Co so van hoa viet nam

Chia sẻ bởi Hoàng Anh Thao | Ngày 21/10/2018 | 23

Chia sẻ tài liệu: co so van hoa viet nam thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

Bài 5
VĂN HÓA TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG
A –VĂN HÓA TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG TẬP THỂ
I- VĂN HÓA LÀNG XÃ:
Những người cùng quan hệ huyết thống sống với nhau thành một đơn vị cơ sở là gia đình, gia đình là đơn vị cấu thành gia tộc, gia tộc có trưởng tộc trưởng họ, có nhà thờ họ,từ đường, gia phả,ruộng hương hỏa(ai hưởng thì phải cúng giỗ) gia đình quan trọng như tế bào của xã hội nên có từ nhà nước
Ở nước ta gia tộc và làng nhiều khi đồng nhất với nhau, làng là nơi của một họ: Đặng xá, Trần xá, làng họ Nguyễn, xóm Phan….Làng hình thành ban đầu từ quan hệ huyết thông
VĂN HÓA LÀNG XÃ
Khi kỹ thuật nông nghiệp ra đời con người rời bỏ cuộc sống hái lượm xuống đồng làm nông nghiệp thì cũng là lúc công xã thị tộc tan rã chuyển thành công xã nông thôn, các thành viên của làng tiến lên một bước thứ 2 là bên cạnh làng xóm hình thành do gắn với nhau bằng huyết thống thì còn gắn với nhau bằng những mối quan hệ trong sản xuất rồi đến trong đời sống: thủy lợi, khai khẩn, đổi công,chống thú dữ,bảo vệ mùa màng, chống trộm cướp, thiên tai….
VĂN HÓA LÀNG XÃ
Vì vậy mà bên cạnh “giọt máu đào hơn ao nước lã” còn có “bán anh em xa mua láng giềng gần” hoặc “tối lửa tắt đèn có nhau”…
Do mối quan hệ tương thân tương trợ gắn bó làng xóm như thế nên hình thành tình làng nghĩa xóm- có tính bình đẳng và dân chủ, đây là hình thức dân chủ sơ khai, dân chủ làng mạc. Nó có mặt trái là tạo ra thói dựa dẫm ,ỷ lại và thói đố kỵ muốn cào bằng. Nông thôn phương tây sống kiểu trang trại , quan hệ lỏng lẻo,K. Marx nói đó là “ cái bao tải khoai tây”
VĂN HÓA LÀNG XÃ
Ở VN công xã nguyên thủy tan rã và công xã nông thôn ra đời vào những thiên niên kỷ tcn cho đến thế kỷ thứ X trở đi chế đô phong kiến hưng thịnh, công xã nông thôn dần bị phong kiến hóa thành đơn vị hành chính là xã hoặc thôn , làng
Làng xã giữ vai trò trung gian giữa nhà nước với người dân, những chỉ thị của chính quyền TW đều qua “bộ lọc” của làng xã nên bị khúc xạ hay tán sắc đi nhiều
Làng xã VN là đơn vị tụ cư dựa trên quan hệ huyết thống, sx, là môi trường sinh hoạt văn hóa xh bao đời của người Việt, là nơi tạo nên sức mạnh công đồng để đối phó với thiên tai-địch họa
VĂN HÓA LÀNG XÃ
Thể chế làng xã VN có các đặc trưng sau:
1- chủ nghĩa tập thể:* làng là một tập thể đại diện cho mọi người dân để có trách nhiệm với nước và ngược lại, hếm có trường hợp người dân trực tiếp với các công đồng lớn,cá nhân chỉ có vai trò trong gia đình, ra đến cộng đồng lớn thì cá nhân mờ nhạt cá nhân hòa tan vào trong tập thể
* Luật pháp của làng là những phong tục tập quán, công cụ điều chỉnh hành vi của các cá nhân chủ yếu là : dư luận,lời đồn, thái độ chê khen của dân làng. Ngoài ra còn có hình thức làng phạt vạ , biêu riếu, hạ nhục trước tập thể( vi dụ….)
VĂN HÓA LÀNG XÃ
2- Khó tiếp nhận cái mới, không có năng lực tự biến đổi trước sự biến đông của hoàn cảnh xã hội. Tính dân chủ làng xã chỉ là sự lưu tồn của thời công xã thị tộc trong giai đoạn đầu của làng xã mà thôi, về sau làng xã vận hành theo những nguyên tắc mặc định cứng ngắc, lệ làng bóp nghẹt mọi tiềm năng sáng tạo mọi ý thức về cái tôi, nhân cách đa dạng bị tan biến trong công đồng làng xã
VĂN HÓA LÀNG XÃ
3-Tính tự quản: làng xã có hội đồng hương mục, hay hội đồng xã… có hương ước từ thế kỷ XV (thời Lê), triều đình chỉ liên hệ với đại diện chứ không trực tiếp với dân, thực chất là phải nộp thuế cho triều đình còn mọi việc thì làng xã tự giải quyết với dân.tạo ra cái lệ giải quyết nội bộ
Tính tự quản biến thành tính tự trị, làng xử lý theo lệ mà không theo luật , đã sinh ra tầng lớp cường hào ác bá sách nhiễu dân, những khốn quẩn của người nông dân thể hiện trong nhiều tác phảm văn học( vdu)
4- Chủ nghĩa cục bộ địa phương( gió làng ta mát hơn…) ( khoai làng ta ngọt hơn… trăng làng ta tròn hơn… người làng ta đáng tin hơn….)
II -VĂN HÓA ĐÔ THỊ
Đô thị Vn sinh ra không theo qui luật tức là không từ tiểu thủ công nghiệp và thương mại mà do nhà nước sinh ra, nên nó chỉ là trung tâm chính trị, hành chính là chủ yếu .
Triều đình và làng xã tìm cách bóp không cho tiểu thủ công nghiệp và thương mại phát triển đủ mạnh trở thành một thế lực có văn hóa vì sợ nó phá vỡ tính tập quyền
chế độ phong kiến trọng nông ức thương nên thương mại không phát triển công thương không trưởng thành như một lực lượng thì không hình thành văn hóa riêng nên không thể có văn hóa đô thị đươc

II -VĂN HÓA ĐÔ THỊ
Văn hóa nông thôn vẫn chi phối áp đảo đô thị ( tâm lý ấy vẫn tồn taị cho đến bây giờ: trong sinh hoạt, trong thực hiện luật pháp….) :
Làng xã phương tây là “cái bao tải khoai tây”, rời rạc còn đô thị là một tổ chức tự trị vững mạnh . Ngược lại làng xã VN là tổ chức tự trị vũng mạnh còn đô thị lại yếu ớt lệ thuộc.
III- TỔ CHỨC QUỐC GIA
Khái niệm về quốc gia bao gồm cả các quan niệm về : Lãnh thổ - xã hội công dân- tổ chức chính quyền – và chủ quyền.
Trong lịch sử thì các nước phương đông có khác với phương Tây và khái niệm chung hiện nay ở 4 điểm:
- Việc phân định lãnh thổ không ổn định vì các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau thường xuyên bị cắt, nhập
- Trước đây phương Đông không tồn tại ý niệm về xã hội công dân mà chỉ có xã hội thần dân
- Quyền lực tuyệt đối thuộc về quân vương chứ không phân quyền cho lãnh chúa như phương Tây
Quốc gia
Ý niệm về chủ quyền quốc gia mờ nhạt vì mối quan hệ giữa Thiên triều với các chư hầu.các nước nhỏ yếu không dám có ý thức về chủ quyền của mình với đế chế lớn
Riêng VN thì ý thức về nước- về lãnh thổ- về dân tộc và về chủ quyền đã có từ rất sớm, được hun đúc qua quá trình đấu tranh chống xâm lăng lâu dài hình thành nên truyền thống văn hóa nhà nước và dân tộc riêng có cũa VN
Quốc gia
Nhờ có tinh thần quốc gia dân tộc mà Đinh bộ Lĩnh dám xưng hùng với thế lực phương Bắc đặt tên nước là Đại cồ Việt,Lý thường Kiệt thắng Tống , Trần hưng Đạo thắng Nguyên, Lê Lợi thắng Minh, Nguyễn Huệ thắng Thanh và từ nhà Lý đến nhà Nguyễn nước ta mở rộng bờ cõi từ đồng bằng bắc bộ vào tới cà mau
Quốc gia
Tinh thần yêu nước của người VN và Trung quốc cũng có khác nhau.Người Tàu cho rằng đất đai là thuộc quyền sở hữu của nhà vua nên họ chỉ có khái niệm trung quân không có khái niệm trung với nước. Quân là vua mà cũng có nghĩa là người nuôi mình, Hàn Tín về với Lưu Bang nói “ Ăn cơm của người ta thì chết cho nguồi ta”. Ngũ tử Tư đưa quân nước Ngô về đánh bại nước sở (quê ông ta) được gọi là trung. Thời Tam quốc thiên hạ tàn sát nhau không vì đất nước Trung hoa mà vì họ Lưu ,Tôn hay Tào
Quốc gia
Người Việt phải đấu tranh gian nan nhiều đời với thiên nhiên để có đất sống nên người việt yêu nước là yêu mảnh đất của mình,ai tài giỏi, có công lãnh đạo chống ngoại xâm thì được làm vua không kể thành phần giòng dõi,vua không có quyền cắt đất làng xã phong hầu cho ai, các triều vua vẫn lấy tên nước “Việt” không đặt tên nước theo giòng họ như Hán, Đường, Tống, Nguyên,Minh…
Quốc gia
Ở phương Tây vùng là lãnh địa của lãnh chúa được quản lý chặt chẽ , tới thời kỳ tư bản biến thành bang (có luật pháp riêng) và nhà nước trở thành liên bang
Ở VN làng là quan trọng nhưng để chống lụt bão ,chống ngoại xâm giữ đất thì phải tập họp thành làng lớn ,siêu làng đó là nước nên có từ làng nước. Biên giới quốc gia và ý thức quốc gia của người Việt rất đỗi thiêng liêng, nhưng phương Tây và ngay cả Trung hoa thì biên giới có phần mờ nhạt, người Tàu không thích vua này thì đi sang nước khác đầu quân tìm minh chủ , Tây thì cưới vợ,lấy chồng làm ăn sinh sống ở bất cứ nước nào không phải băn khoăn( Cầu thủ…quan chức…sĩ quan…doanh nhân)
Quốc gia
Nước là sự mở rộng của làng, có chức năng nhiệm vụ giống như làng:Ứng phó với môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Chỉ có qui mô là khác nhau thôi( chuyện Sơn tinh thủy tinh- truyền thuyết Thánh gióng- chống trộm cướp)
Từ tính cộng đồng ở làng xã hình thành tính cộng đồng ở quốc gia cùng nhau chống thiên tai cùng nhau chống ngoại xâm triền miên nên hình thành tinh thần đoàn kết với (truyền thuyết mẹ Au Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng. Xây dựng tinh thần Bầu ơi…Nhiễu điều,…)
Quốc gia
Tính tự trị làng xã khép kín dẫn đến ý thức quốc gia cực kỳ mạnh mẽ.Ý thức độc lập dân tộc, lòng yêu nước mãnh liệt cùng từ đó. Nhưng cũng đồng thời làm nảy sinh xu hướng quốc gia dân tộc cực đoan, bỏ quê hương ra đi ngày xưa là đáng khinh bỉ dư luận làng xã lên án, bỏ nước ra đi là mang tội phản bội, lấy chồng, vợ nước ngoài là xấu xa…..
Ý thức quốc gia lớn nên người Việt ít quan tâm đến những vấn đề quốc tế cũng như người nông dân ít quan tâm đến ngoài làng
Quốc gia
Nước rông lớn hơn làng nên phải tăng cường chất dương tính bằng các biện pháp tổ chức xã hội như tổ chức bộ máy nhà nước gồm các bộ, các địa phương, các quan lại quản lý điều hành và có luật mà nổi tiếng nhất là 2 bộ luật: Hồng đức và luật Gia Long thời này Nho giáo đã chiếm vị trí quốc giáo nên các bộ luật đều phỏng theo luật Trung hoa, tuy nhiên cũng đã được các triều đại VN việt hóa đi nhiều(vd l uật gia Long nói về hôn nhân, nói về vai trò phụ nữ trong việc thừa kế…) nhưng phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi cho đến gần đây thậm chí bây giờ vẫn còn nạn tảo hôn.
Quốc gia
Luật Gia Long phỏng theo Trung hoa qui định người đàn ông có 7 cái cớ để bỏ vợ(thất xuất), nhưng cũng đồng thời đưa ra tam bất khả xuật(3 trường hợp không có quyền bỏ vợ), luật cũng cấm không được bán vợ, không hạ vợ chính xuống làm vợ hầu. Phụ nữ được hưởng hương hỏa và thờ cúng tổ tiên nếu không có con trai, con trai còn nhỏ
Quốc gia
Đất nước nông nghiệp trọng văn được sắp xếp thứ tự 4 nghề trong xã hội: Sĩ-nông –công –thương.
Nhất sĩ nhì nông….
Coi thường thương mại đến mức trọng nông ức thương.(thật thà cũng thể lái trâu! Yêu nhau cũng thể….)gần đây ta còn có những từ khinh miệt như: con buôn! Phe phẩy! Tư thương!...
Tranh tứ dân của dân gian: đồ nho-nhặt phân-in sách và lái trâu. Xã hội nặng giữ ổn định đến mức bảo thủ trì trệ không phát triển được
B- VĂN HÓA TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN

I-TÍN NGƯỠNG
1-Tín ngưỡng phồn thực:
*Sx lúa gạo để duy trì sự sống và sx con người để kế tục giòng giống. Là 2 hình thức sx có bản chất giống nhau. Đó là sự kết hợp của 2 yếu tố âm dương: mẹ-cha và đất-trời
*Từ nhận thức đó, tư duy của cư dân nông nghiệp Đông nam Á phát triển theo 2 hướng:
- Người có trí tuệ sắc sảo tìm qui luật khách quan để lí giải hiện thực, đã tìm ra triết lý âm dương
-Người bình thường thì nhìn thấy ở hiện thực một sức mạnh siêu nhiên rồi sùng bái nó như thần thánh và hình thành tín ngưỡng phồn thực(phồn=nhiều, thực=nảy nở)
Tín ngưỡng Phồn thực
Biểu hiện: Các nghi lễ, nghi thức phồn thực
- Lễ hội
- Tục hiến sinh, thờ và rước sinh thực khí
- Tục tắt đèn, chen lấn trong lễ hội(La sơn-La cả-Hà tây)
- Hát đối đáp, giao duyên (quan họ, hát xoan, hát ghẹo, hát ví, hát trống quân…)
- Trò chơi bắt chạch trong chum, ném pháo, ném còn
Động tác chọc lỗ (nam giới) tra hạt (nữ giới). Người Khơmú, Mảng có nghi lễ cầm nắm thóc (âm) dí vào các loại củ: khoai sọ, gừng, củ mài (dương) trước khi gieo trồng với mong muốn cây lúa được mạnh khoẻ, bội thu.
Tín ngưỡng Phồn thực

Triết lý âm dương và tín ngưỡng phồn thực là 2 mặt của một vấn đề. Ở VN tín ngưỡng phồn thực có 2 dạng biểu hiện: thờ cơ quan sinh dục(sinh thực khí nam, sinh thực khí nữ) và thờ hành vi giao phối.
Ở Văn điển Hà nội thung lũng sapa Lào cai,phú thọ, Hà tĩnh,Cát tiên Lâm đồng, chùa Dạm(Bắc ninh) Ở Đồng kị Bắc ninh có tục rước sinh thực khí bằng gỗ, hết lễ đốt thành tro chia nhau rải ra ruộng mong mùa màng sinh sôi phát triển
Trên nắp thạp đồng(Đào thịnh –Yên bái 500 năm tcn)xung quanh hình mặt trời có 4 cặp nam nữ giao phối, các nhà mồ tây nguyên, coc giao phối và cầu mưa(cóc là cậu ông trời)
Tín ngưỡng phồn thực
Trống đồng cũng đánh bằng cách cầm chày giã. Chày cối giã gạo của người Việt, giã cối rỗng hát giao duyên, sau là rủ nhau đến nhà các cô gái giã gạo hát giao duyên, tục giã cối đón dâu…
2-Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Trong tín ngữơng người Việt thì các nữ thần chiếm ưu thế
Khởi nguồn của tín ngưỡng thờ mẫu là tục thờ nữ thần.
- 17/27 vị tiên có nguồn gôc thuần Việt là nữ (sách Hội chân biên in năm 1847 đời Thiệu Trị); xung quanh quần thể di tích Phủ Giầy có tới trên 20 đền miếu thờ nữ thần
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
- Nguồn gốc các mẫu
+ Các vị nữ thần gắn với việc tạo lập vũ trụ: nữ thần Mặt trời, Mặt trăng, bà Nữ Oa, Tứ Pháp, Ngũ Hành…
+ Mẹ Âu cơ của người Việt, mẹ quê hương xứ sở Ponaga của người Chăm…
+ Hình thành ý thức về vũ trụ luận nguyên sơ: vũ trụ được chia thành 4 miền do 4 vị thánh mẫu cai quản: trời - đất - nước - rừng.
+ Thể hiện ý thức nhân sinh, ý thức về cội nguồn dân tộc, lòng yêu nước…
Ngoài ra ra còn thờ động vật như cá sấu , rắn chim(Hồng bàng-chim nước to) rồng,cá ông(voi),cọp thờ thực vật như mẹ lúa, thần lúa….
3-Tín ngưỡng sùng bái con người
Thờ cúng tổ tiên
Chết tức là từ trạng thái động trở thành trạng thái tĩnh, theo triết lý âm dương thì hồn đi từ cõi dương( dương gian, dương thế) sang cõi âm(âm phủ, âm ti) .Thế giới bên kia cũng có nhiều sông suối nên phải qua 9 suối(số nhiều và xa biền biệt), ngày xưa người chết được liệm trong thân gỗ hình chiếc thuyền để qua 9 suối, nay một số nơi miền duyên hải trung bộ vẫn giữ tục “chèo đưa linh”
Tín ngưỡng sùng bái con người
Quan niệm về con người và thế giới
+ Con người có phần xác và phần hồn
+ Người sống và người chết có hai thế giới riêng nhưng lại có mối quan hệ với nhau. Người sống tin rằng người chết có thể phù hộ (âm phù) cho họ hoặc quấy nhiễu cuộc sống của mình.Từ đó có tục thờ cúng tổ tiên mà ta còn gọi là Đạo thờ ông bà
Tín ngưỡng sùng bái con người
Thờ cúng người thân trong gia đình: bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất trong nhà, gian chính giữa của nhà trên, cao hơn hẳn so với bàn thờ của các vị thần linh khác. Đối tượng được thờ cúng bao gồm cha mẹ, ông bà, cụ kị và có thể những đời cao hơn (cao, tằng, tổ, khảo). Bên cạnh đó là những người thân khác chết trẻ hoặc chết vào giờ linh thiêng (bà cô, ông mãnh), tiền chủ (chủ trước của ngôi nhà), tổ nghề, thổ công - thổ địa - thổ kỳ…
Tín ngưỡng sùng bái con người
- Thờ cúng tổ tiên dòng họ: thường được thực hiện ở nhà thờ họ (từ đường) hoặc nhà chi trưởng, trưởng họ
- Thờ cúng tổ nước: lễ giỗ tổ Hùng Vương (ngày càng được tổ chức trên quy mô lớn hơn và được nâng lên vị trí quốc giỗ)
- Người Việt gắn chặt với gia đình hơn với xã hội. Gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên nhưng không phải dòng họ nào cũng có từ đường.người phương Tây coi trọng ngày sinh, người Việt coi trọng ngày mất(ngày giỗ), ngoài ngày giỗ thì tổ tiên cũng được cúng vào các ngày lễ tết, các ngày có sự kiện trong gia đình như cứơi xin mừng lộc - phúc….

Tín ngưỡng sùng bái con người
Thờ Thành Hoàng: Thành là cái thành , Hoàng là cái hào bao quanh bảo vệ thành. Thành Hoàng là vị thần cai quản che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng
Trong nhà thờ tổ tiên, trong làng thờ Thành Hoàng, quốc gia thì thờ vua tổ. Đặc biệt người Việt còn có tục thờ “tứ bất tử”: Tản Viên – Thánh gióng – Chữ đồng Tử - và Liễu Hạnh
III- PHONG TỤC
1-Hôn nhân:
- Hôn nhân không phải là việc riêng của 2 người mà là việc của 2 gia đình, 2 họ, 2 gia tộc. Được xem xét bằng môn đăng hộ đối. Hôn nhân là nhằm duy trì giòng dõi, phát triển nguồn nhân lực cho nhà trai( mua heo chọn nái…)( đàn bà thắt đáy lưng ong….),phải nhờ người nhiều con trải giường.
- Con gái phải đảm đang, tháo vát đem lại nguồn lợi vật chất cho gia đình chồng. Con trai phải giỏi giang đem lại vẻ vang cho gđ vợ(trai khôn tìm vợ chợ đông….)
Phong tục
Hôn nhân cũng là lợi ích của làng xã, lấy vợ ngoài làng phải nộp cheo rất nặng và khuyến khích “ta về ta tắm ao ta…” hoặc “lấy chồng khó giữa làng hơn lấy chồng sang thiên hạ” hôn nhân còn là chuyện quốc gia(Huyền Trân, Ngọc Hân và nhiều con vua con quan…)
Cuối cùng mới là chuyện của 2 người, phải xem tuổi cả 2 có hợp không. Sau làm lễ gia tiên cô dâu chú rể ăn chung đĩa cơm nếp và uống chung cốc rượu cầu cho dính nhau như nếp và say nhau như say rượu
Hôn nhân
Quan hệ mẹ chồng nàng dâu như truyền kiếp. Nên ngày rước dâu, mẹ chồng ôm bình vôi lánh sang nhà hàng xóm, để nói sẽ nhường quyền nội tướng cho người đàn bà mới nhưng là sau này còn bây giờ thì bình vôi quyền lực bà vẫn giữ
Tang ma
Người Việt có 2 quan niệm về cái chết
- Mặt có tính triết lý đó là linh hồn sẽ về thế giới bên kia( triết lý âm dương), rồi có kiếp sau(tương lai) nên xem tang ma như việc đưa tiễn và nhiều người bình tĩnh chờ cái chết, chủ yếu là người già( trẻ làm ma, già làm hội)
- Mặt có tính trần tục coi chết là hết nên tang ma là việc xót thương do đó con cháu phải mặc áo tang xổ gấu, đầu bù tóc rối, đội mũ rơm chống gậy vì quá đau xót đi không vững, phải khóc than, trong thời gian chịu tang không vui chơi, không cưới hỏi, tết không được đi thăm chơi nhà bạn bè….
- Đau buồn đến mức cây cối trong vườn nhà cũng phải để tang
Lễ tết và lễ hội
Nghề lúa nước tính thời vụ rất rõ, lúc thì tối tăm mặt mũi không kịp ănđể tránh mưa tránh bão ,lúc thì rảnh rổi nên chơi bù, ăn bù từ đó cứ những ngày tiết thì cúng ông bà rồi ăn do vậy ngày tiết biến thành tết cũng nhiều mà lễ hội cũng nhiều: tết nguyêđán(nguyên=đầu,đán=buổi sáng),tết thượng nguyên(rằm tháng giêng),tết trung nguyên (rằm tháng7 trùng với lễ vu lan), tết hạ nguyên (rằm tháng 10) ngoài ra còn có tết hàn thực 3-3, tết Đoan ngọ 5-5, tết Ngâu 7-7tết trung thu rằm tháng 8 và tết ông Táo 23 tháng chạp
Lễ tết và lễ hội
Nếu lễ tết là ăn uống thì lễ hội là vui chơi(ăn têt, chơi hội) lễ hội VN thì rất nhiều:- Đền Hùng, Thánh Gióng, Chùa Hương, Yên Tử, Bà Đen…(quan hệ xã hội tưởng nhớ các anh hùng dân tộc và cầu bình an phúc lộc)
Cầu mưa,xuống đồng, đâm trâu,cơm mới…(quan hệ với tự nhiên cầu thần linh phù hộ mùa màng)
Hội đua thuyền, ghe ngo,hội hoa. Biển, Huế gạo. Hạt điều (công đồng, quản bá hình ảnh và vui chơi)
C-VĂN HÓA GIAO TIẾP VÀ NGHỆ THUẬT NGÔN NGỮ
Giao tiếp là một trong những hình thái biểu đạt văn hóa của cá nhân cũng như cộng đồng khá rõ nét, qua giao tiếp phẩm chất con người được bộc lộ, nhờ giao tiếp mà ngôn ngữ được hình thành và phát triển, ngôn ngữ vừa là kết quả của giao tiếp vừa là công cụ để thúc đẩy quá trình giao tiếp, ngôn ngữ là phương tiện để chủ thể văn hóa biểu đạt cảm xúc , tư tưởng.
I-Đặc trưng cơ bản trong giao tiếp của người Việt
1-Vừa cởi mở vừa rụt rè:Làng xã VN là không gian VH khép kín ở đó mỗi cá nhân cảm thấy thoải mái trg cộng đồng quen thuộc và nơi mà họ làm chủ, nên họ rất cởi mở bộc bạch và hiếu khách, hàng ngày đi làm đồng vẫn thường gặp nhau nhưng rổi là đến nhà nhau chơi chuyện trò không dứt. Nhà có khách đến thì rất quí, khách đến nhà không gà thì vịt
Đặc trưng giao tiếp
Thích giao tiếp nhưng lại rất rụt rè khi ra khỏi cộng đồng quen thuộc của mình,cảm thấy thiếu tự tin, lúng túng, không xác định được vị thế của mình do vậy mất tự chủ, khép mình rụt rè
2-Lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử: Yêu nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Yêu nhau…
Đó là xuất phát từ cư dân nông nghiệp, từ tình làng nghĩa xóm, từ VH làng xã cộng với sự hòa trộn của Vh Phật giáo
Đặc trưng giao tiếp
Trong giao tiếp , người Việt có thói quen ưa tìm hiểu,quan sát , đánh giá đối tương giao tiếp:Tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, học vấn, gia cảnh, vợ chồng , con cái… thậm chí cả thu nhập. Cũng là cách để hiểu và cư xử cho phải, nhưng cũng là một kiểu tò mò muốn biết rõ như biết người trong làng mình
Đặc trưng giao tiếp
3-Trọng danh dự thái quá tới mức trở thành bệnh sỉ diện:Tốt danh hơn lành áo, Đói cho sạch…Một quan tiền công kg bằng…Một miếng giữa làng…
Bệnh sỉ diện dẫn tới sợ dư luận, tin đồn. Ngày xưa một tin đồn có thể làm một cô gái ở góa suốt đời, dư luận có thể làm một người tự tử. Ngày nay dư luận cũng rất nguy hiểm, có người mất cả sự nghiệp, mất chồng , mất vợ… sợ dư luận hơn sợ luật pháp. Trong lúc phương Tây với tư duy phân tích và thực nghiệm thì tin đồn không quan trọng mà phải đầy đủ chứng cứ, số liệu mới có giá trị
Đặc trưng giao tiếp
4-Người Việt ưa tế nhị, ý tứ nên hay “vòng vo tam quốc” Phải có miếng trầu làm đầu câu chuyện, chén trà, điếu thuốc, ly bia…
Những câu thăm dò vòng vo như: các cụ nhà khỏe cả chứ ạ? Chị về trễ thế anh nhà có phiền không? Ước gì anh lấy được nàng…
- Ý tứ tới mức tạo ra đắn đo cân nhắc :uốn lưỡi…dẫn đến thiếu tính quyết đoán nên hay cười, Người Việt gì cũng cười, có nhửng nụ cười vào những lúc ta ít chờ đợi nhất
Đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ
1- Nghệ thuật ngôn từ VN có tính biểu trưng cao: thể hiện ở xu hướng khái quát, ước lệ hóa vd: Phương Tây nói tất cả thì ta nói ba bề bốn bên,vạn sự, trăm họ, trăm dâu, ba mặt một lời…
2-Tính so sánh và tương phản cao: trèo cao/ té nặng, ăn vóc/học hay, một quả dâu da / bằng ba chén thuốc. Tiếng Việt rất phát triển câu đối, tết đến thường treo câu đối nơi trưng bày cỗ tết.
Nghệ thuật ngôn từ
3- Tiếng việt giàu nhịp điệu , tiết tấu, đậm chất thi ca nên người Việt hầu như ai cũng biết làm thơ chủ yếu là thơ lục bát và song thất lục bát như truyện Kiều, Lục vân Tiên, Chinh phụ ngâm khúc…Ngay cả văn xuôi mà nghe cũng như thơ cũng có tiết tấu, nhịp điệu như Hịch tướng sĩ của THĐ và nhiều tác phẩm văn học.
Người Việt chửi cũng thành thơ, cả động tác, dáng điệu khi chửi cũng có nhịp điệu
Nghệ thuật ngôn từ
4-Ngôn từ Việt giàu chất biểu cảm, sản phẩm của nền văn hóa trọng tình, những từ gốc thường được biến thể để có cảm xúc mới hơn vd xanh thì có xanh rờn, xanh ngắt, xanh um , xanh lè…Đỏ…,vàng…
5- tính linh hoạt, mềm dẻo, có tính khái quát cao thể hiện trong thơ, văn chương, các văn bản tổng hợp. Tính linh hoạt còn ở cách xưng hô đa dạng, còn ở ngữ cảnh nào có tên gọi ấy( mèo mun, ngựa ô, chó mực…)
IV-NGHỆ THUẬT THANH SẮC HÌNH KHỐI
Nghệ thuật thanh sắc (cảm nhận bằng thính giác, thị giác)chỉ các loại hình ca múa nhạc kịch.
Nghệ thuật hình khối đề cập đến kiến trúc, hội họa và điêu khắc.
Cách thức biểu đạt VH khác nhau nhưng chúng có nhiều điểm chung.
1-Tính biểu trưng
Phương tây nặng tả thực, người Việt tính biểu trưng cao:
Sử dụng những thủ pháp mang tính ước lệ:một cái roi có tua cho khán giả hiểu đó là con ngựa và động tác của người cầm roi như đang cưỡi ngựa phi nước đại, một mái chèo…chạy một vòng tròn ta hình dung vượt đường xa vạn lý, đánh nhau vài động tác cuối cùng bị đâm một nhát kẹp mũi giáo vào nách hát một đoạn tâm tình rồi mới chết… Vẽ mặt cũng nói lên người trung người nịnh…
Tính biểu trưng
Nhấn mạnh nội dung đến mức bỏ qua tính hợp lý của hình thức vd thủ pháp phóng to thu nhỏ của tranh làng Hồ( con mèo đại diện cho kẻ thống trị được vẽ to hơn con ngựa gấp nhiều lần
Ngoài ra còn dùng ngôn ngữ để diễn đạt tính biểu trưng ngay cả chú thích tranh , ảnh hiện nay cũng thế
2-Tính biểu cảm
Nghệ thuật thanh sắc hình khối người Việt mang tính biểu cảm cao
-Âm nhạc với giai điệu trử tình nhất là dân ca
-Vũ kịch dùng động tác, nét mặt, ánh mắt để biểu diễn, biểu lộ cảm xúc
-các tranh tương thường đề cập đến sự an bình mục đồng thổi sáo,phong cảnh làng quê,tranh tố nữ, trai gái đùa vui…
3-Tính tổng hợp
Do tính biểu trưng , biểu cảm cao và chú trọng nội dung nên nghệ thuật thanh sắc hình khối có tính tổng hợp:
Không thể phân biệt rõ ràng giữa các loại hình ca, múa, nhạc vd hát chèo có đủ cả 3
Không chuyên môn hóa nghệ thuật thành những thể loại chuyên biệt, trong chèo có hài, trong tuồng có vũ kịch và nhạc kịch…
4-Tính linh hoạt
Trong âm nhạc truyền thống nhạc công không bị câu thúc bỡi giọng chủ mà chỉ cần tuân thủ lúc bắt đầu và kết thúc
Diễn viên và khán giả không phân cách nên giao lưu và thường biến tấu ngẫu hứng phù hợp với tình huống cụ thể
Tiếng “đế” trong sân khấu cổ truyền làm cho vở diễn uyển chuyển đang bi thành hài, đang nghiêm thành bỡn cợt…
V- KẾT LUẬN
Xuất phát từ nền văn minh lúa nước, từ cuộc sống nông nghiệp với văn hóa làng xã lâu đời Người Việt đã hình thành nên một lối sống tình cảm, lối tư duy tổng hợp, linh hoạt được thể hiện trên mọi lĩnh vực từ tổ chức cộng đồng cho đến tổ chức đời sống cá nhân.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Hoàng Anh Thao
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)