Cơ sở văn hóa việt nam

Chia sẻ bởi đoàn anh tấn | Ngày 18/03/2024 | 10

Chia sẻ tài liệu: cơ sở văn hóa việt nam thuộc Giáo dục tiểu học

Nội dung tài liệu:

KÍNH CHÀO CÔ VÀ CÁC BẠN
KITÔ GIÁO VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
I - NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
1- NGUỒN GỐC
Ra đời vào đầu thế kỉ 16.
Là tên gọi chung cho tất cả các
tông phái cùng thờ chúa Jesus Christ.
Kitô giáo như một nhánh của Do
Thái giáo vùng Palestin, rồi phát
triển thành tôn giáo độc lập – tôn giáo
của những người bị áp bức.
Ban đầu bị các chủ nô La Mã ngăn
cản và bức hại. Thế kỉ thứ 4, hoàng
đế Constantin đệ nhất ra dụ chỉ tha đạo
và công nhận Kitô giáo là quốc giáo
Chúa Ki-tô vác thập tự giá, El Greco, 1580
2- SỰ PHÂN CHIA CỦA KITÔ GIÁO

Năm 974-1054 tách ra thành hai giáo hội :
+ Giáo hội phía Tây : gọi là Công giáo (chung cho toàn thế giới, phiên âm là Giatô giáo), lấy Rôma làm trung tâm (hay còn gọi là Công giáo La Mã / La Mã giáo).
+ Giáo hội phía Đông : gọi là Chính thống giáo, lấy Constantinople làm trung tâm.
Năm 1520, giai cấp tư sản phát triển kéo theo sự phát triển của phong trào cải cách tông giáo do mục sư người Đức là M.Luther cầm đầu dẫn đến một cuộc phân liệt thứ hai
2- SỰ PHÂN CHIA CỦA KITÔ GIÁO

+ Công giáo La Mã tách ra dòng mới là đạo Tin lành (chịu ảnh hưởng đậm nét của tư tưởng dân chủ tư sản và khuynh hướng tự do cá nhân, phủ nhận quyền lực của Tòa Thánh và Công đồng chung, chỉ thừa nhận chúa Giêsu và Kinh Thánh, cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh đến khi sinh chúa Giêsu) với tên : Protestanism (nghĩa là phản đối).
+ Thế kỉ 16 còn diễn ra cuộc li khai thứ ba : Anh giáo tách ra khỏi Công giáo La Mã.
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ 16, các giáo sĩ phương Tây đến truyền đạo. “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép : “Năm Nguyên Hòa thứ nhất, đời vua Lê Trung Tôn – năm 1533, một người Tây lương tên Inêkhu theo đường biển vào giảng đạo Giatô ở các làng Ninh Cường. Quần Anh, Trà Lũ thuộc tỉnh Nam Định. Những năm sau đó, người tích cực truyền đạo Kitô giáo vào Việt Nam là Alexander destructor Rhodes”.
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
- Cuối năm 1624, giáo sĩ Alexandre Rhodes, thuộc giáo hội Bồ Đào Nha, sau mấy năm truyền giáo ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, đã trở về châu âu vận động tòa thánh Roma giao cho Pháp quyền truyền đạo ở Viễn Đông.
+ Năm 1658, Giáo hoàng đã phong cho hai giáo sĩ Pháp là Francois Pallu và Lambert destructor Motte làm giám mục cai quản hai địa phận Đàng Ngoài và Đàng Trong
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
+ Năm 1664, Hội thừa sai Paris ( thường được gọi là Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp, thành lập.
Cuộc nội chiến Nguyễn Ánh – Tây Sơn thế kỉ 18 là cơ hội tốt cho sự bành trướng của Hội truyền giáo nước ngoái và sự can thiệp của thực dân Pháp. Giám mục Bá – đa – lộc , đại diện Tòa Thánh ở Đàng Trong, là người đỡ đầu tích cực cho Nguyễn Ánh.
+ Đưa hoàng tử Cảnh đi Pháp.
+ Năm 1787 đại diện cho Nguyễn Ánh kí với Pháp Hiệp ước Versailles không được thực hiện.
+ Tự mình mộ quân sắm vũ khí cho Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn.
Hoạt động của Bá – đa – lộc giúp nước Pháp có chỗ đứng vững chắc ở Việt Nam về tôn giáo và chính trị.
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu Gia Long và lâm vào tình thế nước đôi : vừa chịu ơn các giáo sĩ và ân nhân Pháp, vừa lo ngại sự phát triển của Kitô giáo ảnh hưởng xấu đến truyền thống đạo đức, thuần phong mĩ tục cổ truyền, sau đó có thể làm mất ổn định chính trị=> nguy cơ mất nước.
Trước tình hình đó :
+ Nhà Nguyễn chủ trương một mặt ban thưởng hậu và sử dụng một số người làm cố vấn và quan lại trong triều, mặt khác thực hiện chính sách “bế môn tỏa cảng” trong giao lưu và giữ nguyên trạng đạo Kitô chứ không khuyến khích phát triển.
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
+ Trong chiếu ban hành năm 1804, nhân nói với dân chúng Bắc Hà về việc thờ thần Phật, vua Gia Long tuyên bố : “dân các tổng xã nào có nhà thờ Gia Tô đổ nát thì phải đưa đơn trình quan trấn mới được tu bổ, dựng nhà thờ mới thì đều cấm”.
+ Để bảo tồn văn hóa, tạo điều kiện giữ ổn định chính trị, nhà Nguyễn khôi phục Nho giáo làm quốc giáo. Gia Long căn dặn Minh Mạng : “Hãy biết ơn người Pháp, nhưng đừng bao giờ để họ đặt chân vào triều đình của con”.
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Dưới thời Minh Mạng :
+ (1820 – 1840), ý đồ xâm lược của Pháp lộ rõ. Từ thời Thiệu Trị (1841 – 1847) sang thời Tự Đức (1848 – 1883), cuộc leo thang xâm lược của thực dân Pháp gia tăng.
+ Những người Pháp làm quan ở triều Nguyễn và nhiều Cha cố đã báo về cho chính phủ Pháp nhiều tin tình báo quan trọng, một số giáo sĩ theo tàu chiến Pháp thâm nhập vào Việt Nam
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
+ Không phân biệt được bọn thực dân đội lốt tôn giáo và tay sai với những con chiên nhẹ dạ cả tin và những giáo dân lương thiện, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức ra một loạt chỉ dụ cấm Đạo. Việc cấm Đạo và giết giáo dân tạo thêm cớ cho bọn thực dân can thiệp vũ trang ráo riết hơn.
+ Trước sức ép của Pháp, tháng 5 – 1862, Tự Đức buộc phải kí với Pháp Hòa ước Nhâm Tuất, theo đó triều đình phải nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Bộ và Bỏ cấm Đạo. Điều này khiến nhiều quan lại và các nhà Nho yêu nước phản ứng quyết liệt, họ dấy lên phong trào “Bình Tây sát Tả” (dẹp giặc Tây, giết tả Đạo) kéo dài tới thời kì Cần Vương.
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Thái độ của bọn thực dân :
+ Không quan tâm đến đời sống của giáo dân.
+ Giữa các giáo sĩ thừa sai với giáo sĩ bản xứ có sự phân biệt đối xử tàn nhẫn (năm 1933 tòa thánh Roma mới phong chức giám mục cho người bản xứ đầu tiên là Nguyễn Bá Tòng).
+ Năm 1954, Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, bọn thực dân đội lốt tôn giáo tung tin “Chúa đã vào Nam” để lôi kéo phần lớn tín đồ từ Bắc vào Nam, gây xáo trộn trong cuộc sống lương dân
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Cách mạng tháng tám thành công, nhà nước của nhân dân ra đời. Sự phát triển của Kitô giáo nằm trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật
3- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
II - CÁCH TỔ CHỨC,QUAN NIỆM,GIÁO LÍ,SỐ LƯỢNG TÍN ĐỒ
1- CÁCH TỔ CHỨC

Tổ chức của Kitô giáo được chia thành :
+ Giáo xứ
+ Giáo phận
+ Giáo hội quốc gia
+ Giáo triều Vatican
1- CÁCH TỔ CHỨC
Quyền lực tối cao và tuyệt đối thuộc về Giáo hoàng. Giáo hoàng có thể triệu tập các dòng tu và một số tu sĩ cao cấp.
Lịch sử giáo hội Công giáo đã trải qua 21 lần họp đại hội kiểu này mà người ta gọi là công đồng chung.
Từ tháng 10 – 1962 đến tháng 12 – 1965. Cộng đồng thứ 21 được họp tại Vatican. Còn gọi là Công đồng Vatican 2.
2- QUAN NIỆM CỦA KITÔ GIÁO
- Kitô giáo quan niệm con người do chúa trời sáng tạo ra và sự mầu nhiệm của Thiên Chúa tiền định, vì họ đặt niềm tin vào Đức Chúa trời,cho rằng con người có sứ mệnh phải phụng thờ Chúa và tiếp tục công việc của Chúa ở trái đất .
3- GIÁO LÍ CỦA KITÔ GIÁO

Giáo lí của Kitô giáo là Kinh Thánh gồm 2 bộ Cựu ước và Tân ước. Bộ cựu ước gồm 46 quyển, chia làm 3 loại. Bộ Tân ước gồm 17 quyển kể về cuộc đời và sự nghiệp của chúa Giêsu, hoạt động của các thánh tông đồ chia làm 4 loại : sách tin mừng, sách công cụ sứ đồ, sách Thánh thư, sách Khải huyền.
Bài giảng trên núi, tranh của Carl Heinrich Bloch, thế kỷ 19.
3- GIÁO LÍ CỦA KITÔ GIÁO

Theo tài liệu của giáo hội đến năm 1593, Nghệ An có 12 làng công giáo toàn tòng.
Sau 4 thế kỉ truyền đạo, nay Kitô giáo đã có chỗ đứng vững chắc ở Việt Nam với khoảng hơn 5 triệu tín đồ Công giáo và gần nửa triệu tín đồ Tin lành
III- SỰ DU NHẬP KITÔ GIÁO VÀO VIỆT NAM
Trên phương diện tôn giáo và thương mại, để vươn tới phương Đông xa xôi, các nhà truyền giáo và nhà tư bản tất yếu phải liên kết chặt chẽ với nhau :
+ Nhà truyền giáo muốn mở rộng nước Chúa cần phương tiện để đi xa.
III- SỰ DU NHẬP KITÔ GIÁO VÀO VIỆT NAM
+ Nhà tư bản muốn kiếm lời cần người am hiểu tài chính cho các giáo sĩ và chở họ tới bất cứ đâu, đến nơi các giáo sĩ vừa truyền đạo, vừa tìm các nguồn hàng quý hiếm; các giáo sĩ còn giúp nhà buôn bằng sự can thiệp với chính quyền địa phương xin phép cho họ buôn bán.
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
Kitô giáo là bộ phận quan trọng của văn hóa phương tây.
Trong mấy thế kỉ tiếp xúc, ảnh hưởng của văn hóa phương tây đã tác động khá sâu rộng vào nhiều lĩnh vực văn hóa Việt Nam.
Người Việt Nam đã tùy lúc tùy nơi đã thâu hóa linh hoạt, chấp nhận những gì có ích và biến đổi cho phù hợp.
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
Ví dụ : trong Kitô giáo cónhững ngôi nhà thờ nổi tiếng rập khuôn cứng nhắc theo lối kiến trúc nhọn hoắt, thì ở Việt Nam nhà thờ Phát Diệm xuất hiện dạng kiến trúc dân tộc thấp trải rộng có mái cong.
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
Do truyền thống trọng nữ, người Việt Nam đưa đức mẹ Maria lên vị trí sùng kính đặc biệt mà ở phương tây không gặp.
+ Do tinh thần dân tộc truyền thống, người Kitô hữu Việt Nam ngày nay đã và đang thực sự hòa mình với dân tộc, ở trong dân tộc, vì dân tộc, xây dựng cho mình truyền thống Kính Chúa, yêu nước, đề cao tinh thần Sống phúc âm trong lòng dân tộc. Trong lĩnh vực văn hóa vật chất và tinh thần khác, cũng có sự thâu hóa linh hoạt như thế.
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
Ví dụ : tòa nhà của Trường Đại học Đông Dương có hệ thống mái ngói, bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát giác… làm nổi bật tính dân tộc; đưa các mái hiên, mái che cửa sổ ra xa để tránh nắng chiếu và mưa hắt…
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
4.1-Văn hóa vật chất:
4.1.1-Trong lĩnh vực đô thị :
+ Cuối thế kỉ 19, đô thị Việt Nam từ mô hình cổ truyền với chức năng trung tâm chính trị chuyển sang phát triển theo mô hình đô thị lớn dần => tầng lớp tư sản dân tộc ra đời, đô thị, thị trấn nhỏ dần phát triển
+ Nhiều ngành công nghiệp ra đời như: khai mỏ, chế biến nông lâm sản….
+ Kiến trúc đô thị kết hợp tài tình phong cách phương tây với tính cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam xuất hiện
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
4.1-Văn hóa vật chất:
4.1.2-Trong lĩnh vực giao thông :
+ Hàng chục vạn dân đinh được huy động xây dựng hệ thống đường bộ đến các đồn điền, hầm mỏ và những vùng xa xôi.
+ Hệ thống đường sắt với những đường hầm xuyên núi.
+ Những cây cầu lớn được kéo dài (cây cầu sắt bắc qua song Hồng mang tên Doumer, nay là cầu Long Biên).
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
4.2-Văn hóa tinh thần:
4.2.1-Trong Văn tự và ngôn ngữ :
+ Khi truyền đạo cho người Việt Nam, khó khăn đầu tiên là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự. Họ đã dùng bộ chữ cái Latinh thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt, tạo nên chữ Quốc ngữ. =>thành quả của nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha, Ý, Pháp… và những người Việt Nam đã giúp họ học tiếng Việt.
+ Công lao lớn nhất thuộc về linh mục Alexander destructor Rhodes. Ban đầu chữ Quốc ngữ chỉ là công cụ truyền đạo của các giáo sĩ, do nó có ưu điểm là dễ học, nện các nhà nho tiến bộ đã truyền bá để phổ cập giáo dục và nâng cao dân trí.
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
4.2-Văn hóa tinh thần:
4.2.2-Trong Báo chí :
+ Sự thâm nhập của văn hóa phương tây đưa => báo chí ra đời. Nhằm phục vụ nhu cầu thông tin cai trị của thực dân Pháp.
+ Các tờ báo viết bằng chữ Quốc ngữ ra đời, góp phần nâng cao dân trí, thức tỉnh ý thức dân tộc, tăng cường tính năng động của người Việt Nam.
4.2-Văn hóa tinh thần:
4.2.3-Trong văn học :
+ Tiểu thuyết hiện đại ra đời, khởi đầu là tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Quản viết bằng chữ Quốc ngữ, tiếp đó là tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh…
+ Chất văn xuôi, tính cách cá nhân phương tây còn ảnh hưởng vào một lĩnh vực có truyền thống lâu đời như thơ,=>bùng nổ dòng thơ mới với những tên tuổi như :Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận… vào những năm 30.
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
4.2-Văn hóa tinh thần:
4.2.3-Trong văn học :
- Tiếng Việt cũng biến động mạnh :
+ Từ ngữ được vay mượn để diễn tả những khái niệm mới đi vào đời sống thường ngày như xà phòng / xà bông (savon), kem (crème), ga (gare),…
+ Những hiện tượng ngữ pháp đặc thù trong ngôn ngữ phương Tây (thể bị động, cấu trúc danh từ…) cũng được du nhập vào tiếng Việt.
4.2-Văn hóa tinh thần:
4.2.4-Trong nghệ thuật hội họa :
+ Xuất hiện những thể loại vay mượn từ phương Tây như : tranh sơn dầu, tranh bột màu với bút pháp tả thực.
+ Bút pháp tả thực còn xuất hiện trên sân khấu với thể loại kịch nói và tác động tới sự ra đời của nghệ thuật cải lương. Nghệ thuật thanh sắc tổng hợp cổ truyền phân hóa thành các bộ môn như : ca, múa, nhạc, kịch…
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM


4.2-Văn hóa tinh thần:
4.2.5-Trong giáo dục :
+ Người Pháp buộc học trò học tiếng Pháp, bắt theo hệ thống giáo dục kiểu phương Tây để đào tạo người làm việc cho mình.
+ Năm 1898, chương trình thi Hương có thêm hai môn Quốc ngữ và Pháp văn.
+ Năm 1906 lập ra Nha học chính Đông Dương và định ra ba bậc học cơ sở là: ấu học, tiểu học và trung học. Lập ra một số trường cao đẳng, đến năm 1908 mở Trường Đại học Đông Dương.
+ Hệ thống Nho học tàn lụi dần. Năm 1915 ở Bắc Kì và 1918 ở Trung Kì thi Hương bị bãi bỏ, chấm dứt nền Nho học Việt Nam.


IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
4.2-Văn hóa tinh thần:
4.2.6-Trong khoa học :
+ Hệ thống giáo dục mới cùng sách vở phương Tây góp phần giúp người Việt Nam tiếp xúc với tư tưởng dân chủ tư sản, và tư tưởng Mácxít.
+ Truyền thống đạo học với lối tư duy tổng hợp nay được bổ sung thêm kiểu tư duy phân tích. Nó được rèn luyện qua báo chí, giáo dục và hoạt động của các cơ quan khoa học như : Trường Viễn Đông Pháp, Viện Vi trùng học…nền khoa học hiện đại manh nha từ thời thuộc Pháp này đến khi giao lưu với Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, trở nên thực sự vững mạnh và phát triển.
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
4.2-Văn hóa tinh thần:
4.2.6-Trong khoa học :
- Sự áp đặt thô bạo của chúng đã khích lệ tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và chống Pháp như :
+ Xuất hiện Nguyễn Trường Tộ với những bản điều trần.
+ Phan Châu Trinh với phong trào Duy Tân (1906 -1908).
+ Lương Văn Can với phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907)
+ Đại diện cho khuynh hướng tìm hiểu, chắt lọc cái hay của văn minh phương Tây để giải phóng dân tộc là Nguyễn Ái Quốc.

IV- ẢNH HƯỞNG CỦA KITÔ GIÁO ĐẾN VIỆT NAM
V- NHỮNG KHÓ KHĂN CHÍNH KHI THÂM NHẬP VÀO VIỆT NAM
Thứ nhất : hoạt động truyền giáo đã dính líu và thỏa hiệp với hoạt động của kẻ thực dân xâm lược
V- NHỮNG KHÓ KHĂN CHÍNH KHI THÂM NHẬP VÀO VIỆT NAM
+ Khác với phương Tây, trong quá trình thâm nhập vào Việt Nam (phương Đông), hoạt động truyền giáo đã dính líu và thỏa hiệp với hoạt động của kẻ thực dân xâm lược. Trong luận án tiến sĩ quốc gia khoa học chính trị bảo vệ tại đại học Paris năm 1968 nhan đề Christianisme et colonialism au Vietnam 1867 - 1914, ông Cao Huy Thuần đã viết : “Phúc âm được truyền bá trong khắp thế giới Á Phi là nhờ vào sự chinh phục xâm lăng thuộc địa tương ứng với mỗi bước “leo thang” của đạo Giatô, và ngược lại”.
V- NHỮNG KHÓ KHĂN CHÍNH KHI THÂM NHẬP VÀO VIỆT NAM
+ Trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã dành riêng cả một chương viết về Chủ nghĩa giáo hội : “Hàng giáo sĩ thuộc địa không những phải chịu trách nhiệm gây ra chiến tranh thuộc địa, mà còn là bọn kéo dài chiến tranh, bọn chủ trương đánh đến cùng, không chịu điều đình “non”…”. Người Việt Nam với truyền thống bao dung, dễ chấp nhận mọi tôn giáo ngoại lai, ấy vậy mà vào thời kì này lần đầu tiên xuất hiện sự đối lập giữa “bên giáo” (Kitô giáo) với “bên lương” (lương thiện!) là tất cả cộng đồng dân cư còn lại.
V- NHỮNG KHÓ KHĂN CHÍNH KHI THÂM NHẬP VÀO VIỆT NAM
Thứ hai : Kitô giáo là tôn giáo mang đậm tính cách cứng rắn của truyền thống văn hóa phương Tây :

+ Khác với các tôn giáo có nguồn gốc Á Đông đã vào Việt Nam trước đó (Phật giáo, Đạo giáo…), Kitô giáo là tôn giáo mang đậm tính cách cứng rắn của truyền thống văn hóa phương Tây, vì vậy trong thời gian dài khó hòa đồng được với văn hóa Việt Nam.
V- NHỮNG KHÓ KHĂN CHÍNH KHI THÂM NHẬP VÀO VIỆT NAM
+ Mâu thuẫn giữa một bên là truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam với bên kia là tính độc tôn của Kitô giáo không chấp nhận việc thờ phụng ai ngoài Chúa. A.de Rhodes đã kể lại trong cuốn “Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài” những trường hợp quan chức, thầy thuốc Việt Nam đã sẵn sàng chịu phép rửa tội, nhưng khi A.de Rhodes yêu cầu họ phá bỏ bàn thờ tổ tiên thì theo lời A.de Rhodes, họ “không thể chấp nhận được”, họ “ngoan cố giữ và chết khốn khổ trong sai lầm”.
V- NHỮNG KHÓ KHĂN CHÍNH KHI THÂM NHẬP VÀO VIỆT NAM
Nhận thấy điều này nên :
+ Năm 1659, sau khi phong cho hai người Pháp làm giám mục cai quản Đàng Ngoài và Đàng Trong, tòa thánh Roma chỉ thị những nguyên tắc hợp lí cho việc truyền giáo ở Đông Dương: thành lập hàng giáo sĩ bản xứ, cẩn trọng trong vấn đề chính trị quốc gia, tôn trọng văn hóa và các tập tục địa phương. Nhưng thực tế các nguyên tắc này không được tuân theo.
V- NHỮNG KHÓ KHĂN CHÍNH KHI THÂM NHẬP VÀO VIỆT NAM
+ Năm 1715 giáo hoàng Clément 11 chính thức tuyên bố coi việc thờ cúng tổ tiên là hoàn toàn đi ngược lại đạo Kitô. Quan điểm bảo thủ này phải đến Công đồng Vatican 2 (1962 – 1965) mới được điều chỉnh theo tinh thần tôn trọng sự khác biệt và các sắc thái văn hóa địa phương.
CÁM ƠN CÔ VÀ CÁC
BẠN ĐÃ LẮNG NGHE
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: đoàn anh tấn
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)