tác dân vận với một luận đề có tính chân lý: “ Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. ( Trong thực tế sẽ gặp không ít cán bộ nhận thức vai trò của nhân dân không đúng, xem cán bộ là trên dân, là quan phụ mẫu của dân)
3 - Mục tiêu công tác dân vận là mục tiêu chung của cách mạng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, về mục tiêu công tác dân vận là: “ ...góp thành lực lượng toàn dân để thực hành những việc nên làm, những việc Chính phủ và đoàn thể giao cho”. Nghĩa là mục tiêu công tác dân vận là mục tiêu chung của cách mạng. Mỗi thời kỳ cách mạng, có mục tiêu có nội dung riêng, Mục tiêu của công tác dân vận chính là thực hiện mục tiêu của mỗi giai đoạn cách mạng mà Đảng đã đề ra.
- Trong cách mạng chống ngoại xâm, thì mục tiêu của công tác dân vận trong thời kỳ đó là: vận động nhân dân cống hiến xương máu, sức người, sức của để theo Đảng đánh đuổi kẻ thù xâm lược giành độc lập tự do cho tổ quốc.
- Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thì mục tiêu công tác dân vận là vận động nhân dân tham gia xây dựng một nước Việt Nam : Dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Và cụ thể hơn Đảng ta chỉ rõ: Mục tiêu công tác dân vận trong những năm tới là động viên mọi tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước. Chăm lo, tạo điều kiện cho mọi vùng sớm xoá đói giảm nghèo, mọi nhà no ấm; không những nâng cao dân trí, xây dựng xóm làng, đoàn kết, yên vui, gia đình hoà thuận, hạnh phúc, xã hội công bằng, đất nước ổn định.
Vận dụng nội dung này trong tư tưởng của Bác thì: mục tiêu của công tác dân vận đối với từng địa phương cơ sở, chính là vận động nhân dân thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ cơ sở đã đề ra.
4 - Nội dung cơ bản của công tác dân vận là: Đoàn kết tổ chức lực lượng nhân dân, vận động nhân thực hiện đại đoàn kết toàn dân để thực hiện nhiệm vụ của cách mạng.
Ngay từ năm 1927, trong cuốn Đường cách mệnh, người đã viết: “ Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được” và người kêu gọi: “ Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Nội dung cơ bản công tác dân vận phải hướng tới sự đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở có sự “ đồng tâm”. “ đồng sức”, “ đồng lòng”, “ đồng thuận” của toàn dân. Vì vậy, Đảng ta xác định: Nội dung cơ bản của công tác Dân vận trong giai đoạn mới này là Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập thống nhất của tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
( Trong thực tế, vấn đề đoàn kết trong từng nơi từng lúc có vấn đề, nhất là đoàn kết trong nội bộ; đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp nhân dân, giữa người dân tại chỗ với dân tộc khác, giữa người kinh và người dân tộc thiểu số do kẻ xấu kích động)
5 - Phương thức cơ bản của công tác dân vận theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Có 3 nội dung cần chú ý là:
(1)- Bác đề ra quy trình 4 điểm về dân vận và công tác dân vận: giải thích cho dân hiểu;bàn với dân; tổ chức để dân thi hành; cùng dân kiểm thảo lại công việc. Bác viết: Dân vận không thể chỉ dùng báo chương sách vở, mittin, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất, là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ. họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng.
Đây là cơ sở để khi ban hành chủ trương phát huy quyền làm chủ của nhân dân và trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Đảng ta đề ra phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra; và hiện nay đang chờ ý kiến Bộ Chính trị: Dân hưởng lợi.
(2)- Cán bộ, đảng viên phải tự mình làm gương cho quần chúng, đặc biệt là những người có chức, có quyền. ( Thực tế hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu; nêu thí dụ ………..)
(3)- Cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện tuyên truyền, khẩu hiệu…đều phải lấy câu này làm khuôn phép: Từ quần chúng mà ra, về sâu trong quần chúng; cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp thì phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. ( Hiện nay, mọi việc cứ trông chờ ỷ lại vào cấp trên, nêu ví dụ về sự thiếu linh hoạt, sáng tạo trong giải quyết công việc)
6 - Ai phụ trách dân vận?.
Theo Bác: Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả các đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh v.v) đều phải phụ trách dân vận. Chúng ta cần chú ý 4 vấn đề:
(1) – Tất cả cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong hệ thống chính trị phải làm công tác dân vận.
(2) Điểm đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong lực lượng làm công tác dân vận Bác nêu đầu tiên là tất cả cán bộ chính quyền...
Đây là đặc điểm công tác dân vận khi Đảng có chính quyền; chính quyền không những cần phải làm công tác dân vận mà còn có điều kiện để làm công tác dân vận. Cán bộ chính quyền làm công tác dân vận như thế nào, Bác chỉ rõ: Cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn...;
Cụ thể hơn Bác nêu tiếp: Cán bộ canh nông thì hợp tác mật thiết với cán bộ địa phương, đi sát với dân, thiết thực bày vẽ cho dân cách trồng trọt, chăn nuôi, cách chọn giống, ủ phân làm cỏ...
(3) Sau khi nói rõ về trách nhiệm của cán bộ chính quyền, Người đề cập đến trách nhiệm làm công tác dân vận của cán bộ đoàn thể (tức là cán bộ Đảng); hội viên của các tổ chức nhân dân. “Những hội viên của các đoàn thể thì phải xung phong thi đua làm, để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm”.
(4) Mỗi loại cán bộ đều có cách làm dân vận theo chức năng của mình, song phải phối hợp thật chặt chẽ.
( Hiện nay vẫn còn không ít cán bộ xem công tác dân vận là của Đảng, của Mặt trận và các đoàn thể, điều động về công tác dân vận không muốn về)
7 - Về phong cách của cán bộ phụ trách dân vận.
Cũng trong bài báo Dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: Những cán bộ phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào công việc. Đây là những yêu cầu rất nghiêm ngặt với cán bộ:
Óc nghĩ: được Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu. Điều này cho thấy Người đặc biệt chú ý đến tầm cao, trí tuệ của người làm công tác dân vận. Hoạt động dân vận trước hết là sự hiểu biết về lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, về đường lối, quan điểm, của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; về khả năng thực hiện công tác của người cán bộ trong thuyết phục quần chúng; là nắm bắt kịp thời, chính xác tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để kịp thời tham mưu cho Đảng những chủ trương, giải pháp đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân; phải có trình độ tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng.
Mắt trông: là yêu cầu đặc biệt nghiêm ngặt đối với cán bộ. cán bộ phải sát cơ sở, sát quần chúng, tuyệt đối không được quan liêu, chỉ ngồi nghe điện thoại, nhận báo cáo rồi nhận định, phán xét.
Tai nghe: đây là một phương pháp khoa học của công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, người làm công tác dân vận phải nắm bắt kịp thời các thông tin quần chúng, phải biết nghe dân nói, phải hiểu được nguyện vọng chính đáng của nhân dân và biết phân tích thông tin một cách chính xác, biết loại trừ những thông tin nhiễu, thiếu chân thực, không khách quan, không đúng sự thật. Nghe dân nói nhưng không rơi vào tình trạng theo đuôi quần chúng, mà phải biểu thị được thái độ cầu thị, vừa định hướng, dẫn dắt được quần chúng.
Chân đi: là một đòi hỏi bức thiết luôn đặt ra đối với cán bộ; đây cũng là một yếu tố chống căn bệnh quan liêu, hành chính, nặng về làm việc theo kiểu giấy tờ. Phải luôn dành thời gian đi xuống ấp, gần dân, lắng nghe ý kiến của dân và trực tiếp tháo gỡ những khó khăn cho dân. Xuống với dân như về với gia đình mình; xuống ấp phải thấy được khó khăn của ấp để cảm thông và chia sẻ...góp ý nhẹ nhàng, nhưng phải hết sức cụ thể, sâu sắc.
Miệng nói: là một phương pháp không thể thiếu của cán bộ nói chung và cán bộ cơ sở nói riêng. Bởi vì, cán bộ phải thường xuyên có trách nhiệm tuyên truyền và cổ động cho nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh...Theo Hồ Chí Minh, để dân hiểu, dân tin, dân làm theo thì công tác tuyên truyền bằng miệng nói phải đúng và phải khéo.
Nói với dân phải đơn giản, rõ ràng, thiết thực và cụ thể, tránh mệnh lệnh; hơn thế nữa phải có thái độ mềm mỏng. Đối với người già, các bậc lớn tuổi phải cung kính; với anh em phải khiêm tốn, lễ độ; với phụ nữ phải một mực nghiêm trang; với nhi đồng thì phải thương yêu, quý mến; đến với dân, nói với dân phải chân thành, bình đẳng và không độc thoại. Ở đây, tôi muôn nói sâu thêm một việc, về tư tưởng của Bác đối với công tác tuyên truyền. Theo Bác: Tuyền truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên tuyền thất bại. Trong công tác tuyên truyền, Bác nhắc đến 3 vấn đề:
Một là mình phải hiểu rõ nội dung tuyên truyền. Ví dụ: Tuyên truyền về xây dựng NTM thì phải hiểu rõ chủ trương xây dựng NTM cuảng và Nhà nước. Vì sao phải xây dựng NTM, Không xây dựng NTM có hại thế nào….. trong xây dựng NTM, mỗi các tầng lớp nhân dân và ban chỉ đạo xã phải làm những việc gì.
Hai là phải biết cách nói. Nói thì giản đơn, rõ ràng, thiết thực. Phải có đầu, có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được. Chớ dùng những danh từ lạ, ít người hiểu. Chớ nói ra ngoài đề, chớ lắp đi, lắp lại...
Ba là phải có lễ độ.
Tay làm: Đây là một phương pháp hết sức quan trọng của cán bộ. Nói đi đôi với làm còn là phạm trù đạo đức đối với chúng ta. Phải chống cho được cán bộ nói không đi đôi với làm; phải coi trọng hiệu quả công việc, lấy hiệu quả công việc làm thước đo đạo đức và đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Trong cuộc sống của mình, Hồ Chí Minh luôn thực hành phương thức: “ dĩ nhân nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo” tức là trước hết phải giáo dục bằng tâm gương sống và làm việc của mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói.
( Cán bộ trên cây, cán bộ ngồi dưới đất)
Vừa qua tôi đã trình bày xong nội dung (I) tư tưởng HCM về nhân dân và dân vận. Tiếp theo tôi xin trình bày nội dung II.
II - QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA
VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN.
- Tư tưởng coi công tác dân vận có ý nghĩa chiến lược đã được Đảng ta khẳng định từ lâu, như phần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận tôi đã trình bày ở trên. Đến Đại hội VI của Đảng đã tổng kết bài học kinh nghiệm số một của cách mạng Việt Nam là lấy “dân làm gốc” và yêu cầu thực hiện có nền nếp khẩu hiệu: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Hội nghị lần thứ tám BCHTW Khoá VI, đã ra Nghị quyết 8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nêu lên 4 quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác quần chúng của Đảng:
Một là, Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân .
Hai là, Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân.
Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
Bốn là, Công tác dân vận là công tác vận động và tổ chức nhân dân chỉ có thể thành công nếu trước hết bảo vệ và đáp ứng được trên thực tế lợi ích thiết thân của người dân, từ đó kết hợp hài hòa các lợi ích, gắn chặt nghĩa vụ và quyền lợi công dân. Đồng thời phải uốn nắn những lệch lạc trong dân chỉ thấy quyền lợi mà quên nghĩa vụ, chỉ thấy lợi ích cá nhân và gia đình mà coi nhẹ lợi ích cộng đồng.
Điều cần quan tâm là, dân chủ cũng là một loại lợi ích. Do vậy, cùng với việc chăm lo lợi ích thiết thực cho dân về đời sống, phải hết sức coi trọng vấn đề dân chủ.
3 - Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
(1) - Lý do phải đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân
dân.
Nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng, Đảng ta bao giờ cũng coi trọng việc tổ chức, tập hợp nhân dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong giai đoạn mới Đảng ta chủ trương đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, vì mấy lý do sau:
- Trong giai đoạn mới, cơ cấu giai cấp, dân cư, nghề nghiệp… có sự phát triển mới cùng với sự phát triển kinh tế thị trường. Do đó nhu cầu lợi ich của xã hội, nhu cầu về tổ chức cũng rất đa dạng.
- Để nhân lên sức mạnh của nhân dân, để xây dựng cuộc sống mới cần phải có nhiều hình thức và hoạt động thích ứng.
- Trình độ của các tầng lớp nhân dân không đồng nhất, do đó phải có cấp độ khác nhau về hình thức tập hợp.
- Phải có nhiều hình thức tập hợp để phát huy dân chủ.
(2) - Đa dạng hóa hình thức tập hợp nhân dân như thế nào?.
Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân được thể hiện trên các mặt sau đây:
- Đa dạng hóa về mặt tổ chức:
Các tổ chức chính trị - xã hội truyền thống gồm: Tổ chức liên đoàn lao động (Công đoàn), Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ.
Các tổ chức mang tính xã hội, nghề nghiệp: Hội luật gia, Hội nhà báo, Hội chữ thập đỏ, Hội nuôi ong, Hội làm vườn…; Hội nhân đạo từ thiện như Hội người mù, Hội nạn nhân chất độc màu da cam, Hội bảo vệ người tàn tật và trẻ em mồ côi…; các tổ chức theo nhu cầu cầu, sở thích như: thể dục, thể thao… đây là các tổ chức tự nguyện của quần chúng nhằm giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực lao động, nghề nghiệp…đáp ứng các nhu cầu, sở thích, nhân đạo.
- Đa dạng hóa về mặt hệ thống tổ chức:
+ Không nhất thiết đoàn thể nào cũng phải có tổ chức ở 4 cấp, mà tùy theo tình hình, nhiệm vụ có thể chỉ tổ chức 1 hoặc 2 cấp. Có tổ chức chỉ có ở địa phương này mà không có ở địa phương khác trong một thời gian nhất định hòan thành một công việc rồi tự giải thể, cũng có tổ chức chỉ phát triển ở cơ sở như Hội cha mẹ học sinh…
+ Không nhất thiết phải tổ chức thành Hội, đoàn mà tập hợp nhân dân bằng nhiều hình thức khác như: câu lạc bộ, các loại quỹ, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tương trợ…
+ Các tổ chức chính trị xã hội cũng phải đa dạng hóa về nhiều hình thức tổ chức và tập hợp nhằm phát huy vai trò nòng cốt, sáng tạo của các đoàn thể theo nhu cầu, nguyện vọng của từng đối tượng quần chúng ở cơ sở…
+ Xu hướng chung là sẽ có nhiều tổ chức mới ra đời. Vấn đề đặt ra là ở đâu có sự tập hợp quần chúng ở đó phải có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Ở đâu có sự tập hợp của quần chúng ở đó có sự lãnh đạo của Đảng, tuyệt đối không được buông lỏng.
. Mặt khác phải thực hiện sự quản lý của Nhà nước, phải thực hiện quy định của Chính phủ về sự quản lý nhà nước đối với các Hội. Hội mới thành lập phải theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính; hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân, tương ái. Đồng thời nhà nước cần có chính sách cụ thể tạo điều kiện về vật chất và pháp lý cho hoạt động của các đoàn thể nhân dân. ( Sự đòi hỏi sau khi thành lập)
4 - Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Quan điểm này xác định chủ thể tiến hành công tác dân vận. Bác Hồ đã chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân, đều phải phụ trách dân vận. Đảng ta chỉ rõ: “Công tác quần chúng không chỉ là trách nhiệm của các đoàn thể, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, có sự phối hợp với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình”.
B – NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG THỜI KỲ MỚI
I - BỐI CẢNH MỚI CỦA CÔNG TÁC DÂN VẬN VÀ ĐẶC ĐIỂM MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI.
1 – Bối cảnh mới của công tác dân vận
(1)- Trình độ các mặt của nhân dân ngày càng nâng cao, dân chủ ngày càng được phát huy.
- Khi trình độ của nhân dân được nâng lên, đòi hỏi công tác vận động quần chúng phải đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp để đáp ứng được với những nhu cầu mới của nhân dân về vật chất cũng như tình thần ở cả bộ phận đa số cũng như những khó khăn của bộ phận thiểu số và thu hút đông đảo quần chúng tham gia các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đi đôi với vấn đề phát huy dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đòi hỏi phải làm thế nào để phát huy quyền làm chủ của nhân dân như:
phải nâng cao trình độ để mọi người dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; nội dung, hình thức, phương pháp để tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; nội dung và giải pháp để nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ mới...
(2)- Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và sự hội nhập quốc tế ngày càng phát triển đã làm nảy sinh nhiều thuận lợi và khó khăn và đặt nhiều vấn đề đối với công tác dân vận như:
- Thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa đòi hỏi phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đặt ra vấn đề về quan điểm, nội dung, giải pháp để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân như thế nào?
- Xây dựng nền kinh tế thị trường cùng với những mặt tích cực, cũng đồng thời xuất hiện những mặt trái của nó đòi hỏi công tác dân vận phải tham gia giải quyết như: vấn đề phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, các giai tầng trong xã hội; vấn đề duy trì, phát triển các thành phần kinh tế song không làm mất đi tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, không dẫn tới đảo lộn về chính trị, không làm xói mòn, biến dạng phẩm giá, đạo đức, lối sống, bản sắc văn hoá; vấn đề thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
- Trong quá trình hội nhập quốc tế có cả những mặt tích cực, nhưng cũng có cả những mặt tiêu cực, công tác dân vận phải góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ tri thức cho cán bộ, đảng viên, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta chủ động thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng.
(3)- Âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch ngày càng thâm độc, quyết liệt tác động trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhiều tầng lớp nhân dân khác nhau, nhất là việc lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền với nhiều nội dung, hình thức, phương pháp khác nhau, đòi hỏi công tác dân vận của hệ thống chính trị: phải đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền vận động quần chúng để đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của chúng một cách kịp thời, sắc bén, giúp nhân dân nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của địch để từ đó tham gia đấu tranh chống lại có hiệu quả; vấn đề củng cố khối đại đoàn kết (yếu tố quan trọng hàng đầu) để làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn chia rẽ của các thế lực thù địch.
2 – Đặc điểm mối quan hệ giữa Đảng với dân trong thời kỳ mới
Trước hết, chúng ta cùng xem lại mối quan hệ giữa Đảng với dân trong lịch sử tồn tại và phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam. Thể hiện ở các điểm sau:
(1)- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng cũng chính là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, như một lẽ đương nhiên, Đảng có sự gắn bó máu thịt của nhân dân. Đây chính là nguồn gốc tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng. Nơi nào, giai đoạn nào mối quan hệ này chưa tốt thì nơi đó sức mạnh của đảng bị suy giảm.
(2)- Trong Lịch sử của Đảng công tác dân vận được đặt ra rất sớm. Ngay từ khi mới ra đời trong Nghị quyết hội nghị tháng 10 năm 1930 về nhiệm vụ cách mạng nước ta, trong đó có công tác dân vận, quyết định tổ chức các Ban chuyên môn về các giới vận động (công nhận, nông dân, binh lính, phụ nữ...). Từ đó nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận ra đời để củng cố mối quan hệ giữa đảng với nhân dân và đã góp phần quan trọng động viên nhân dân lập nên những chiến công oanh liệt và những thành tựu to lớn.
(3)- Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân ngày càng được củng cố, giữ vững và phát triển. Thể hiện: Một là, Đảng luôn tin ở nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, một lòng, một dạ chiến đấu vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Và Dân tin Đảng, hết lòng thương yêu, che chở đùm bọc. Hai là, Đảng luôn đi sâu tổng kết hoạt động thực tiễn, sáng tạo của nhân dân, bổ sung phát triển đường lối lãnh đạo của mình. Nhân dân là người nêu sáng kiến, mà khi sáng kiến của mình trở thành đường lối của Đảng thì chính nhân dân lại là người hăng hái thực hiện. Mối quan hệ giữa đảng với dân trở thành truyền thống cực kỳ quý báu và là sức mạnh vô địch của Đảng.
(4) Mối quan hệ giữa Đảng và dân là mối quan hệ 2 chiều. Nhân dân cần có Đảng để lãnh đạo để làm cách mạng. Đảng cần có dân để có sức mạnh vật chất và tinh thần, trí tuệ. Có dân là có tất cả. Mất dân cũng là mất tất cả.
Từ những vấn đề rút ra từ mối quan hệ giữ Đảng với dân trong lịch sử tồn tại và phát triển của Đảng, chúng ta cần quan tâm:
- Củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân có ý nghĩa sâu sắc là vấn đề có tính quy luật trong sự hình thành, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Sự sụp đổ về mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông âu; Một số diễn biến tình hình phức tạp gần đây ở các địa phương ở nước ta về an ninh chính chính trị, an ninh nông thôn...là những tiếng chuông cánh báo về nguy cơ xa dân, mất chỗ dựa ở dân.
- Củng cố mối quan hệ giữa Đảng với dân, cùng với việc chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thàn của nhân dân, đồng thời phải đặc biệt chú ý đến cuộc đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch kích động chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với dân, âm mưu xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng.
Đặc điểm mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong thời kỳ mới.
(1) Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trước hết và chủ yếu thể hiện ở mối quan hệ gi
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Quốc Tuấn
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)