Cơ sở Hoá môi trường phần 2
Chia sẻ bởi Nguyễn Ngọc Khuyên |
Ngày 18/03/2024 |
33
Chia sẻ tài liệu: Cơ sở Hoá môi trường phần 2 thuộc Hóa học
Nội dung tài liệu:
Trường đại học hồng đức
Khoa khoa học tự nhiên
Th.S Ngô Xuân Lương
Thanh Hóa, năm 2006
Giáo dục môi trường
và những vấn đề bảo vệ môi trường
Phần II :
Giáo dục môi trường
Chương I
1. Quan niệm về giáo dục môi trường
Có nhiều định nghĩa GDMT [12]. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của việc GDMT thông qua các môn học ở nhà trường có thể hiểu GDMT là một quá trình tạo dựng cho con người những nhận thức và mối quan tâm về môi trường và các vấn để môi trường.
GDMT gắn liền với việc học kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ và lòng nhiệt tình để hoạt động một cách độc lập hoặc phối hợp nhằm tìm ra giải pháp cho những vấn đề môi trường và ngăn chặn những vấn đề mới có thể xảy ra trong tương lai.
2. Phạm vi, chính sách GDMT và chiến lược thực hiện GDMT trong môi trường phổ thông Việt Nam.
a. Phạm vi GDMT ở Việt nam
- Tất cả mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, văn hoá, kinh tế, khoa học kỹ thuật, pháp luật, chính trị.
- Tất cả mọi hành vi phần trong xã hội: công nhân, nông dân, tri thức, lự lượng vũ trang, học sinh, sinh viên, viên chứ, tiểu thương.
- Tất cả mọi lứa tuổi, giới tính, dân tộc, mọi trình độ văn hoá: tất cả các tổ chức xã hội; tất cả các vung lãnh thổ đất nước.
- ý thức của giai đoạn đầu tiên là tập trung vào học sinh ở phổ thông. Vì GDMT cho học sinh ở phổ thông không những có kết quả trước mắt mà còn đạt được những lợi ích lâu dài.
* Xét về khía cạnh này, thế hệ trẻ rõ ràng là bộ phận phù hợp nhất xã hội để tác động, vì:
+ Họ vẫn ở trong quá trình phát triển thái độ, nhận thức và hành vi
+ Họ là thành viên của nhóm dân cư đông nhất.
+ Sự thành đạt trong tương lai của họ phụ thuộc nhiều hơn vào phát triển bền vững hiện nay hơn bất kỳ nhóm nào khác.
* Và trường học là nơi hội tụ nhiều điều kiện nhất cho việc tác động vào ý thức môi trờng của thế hệ trẻ. Bởi vì trong nhà trường quá trình giáo dục đợc tiến hành theo chương trình và kế hoạch chặt chẽ, với các PPGD khoa học cho phép tác động đến từng cá thể học sinh. Điều đó đảm bảo rằng các quyết định có ảnh hưởng tới môi trường được chỉ dẫn đầy đủ bởi sự hiểu biết về kinh nghiệm.
b. Chính sách GDMT
* Mục tiêu của GDMT; GDMT ở nhà trường làm cho HS và GV đạt được:
- Có ý thức thường xuyên và luôn luôn nhạy cảm đối với mọi khía cạnh của nhà trường và những vấn đề liên quan đến môi trường.
- Thu nhận được những thông tin và kiến thức cơ bản về môi trường và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các hoạt động của con người và môi trường, về quan hệ giữa con người và môi trường.
- Phát triển những kỹ năng bảovệ và gìn giữ môi trường, kỹ năng dự đoán phòng tránh và giải quyết những vấn đề môi trường nảy sinh.
- Tham gia tích cực vào những hoạt động khôi phục, bảo vệ và gìn giữ môi trường.
- Có ý thức về tầm quan trọng của môi trường trong sạch đối với sức khoẻ con người, về chất lượng cuộc sống của chúng ta, phát triển thái độ tích cực đối với môi trờng.
* GDMT được thựchiện bằng các biện pháp chủ yếu sau:
- Đưa GDMT vào tất cả các cấp bậc học: mầm non; tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và các cấp bậc học khác.
- Kết hợp GDMT vào tất cả các môn ở tất cả các cấp, bậc học.
- Thực hiện GDMT bằng phương pháp hiện đại đặt trọng tâm ở người học và cách tiếp cận học bằng việc làm.
- Cung cấp kiến thức về môi trường và rèn luyện kỹ năng bảo vệ môi trường. Các trường tổ chức và tích cực tham gia cùng với cộng đồng cách hoạt động bảo vệ môi trường trong và ngoài nhà trường.
- Luôn chú ý tạo ra thái độ đúng và tinh thần trách nhiệm cao đối với việc bảo vệ môi trường.
- GDMT không chỉ cung cấp hiểu biết về môi trường mà còn được thực hiện trong môi trường, với thái độ và tình cảm vì môi trường.
- Trong GDMT hiện nay dành ưu tiên cho đào tạo GV và các bận tiểu học, trung học.
2. Mục đích của GDMT
a. GDMT trong nhà trường nhằm đạt đến mục đích cuối cùng là người học được trang bị.
- Một ý thức trách nhiệm sâu sắc với sự phát triển bền vững của trái đất.
- Một khả năng cảm thụ, đánh giá vẻ đẹp của nền tảng đạo lý môi trường.
b. GDMT mong hình thành điều gì học sinh .
+ Về kiến thức và hiểu biết: Các hoạt động GDMT sẽ được thiết kế và thực hiện nhằm giúp học sinh làm quen với các khái niệm: bảo vệ và bảo tồn; giảm tiêu thụ, tái sử dụng và tái chế; các chu trình khép kín; cái cần có và cái muốn có; Sự phụ thuộc lẫn nhau; Chi phí và lợi ích thu được; tăng trưởng và suy thoái; kiểm toán về tác động và sử dụng các nguồn cung cấp; Hình thành và duy trì quan hệ đối tác; Các kiểu liên kết: nguyên nhân- hậu quả, chuỗi - mạng; tư duy một cách toàn cầu và hành động một cách cục bộ.
Trong thực tiễn sư phạm; mỗi ngôi trường cụ thể thuộc về một vùng địa lý cụ thể, nằm trong một bối cảnh văn hoá cụ thể, sẽ có một nhu cầu GDMT cụ thể.
Điều này quyết định việc lựa chọn những nội dung và phương thức thực hiện phù hợp. Việc xác định và lựa chọn đúng những vấn đề môi trường có liên quan trựctiếp học sinh sẽ giúp thu hút các em tham gia một cách tự nhiên vào quá trình giải quyết các vấn đề bằng một thái độ tự nguyện và bằng những hành động có trách nhiệm.
+ Về thái độ và hành vi: các hoạt động GDMT sẽ được thiết kế và thực hiện nhằm giúp HS biết được giá trị của môi trường và vai trò cá nhân của mình trong việc giữ gìn môi trường cho hôm nay và ngày mai. Điều này khích lệ một thái độ và hành vi tích cực đối với môi trường, có thể nhìn thấy qua các biểuhiện dưới đây:
- Biết đánh giá, quan tâm và lo lắng đến môi trường và đời sống của các sinh vật.
- Sự đọc lập trong suy nghĩ các vấn đề về môi trường
- Tôn trọng niềm tin và quan điểm của người khác
- Khoan dung và cởi mở.
- Biết tôn trọng các luận chứng và luận cứ đúng đắn.
- Có ý thức phê phán và thay đổi những thái độ không đúng đắn về môi trường.
- Có mong muốn tham gia vào việc giải quyết các vấn đề môi trường, các hoạt động cải thiện môi trường và truyền bá các ý tưởng tốt đẹp trong cộng đồng.
3. Mô hình của việc dạy và học trong GDMT
Việc dạy và học trong GDMT đang diễn ra trên toàn cầu theo mô hình sau. GDMT trong nhà trưởng phổ thông cần được thực hiện theo nguyên tắc vì môi trường- về môi trường và trong môi trường.
Giáo dục vì môi trường hướng tới mối quan tâm thực sự đối với chất lượng môi trường sống và đề cao trách nhiệm của con người phải chăm sóc, giữ gìn và bảo vệ môi trường tự nhiên và góp phần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh.
Hình thành đạo đức môi trường với những quan niệm, lối sống và thói quen tiêu thụ thân thiện với môi trường.
Giáo dục về môi trường cung cấp những kiến thức, hiểu biết về môi trường, các mối quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa con ngời và giới tự nhiên trên cơ sở khai thác triệt để các tri thức về môi trường hiện có ở các môn học trong trường phổ thông.
Giáo dục trong môi trường sử dụng môi trường như là một nguồn lực cho các hoạt động dạy - học và hoạt động ngoại khoá ngoài nhà trường.
Môi trường sống ở các địa phương, ở cộng đồng là phòng thí nghiệm, và bảo tàng tự nhiên, phong phú, đa dạng cung cấp các nguồn thông tin, phương tiện để giáo dục môi trường.
4. Các PPDH của GDMT - nội dung của phương pháp và kỹ thuật thực hiện.
a. Nghiên cứu (tìm tòi, khám phá hay giải quyết vấn đề )
Đây là phương pháp hướng các em làm quen với quá trình tìm tòi, sáng tạo dưới dạng các bài tập.
Có nhiều dạng bài tập khác nhau đối với học sinh. bài tập giải quyết nhanh ở lớp; bài tập đòi hỏi có thời gian dài (trong 1 tiết học, 1 tuần hay 1 tháng ở nhà).
Các bài tập ở nhà phải được tính toán sao cho các tài liệu liên quan mà học sinh sử dụng không chứa đựng những lời giải sẵn, trực tiếp cho các bài tập.
Phương pháp nghiên cứu (PPNV) được tiến hành theo các bước sau:
1. Đặt vấn đề.
2. Tìm các giả thuyết giải quyết vấn đề
3. Thu thập các số liệu thống kê và tài liệu liên quan, xử lý số liệu, tài liệu và xác minh các giải thuyết.
4. Kết luận.
1. Vận dụng các kết luận, đưa ra cam kết hành động.
2. Làm việc nhóm
Đây là PPDH có nhiều khả năng tốt trong GDMT vì nó đề cao sự hợp tác trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân.
Trong thảo luận nhóm, cần chú ý:
- Vai trò của nhóm trưởng cần phải được xác định rõ.
- Giáo viên phải chuẩn bị chu đáo nội dung (hệ thống câu hỏi) cũng như tiến trình.
- Nếu thấy học sinh thảo luận đi xa vấn đề thì cần phải uốn nắn ngay.
- Cần khuyến khích các em tranh luận
- Hình dung trước những ý kiến và thái độ của học sinh khi tổng kết, học sinh nào cũng thấy mình có phần đóng góp vào những ý kiến thảo luận của nhóm, lớp.
Phương pháp làm việc nhóm được tiến hành theo 4 bước: chuẩn bị, giao nhiệm vụ, tiến hành thảo luận, tổng kết (đại diện các nhóm trình bày kết quả).
3. Đóng vai
Đây là phưng pháp được đặc trưng bởi một hoạt động với các nhân vật giả định, mà trong đó các tình thế trong thực tiễn cuộc sống được thể hiện tức thời thành những hoạt động có kịch tính.
Trong vở kịch này, các vai khác nhau do chính học sinh đóng và trình diễn.
Các hành động kịch được xuất phát từ chính sự hiểu biết, óc tưởng tượng và trí sáng tạo của học sinh, không cần phải qua đợt tập dượt hay dàn dựng công phu, vì vậy đây là quá trình thông tin với đặc điểm cơ bản là trình diễn tức thời.
Phương pháp đóng vai được tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: tạo không khí để đóng vai. Việc đóng vai không phải bao giờ cũng được tất cả các học sinh chấp nhận, vì vậy bước này rất quan trọng, giáo viên cần cho học sinh nhận thức được rằng bất kỳ con ngời nào trong cuộc sống cũng có thể gặp các tình huống cụ thể khác nhau.
- Bước 2: Lựa chọn vai - giáo viên có thể phân vai phù hợp với từng học sinh hoặc để học sinh tự nhận các vai trong vở kịch. Các học sinh khác còn lại đóng vai khán giả quan sát. Người quan sát cần phải chú ý xem diễn viên nhập vai như thế nào, tự đặt mình vào diễn và hình dung về tính phù hợp với thực tế của các diễn viên và cách giải quyết vấn đề, suy nghĩ xem có cách nào khác giải quyết vấn đề không.
- Bước 3: theo các vai trình diễn. Nếu thấy ý đồ của mình đã được thực hiện thì giáo viêncó thể cho ngừng diễn. Sau đó hướng dẫn học sinh thảo luận về các cách giải quyết vấn đề của vai diễn và có đánh gia vở kịch.
- Bước 4: Có th yêu cầu các diễn viên khác trình diễn vở kịch theo cách khác, với các cách giải quyết vấn đề khác.
- Bước 5: Hướng dẫn học sinh trao đổi kinh nghiệm và rút ra các kết luận cần thiết về các vấn đề của vở kịch nêu lên.
Phương pháp này có nhiều ưu điểm trong việc nêu nên các vấn đề của môi trường dễ bị tổn thương (sử dụng vốn đất, khai thác tài nguyên rừng, bảo vệ đa dạng sinh học...) Chúng giúp cho học sinh có định hướng tích cực về hiểu biết, thái độ và hành vi môi trường.
4. Quan sát, phỏng vấn.
Là phương pháp thường dùng, có mục đích thu nhập các thông tin về vấn đề nào đó. hoạt động cơ bản là quan sát và phỏng vấn.
Để tiến hành phương pháp này, việc quan sát cần phải có định hướng vào những vấn đề cụ thể của MT (chặt phá cây, bụi, tiếng ồn, các bãi đổ rác công cộng, nước hồ bị nhiễm bẩn...) trong khi quan sát cần phải chú ý nhiều hơn đến những dẫu hiệu nổi bật bên ngoài để từ đó đi sâu tìm tòi, khám phá. Quan sát phải có ghi chép chính xác địa điểm, thời gian, các tình trạng sự vật vào thời điểm tiến hành quan sát.
Phỏng vấn là giai đoạn tiếp theo của việc quan sát được thực hiện với cha mẹ, nhân dân địa phương, cán bộ khoa học.
Trong phỏng vấn, nội dung và cách đặt câu hỏi cần phải rõ ràng, cụ thể và thể hiện sự tôn trọng cao, lắng nghe cặn kẽ ý kiến của người được hỏi. Trong nhiều trường hợp cần phải hỏi một cách gián tiếp, hoặc nêu ý kiến ngược để lấy được ý kiến khách quan, cần có cách phòng tránh người được hỏi không phản ánh chính xác sự việc.
Trong quan sát - phỏng vấn, luôn thường trực câu hỏi: cái gì? ở đâu như thế nào? như vậy có hợp ý vê MT không? có thể giải quyết bằng cách nào?
Tuỳ theo mục tiêu đạt được mà quan sát - phỏng vấn có thể diễn ra theo cách khác. Trong trường hợp chỉ cần những thông tin có tính tái hiện hay không có tác động đến lợi ích của người phỏng vấn, thì không nhất thiết phải luôn đặt câu hỏi như vậy.
Trong nhiều trường hợp quan sát - phỏng vấn mang nặng tính kỹ thuật nhiều hơnlà một phương pháp độc lập. Chúng được sử dụng trong một phương pháp nhất định để nghiên cứu một vấn đề MT nào đó. Chẳng hạn sử dụng quan sát, phỏng vấn trong nghiên cứu nhu cầu của địa phương.
5. Tranh biện.
- Chia toàn thể số người tham gia thành hai bên. Mỗi bên cử một nhóm từ 3 đến 5 người làm đại diện. Ví dụ. Nhóm A và nhóm B. Số người giữa hai nhóm là bằng nhau. Cuộc tranh biện sẽ diễn ra giữa hai nhóm này. Còn còn lại làm cử toạ gồm các cổ động viên cho nhóm mình. Cần một trọng tài công bằng.
- Người điều khiển ra một ý kiến (dưới dạng một mệnh đề), viết hẳn lên bảng, ví dụ: "Không càn tiết kiệm năng lượng, vì con người còn có rất nhiều nguồn năng lượng thay thế khác".
Bốc thăm để phân công một trong hai nhóm gọi là "nhóm ủng hộ" (bảo vệ ý kiến trên), còn nhóm kia là "nhóm chống" (phản bác ý kiến trên). Mỗi nhóm có 10 phút hội ý để thống nhất đưa ra các lý lẽ chính của nhóm mình (mỗi người trong nhóm chịu trách nhiệm biện hộ cho một lý lẽ).
Phần tranh biện: Nhóm "ủng hộ" cử người thứ nhất đưa ra lý lẽ thứ nhất. Nhóm "chống" cử người thứ nhất của mình phản bác lại ý kiến của nhóm kia, đồng thời đưa ra lý lẽ riêng của nhóm mình. Lần lượt như vậy đối với người thứ hai, thứ ba.. cho đến hết.
- Vai trò trọng tài: Giữ cho cuộc tranh biện xảy ra đúng luật, Vai trò cử toạ: quan sát và bình chọn đội nào có lý lẽ vững vàng và có sức thuyết phục. Nguy cơ xin báo trước: có một nhóm nào cố tình "cướp diễn đàn" một cách thiếu lịch sự, hoặc cử toạ nhảy lên diễn đàn để ... cải !
6. Thuyết trình.
Là phương pháp, trong đó có học sinh tự thu nhập tư liệu qua báo chí và các phương tiện truyền thông khác, xây dựng thành một báo cáo và trình bày trước tập thể(lớp hay nhóm người có chung mục đích, cùng có quan tâm đến vấn đề).
Đây là phương pháp dành cho học sinh các lớp lớn, thể hiệ sự vận dụng tổng hợp các kỹ thuật ở nhiều phương pháp khác (khám phá, điều tra, thực địa, dự án, quan sát - phỏng vấn). Sử dụng được phương pháp này, nghĩa là học sinh đã đặt mình vào vị trí của người vừa có hành động tích cực đối với môi trường, vừa thông tin, lý giải và lôi quấn mọi người quân tâm đến môi trường.
7. Tham quan, cắm trại, trò chơi
Rất thuận lợi đểphối hợp nhiều hoạt động GDMT có quan hệ liên kết với nhau. Chỉ nên chọn tối đa hai đến ba chủ đề để thiết kế toàn bộ chương trình hoạt động. Như vậy, có thể hình dung chương trình cho một ngày tham quan, hoặc cho ba ngày cắm trại, hoặc cho bốn giờ trò chơi.. sẽ là tập hợp các hoạt động (còn gọi là các môđun chương trình).
Mỗi hoạt động (bằng một môđun chương trình) nên soạn thảo mẫu. Kiểu 2 (xem mục IX) thành từng tờ rời được đánh số thứ tự để ghi nhớ. Sau đó, chương trình diễn ra đến đâu, thì rút tờ rơi ra để dùng. Có thể phôtocopy thành nhiểu bản để phát cho những người cùng phối hợp.
Có nhiều trò chơi học tập có nội dung GDMT phù hợp với từng cấp học.
8. Lập dự án.
Là phương pháp mà trong đó cánhan hay nhóm HS thử thiết lập một dự án có nội dung MT và thực hiện nó. Phương pháp này tạo cho học sinh một thói quen đặt mình vào vị trí của những người luôn quan tâm và có hành động hợp lý với MT, mang lại sự thay đổi trong MT ở địa phương hay trường học. Ví dụ: xây dựng và thực hiện một dự án làm sạch nước thải sinh hoạt của một gia đình nông thôn.
5.Mô hình một hoạt động GDMT.
Để thiết kế một hoạt động GDMT cần xác định rõ 4 yếu tố cơ bản:
* Mục tiêu: hoạt động này được thiết kế nhằm giúp học sinh:
* Thực hiện nhiệm vụ: hoạt động này được thực hiện theo trình tự sau:
1. Học sinh nghe giáo viên
a. Nêu mục đích và mô tả toàn bộ hoạt động sẽ diễn ra.
b. Giao nhiệm vụ cụ thể (cho cá nhân hoặc nhóm)
c. Hướng dẫn cách thực hiện
2. Học sinh thực hiện nhiệm vụ từng bước
3. Học sinh kiểm tra và điều chỉnh liên tục trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ.
4. Học sinh tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ.
* Các sản phẩm đạt được:
1. Học sinh đối chiếu công việc với nhiệm vụ được giao lúc đầu
2. Học sinh trình bày kết quả công việc cho toàn nhóm nghe (hoặc đại diện nhóm trình bày kết quả trước lớp)
* Đánh giá:
1. Học sinh tự xem xét lại quá trình thực hiện có đúng quy trình hay không
2. Học sinh tự đánh giá chất lượng của kết quả đạt đợc.
3. Học sinh tự phát hiện những điều mới thu hoạch được sau hoạt động (kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm...) xem có gì thay đổi so với trước khi thực hiện hoạt động.
4. các học sinh khác, nhóm khác đánh giá.
5. Giáo viên giúp học sinh tổng kết chung.
6. Hai kiểu triển khai GDMT
1. Kiểu 1: GDMT thông qua chương trình giảng dạy của môn học trong nhà trường.
Cơ hội GDMT trong chương trình dạy học ở nhà trường thể hiện ở chỗ trong chương trình có chứa đựng những nội dung của GDMT dưới hai dạng chủ yếu:
- Dạng 1: Nội dung chủ yếu của bài học, hay một phần môn học có sự trùng hợp với nội dung GDMT.
- Dạng 2: Một số nội dung của bài học hay một số phần nhất định của môn học, có liên quan trực tiếp với nội dung GDMT
Ngoài ra, ở một số phần nội dung của môn học, bài học khác, các ví dụ, bài tập, bài làm... được xem như là một dạng vật liệu dùng để khai thác các vấn đề môi trường.
Quá trình khai thác các cơ hội GDMT cần phải đảm bảo 3 nguyên tắc cơ bản,
- Không làm biến tính đặc trưng môn học, không biến bàihọc của bộ môn thành bài GDMT.
- Khai thác nội dung GDMT có chọn lọc,có tính tập trung vào những chương mục nhất định.
- Phát huy cao độ các hoạt động tích cực nhận thức của học sinh và các kinh nghiệm thực tế các em đã có, vận dụng tối đa mọi khả năng để có học sinh tiếp xúc trực tiếp với môi trường.
2. Kiểu 2: GDMT được triển khai như một hoạt động độc lập
Về cơ bản cách tiến hành một hoạt động độc lập, về GDMT hoàn toàn tương tự như ở mục IV.
7. Một số hình thức phổ biến tổ chức các hoạt động GDMT
a. Hoạt động ở trên lớp:
Thông qua môn học trong chính khoá, có các biện pháp sau:
- Phân tích những vấn đề môi trường ở trong trường học.
- Khai thác thực trạng môi trờng đất nước,làm nguyên liệu để xây dựng bài học GDMT.
- Xây dựng bài tập xuất phát từ kiến thức môn học, nhưng gắn liền với thực tế địa phương.
- Sử dụng các phương tiện dạy học làm nguồn tri thức được "vật chấthoá" như làm điểm tựa, cơ sở để phân tích, tìm tòi, khám phá các kiến thức cần thiết về môi trường.
- Sử dụng các tài liệu tham khoả (các bài báo, các đoạn trích trong sách phỏ biến khoa học, các tư liệu, số liệu mới điều tra, công bố các ảnh chụp mới nhất...) để làm rõ thêm các vấn đề môi trường.
- Thực hiện các tiết học có nội dung gần gũi với môi trường ở ngay chính trong một địa điểm thích hợp của môi trường như sân trường,vườn trường, đồng ruộng, điểm dân cư tập trung...
b. Hoạt động ở ngoài lớp.
- Báo cáo chuyên đề về bảo vệ môi trường do các nhà khoa học, các kỹ thuật viên hay giáo viên chuyên về môi trờng trình bày.
- Thực địa tìm hiểu BVMT ở địa phương.
- Tham gia tuyên truyền, vận động thựchiện BVMT (chiến dịch truyền thông)
- Tham gia các chiến dịch xanh hoá trong nhà trường: thực hiện việc trồng cây, quản lý va phân loại rác thải.
- Tham quan, cắm trại, trò chơi.
- Theo dõi diễn biến môi trường tại địa phương (xử lý nước thải, rác thải, vệ sinh công cộng, bảo vệ thắng cảnh...)
- Tổ chức các câu lạc bộ, thành lập cácnhóm hoạt động môi trường.
- Tổ chức các cuộc thi kể chuyện, ngâm thơ, hát, làm bích báo có nội dung giáo dục môi trừng, thi các bài tìm hiểu thiên nhiên, môi trường.
- Tổ chức thi tái chế, tái sử dụng.
- Tổ chức triển lãm, biểu diễn văn nghệ
- Xây dựng dự án và thực hiện
- Hoạt động phối hợp với gia đình, cộng đồng và hội cha mẹ học sinh.
Các biện pháp bảo vệ môi trường
Chương 2.
I. Khái niệm về BVMT hiện nay
Vào khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XI, khi chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển mạnh, việc khai thác các nguồn tài nguyên tăng lên nhanh chóng làm cho nhiều khu rừng, nhiều phong cảnh đẹp bị triệt phá. Cũng từ đó người ta mới nảy sinh ra ý niệm bảo vệ thiên nhiên. ý niệm đó lúc đầu chỉ nhằm bảo vệ các phong cảnh, khu rừng đẹp. Từ đó người ta bắt đầu xây dựng các khu rừng cấm. Sự thành lập các khu rừng cấm là nhằm bảo vệ toàn vẹn các điều kiện tự nhiên một khu vực nhất định.
Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển kinh tế, việc khai thác các nguồn tài nguyên ngày càng tăng nên việc bảo vệ thiên nhiên bảng cách giữ gìn như vậy không thể phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã họi. Đó là chưa kể việc bảo vệ như vậy vẫn không thể tránh khỏi sự ô nhiễm môi trường. Ngày nay với số dân tăng lên rất nhanh, nhu cầu khai thác các nguồn tài nguyên không chỉ có ý nghĩa "gìn giữ" nữa, mà mang một nội dung hoàn toàn khác. Bảo vệ môi trường ngày nay có ý nghĩa là:
1. Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và bảo vệ sự cân bằng sinh thái.
Sử dụng hợp lý có ý nghĩa là sử dụng tàinguyên một cách tiết kiệm, không lãng phí và có hiệu quả cao. Do đó việc khai thác phải có kế hoạch, đảm bảo được nhu cầu trước mắt và cả tương lai. Việc khai thác phải được giới hạn ở một mức độ nào đó, bằng những biện pháp nào đó để đảm bảo sao cho các tài nguyên không bị cạn kiệt, sự cân bằng sinh thái không bị phá huỷ và nguồn tài nguyên vẫn giữ được khả năng phục hồi bình thường.
Sử dụng hợp lý còn là sử dụng theo một phương án tối ưu, dựa trên cơ sở các quy luật phát triển của môi trường để có thể khai thác sử dụng các tài nguêyn có lợi nhất và môi trường cũng tốt hơn lên.
2. Cải tạo phục hồi các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt.
Đốii với các lãnh thổ đã khai thác đến mức cạn kiệt, nếu không phục hồi sẽ bị phá huỷ hoàn toàn. Muốn phục hồi phải có biện pháp cải tạo. Mục đích của cải tạo là để phục hồi và nâng cao chất lượng của môi trường. Ngày nay, nhiệm vụ cải tạo để phục hồi các cảnh quan trở thành nhiệm vụ rất quan trọng, bởi vì phần lớn các cảnh quan tự nhiên đã bị con người khai thác từ lâu. Việc trồng rừng phủ xanh đồi núi trọc ở nước ta thực chất là một việc cải tạo để phục hồi rừng đã bị cạn kiệt.
3. Chống ô nhiễm và suy thoái môi trường:
Sự ô nhiễm môi trường (bao gồm không khí, nước và đất) do các chất thải công nghiệp và sinh hoạt gây ra đang ngày càng trầm trọng. Sự ô nhiễm nặng sẽ làm cho môi trường bị suy thoái, bị phá huỷ đồng thời gây tác hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của con người và sự phát triển của mọi sinh vật. Việc chống ô nhiễm môi trường đòi hỏi phải sử dụng các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất để ngăn chặn việc thải các chất bẩn hoặc xử lý các chất thải trước khi đổ vào môi trường.
4. Bảo vệ tính đa dạng sinh học và các vốn gien di truyền quý hiếm.
Sinh thái học trên trái đất rất phong phú và đa dạng, nhất là ở các vùng nhiệt đới và xích đạo ẩm ướt. Các loài động vật và thực vật hoang dại chính là nguồn cung cấp giống cây trồng và vật nuôi cho loài người.
Vốn gien di truyền của chúng đã góp phần cho sản xuất nông nghiệp một nguồn giống quý giá để sản xuất ra lương thực thực phẩm, nguồn thuốc chữa bệnh và nhiều mặt lợi ích khác. Các sinh vật còn là thành phần quan trọng của môi trường. Sự tồn tại của chúng sẽ làm cho sự cân bằng sinh thái của môi trường được ổn định. Việc bảo vệ sự đa dạng của sinh vật đòi hỏi phải bảo vệ các điểu kiện, các nơi sinh sống và phát triển của mọi loài khác nhau.
II. Các biện pháp bảo vệ môi trường.
Để bảo vệ môi trường được có kết quả, đòi hỏi phải có một hệ thống các hoạt động phối hợp liên hoàn với nhau theo các ngành, các lãnh thổ ở các cấp khác nhau thuộc công tác quản lý của Nhà nước, công tác ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và công tác giáo dục nhằm mục tiêu BVMT. Tuy nhiên, có thể nêu một số biện pháp chủ yếu sau đây:
1. Xây dựng quy hoạch sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Đây là biện pháp quan trọng đầu tiên đối với quốc gia cũng như mỗi địa phương trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội.. Bởi vì, muốn sản xuất phát triển phải tăng cường khai thác các tài nguyên.
Nhưng nếu khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên không theo một quy hoạch rõ ràng, không theo một biện pháp bảo vệ và cải tạo thì nguồn tài nguyên sẽ bị cạn kiệt, môi trường sẽ bị suy thoái và sản xuất không thể phát triển lâu bền được.
Do vậy, muốn sự phát triển ổn định và lâu dài phải có quy hoạch khai thác sử dụng hợp lý. Muốn quy hoạch có cơ sở chắc chắn phải tiến hành điều tra, đánh giá nguồn tài nguyên, xác định các mục tiêu của quy hoạch rồi mới đi đến lập quy hoạch cho từng ngành.
ở nước ta, từ ngày bắt đầu xây dựng và phát triển kinh tế. Chính phủ đã rất chú ý đến vấn đề này. Việc xây dựng "Chiến lược quốc gia về bảo vệ tài nguyên và môi trường" năm 1985 và "kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền" năm 1990 chính là nhằm mục đích thực hiện các biện pháp nói trên.
2. Nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các ngành sản xuất để chống hiện tượng gây ô nhiễm môi trường.
Những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật ngày nay có khả năng ngăn chặn các hiện tượng gây ô nhiễm không khí, các nguồn nước và được thực hiện theo nhiều con đường khác nhau, như:
- Nghiên cứu và lắp đặt các máy móc khí và lọc nước trong các xí nghiệp sản xuất để lọc bụi, các chất hoà tan, khở các chất độc không cho chúng thải vào môi trường.
- Nghiên cứu các công nghệ sản xuất không chất thải, công nghệ sử dụng nươc theo chu trình kín, công nghệ sử dụng ít nước và tiến tới chu trình sản xuất "khô" không cần có nước.
- Nghiên cứu thay thế các động cơ đốt trong bằng các động cơ điện. Nghiên cứu sử dụng các nguồn năng lượng không gây ô nhiễm như năng lượng mặt trời, năng lượng nước, gió, địa nhiệt v.v.. Đặc biệt, đối với các phương tiện giao thông như ô tô, máy bay tầu hoả rất cần các động cơ không gây ô nhiễm.
3. Luật pháp
Đối với từng quốc gia mọi biện pháp về BVMT cuối cùng phải được thể chế hoá bằng các quy định, các chính sách luật lệ do Nhà nước ban hành. ở nước ta từ trước đến nay đã có nhiều quy định, nhiều chính sách về môi trường, và hiện nay Luật bảo vệ môi trường sẽ định rõ những điều không được phép, những điều phải thực hiện đối với mọi công dân cũng như tổ chức xã hội trong việc khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên, trong hoạt động sản xuất và đời sống nhằm giữ cho môi trường không bị cạn kiệt và ô nhiễm, bảo đảm cho sự phát triển của đất nước lâu bền.
Đối với quốc tâm hiện tượng ô nhiễm môi trường đã mang tính toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia có trách nhiệm bảo vệ chung. Để giải quyết nhiệm vụ đó, cần có sự thống nhất và hợp tác giữa các nước trên cơ sở các luật, các công ước quốc tế.
Ví dụ công ước về sự thay đổi khí hậu được ký kết tại hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường tại Rioo đơ Gianêrô tháng 6/1992. Các nước kí vào công ước cam kết sẽ giảm bớt và ngăn ngừa việc thải các khí nhân tạo gây hiệu ứng nhà kính.
Công ước viên về việc bảo vệ tầng ozon năm 1985 và công ước bảo vệ tính đa dạng sinh học tại Rioo - 92 và nhiều công ước khác đều là những văn bản mang tính luật pháp quốc tế.
4. Xây dựng các vùng cấm, các khu bảo tồn tự nhiên.
Các rừng cấm các khu bảo tồn tự nhiên là những lãnh thổ đặc trưng cho các hệ sinh thái, các cảnh quan khác nhau nhằm bảo tồn các mẫu chuẩn thiên nhiên cho đời sau: giữ gìn phần cơ bản vốn gien đi di truyền, gìn giữ sinh cảnh của các động vật quý hiếm, coi như biện pháp đầu tiên bảo vệ là nơi để nghiên cứu, tìm hiểu các quy luật phát triển và biến đổi của tự nhiên. Những kết quả nghiên cứu đó sẽ giúp các nhà khoa học xây dựng quy hoạch cải tạo, bảo vệ cũng như dự đoán các biến đổi của tự nhiên đối với các cảnh quan tương tự.
5. Giáo dục môi trường
Là biện pháp có vai tro hết sức to lớn, vì nó giúp cho mọi người nói chung và đặc biệt cho thế hệ trẻ ở các trường học, hiểu biết tình trạng môi trường và các biện pháp VBMT. Sự hiểu biết của mọi tầng lớp nhân dân về môi trường là nền tảng cơ bản để thực hiện nhiệm vụ BVMT có kết quả.
Chương III:
Phương pháp giáo dục môi trường
thông qua môn hoá học ở trường phổ thông.
I. Phương pháp đưa GDMT vào môn hoá học ở trường phổ thông.
1. Xác định hệ thống kiến thức GDMT trong môn hoá học.
ở nhiều nước trên thế giới, việc GDMT đã được đưa vào trường học từ vài chục năm nay. ở nước ta việc đưa nội dung GDMT vào chương trình các môn học được thực hiện qua quá trình cải cách giáo dục.
Cũng tương tự như nhiều nước khác, nội dung GDMT ở nước ta tập trung chủ yếu vào các môn học có liên quan nhiều đến môi trường như môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học, các môn địa lý, sinh học, hoá học, và kỹ thụât nông nghiệp ở trường THCS và THPT.
Môn hoá học ở trường phổ thông có nhiều điều kiện thuận lợi để GDMT cho học sinh... Vạy các kiến thức GDMT được hình thành như thế nào?
Như đã trình bàu ở trên, nội dung GDMT gắn liền với nội dung môn học. Vì thế kiến thức GDMT là những kiến thức môn học kết hợp chặt chẽ với kiến thức bảo vệ môi trường được khai thác ở chính bài học trong SGK.
Căn cứ vào nội dung của các khái niệm cơ bản về môi trường, căn cứ vào nội dung kiến thức có trong SGK chúng ta có thể lập được bảng liệt kê khả năng khai thác nội dung GDMT trong chương trình SGK phổ thông.
Cấp học: Trung học cơ sở Bộ môn: hoá học Lớp: 8,9
Cấp học: Trung học cơ sở Bộ môn: hoá học Lớp: 8,9
Cấp học: Trung học cơ sở Bộ môn: hoá học Lớp: 8,9
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Ghi chú: Bài học khai thác kiến thức GDMT được ghi theo số thứ tự tiết học theo phân phối chương trình môn hoá học hiện hành.
2. Phương thức ưa GDMT vào môn hoá học ở trường phổ thông.
Với đặc điểm của hệ thống kiến thức GDMT như vậy, việc đưa kiến thức GDMT vào môn học thuận lợi nhất vẫn là hình thức tích hợp và lồng ghép.
Tích hợp là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức hoá học.Với kiến thức DGMTlàm cho chúng nhào quyên vào nhau tạo thành một thể thống nhất.
Lồng ghép là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặt cấu trú để có thể đưa vào học một mục, một đoạn, một số câu có nội dung GDMT.
Tuy nhiên với đặc thù của môn hoá học việc GDMT thuận lợi nhất là việc tận dung phương pháp môn đun để thiét kế các mô đun GDMT khai thác từ các kiến thức hoá học có trong chương trình SGK. Vậy phương pháp mô đun là gì ?
II. Môđun - cơ sở lý luận của phương pháp môđun .
1. Thuật ngữ Môđun
+ Môđun là một trong nhiều bộ phận hoặc đơn vị đã được tiêu chuẩn hoá và chế tạo riêng ré để ghép lại với nhau tạo thành một kiến trúc tổng thể.
+ Trong khai niệm giáo dục: Môđun là mọt trong nhiều đơn vị hoặc bài độc lập tạo thành một giáo trình, là đơn vị giáo trình.
Trong thuật ngữ của khoa học giáo dục hiện đại, người ta dùng Môđun chỉ một đơn vị kiến thức và kỹ thuật được xác định với khối lượng nhất định.
Thuật ngữ Môđun thường là chỉ dùng trong phạm trù định lượng về kiến trúc và kỹ năng ( tức là trong khuôn khổ của dạy và học).
Môđun dạy học là gì?
+ Môđun dạy học là đơn vị chương trình dạy học tương đối độc lập, được cấu trúc một cách đặc biệt, nhằm phục vụ cho người và chứa đựng của mục tiêu dạy học tương đối độc lập, được cấu tríc một cách đặc biệt, nhằm phục vụ cho người học và chứa đựng cả mục tiêu dạy học, nội dung bài học, phương pháp dạy học và và hệ thống công cụ đánh giá kết quả lĩnh hội, gắn bó chặt chẽ với nhau thành một thể hoàn chỉnh (toàn vẹn).
+ Những đặc trưng cơ bản của một Môđun dạy học:
- Là đơn vị học trình độc lập, là tập hợp những tình huống dạy học, được tổ cức xoay quanh một vấn đề của môn học. Nó là tài liệu tự học có hướng dẫn.
- Môđun dạy học được định hướng bởi hệ thống mục tiêu dạy học được xác định cụ thể rõ ràng và có thể đo lường được.
- Môđun dạy học được định hướng bởi hệ thống mục tiêu dạy học được xác định cụ thể rõ ràng và có thể đo lương được.
- Môđun dạy học được chứa đựng test (test điều kiện, test trung gian, test kết thúc... ) Nhờ cách này mà người đọc có thể tự kiểm tra ( liên hệ ngược ngoài).
- Tiếp cận này cho phép người học tiến lên theo nhịp độ thích hợp với khả năng của mình. Người học có thể lĩnh hội bằng nhiều con đường khác nhau, thực hiện bẳng nhiều cách khác nhau để chiếm lĩnh cùng một nội dung; người đọc tiến lên theo nhịp độ riêng.
Môđun dạy học tương đối độc lập nhưng nó lại liên quan chặt chẽ với cái đi trước vào cái sau nó về hoạt động của người học; người học học xong Môđun trước mới được phép học Môđun sau. Với cách tiếp cận này, người học có khả năng ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau và nó thích hợp với hệ đánh giá theo tín chỉ, rất mềm dẻo.
3. Môđun GDMT
Một Môđun DGMT ngoài mang những đặc điểm của Môđun dạy học ở trên, nó còn mang những nét riêng của nó.
- Một Môđun GDMT là một đơn vị mang tính độc lập tương đối, thiết kế chi tiết các việc làm GDMT nhằm khai thác kiến thức (khái niệm) vốn có của sách giáo khoa, để đạt ược mục tiêu GDMT đề ra.
- Một Môđun GDMT gồm có 4 đặc trưng cơ bản:
+ Nêu rõ khái niệm sẵn có trong SGK ( với tình huống cụ thể có liên quan).
+ Nêu rõ mục tiêu GDMT, khai thác từ khái niệm trên.
+ Nêu rõ từng việc làm của thầy và trò sao cho dễ kiểm tra và đánh giá (liên hệ ngược)
+ Có tính mềm dẻo, thích ứng với nhiều tình huống khác nhau, nhưng đều đạt mục tiêu GDMT.
Có hai loại hình tiếp cận: Mô đun khai thác phần GDMT từ SGK hiện hành và các việc làm ngoài giờ lên lớp, trong các hoạt động xã hội (môđun ngoại khoá).
Để xây dựng được các môđun GDMT, cần phải hiểu được các khái niệm cơ bản về MT, về nội dung GDMT có thể khai thác từ các khái niệm đó. Sau đó, vận dụng các PPDH GDMT đã đưa ra ở trên, kết hợp với tình hình thực tế ở địa phương để thiết kế môđun GDMT phù hợp.
III. Nội dung GDMT khai thác từ các khái niệm cơ bản về MT để GDMT cho học sinh THPT.
Nội dung GDMT thể hiện ở các việc làm được thiết kế trên cơ sở một số khái niệm cơ bản sẵn có trong SGK, nhằm làm rõ giá trị MT đối với con người, sao cho, rút cục, các hoạt động GDMT phải hình thành được ở HS ý thức vì MT và kỹ năng hành động thực tiễn để giải quyết các vấn đề MT.
Một số khái
Khoa khoa học tự nhiên
Th.S Ngô Xuân Lương
Thanh Hóa, năm 2006
Giáo dục môi trường
và những vấn đề bảo vệ môi trường
Phần II :
Giáo dục môi trường
Chương I
1. Quan niệm về giáo dục môi trường
Có nhiều định nghĩa GDMT [12]. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của việc GDMT thông qua các môn học ở nhà trường có thể hiểu GDMT là một quá trình tạo dựng cho con người những nhận thức và mối quan tâm về môi trường và các vấn để môi trường.
GDMT gắn liền với việc học kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ và lòng nhiệt tình để hoạt động một cách độc lập hoặc phối hợp nhằm tìm ra giải pháp cho những vấn đề môi trường và ngăn chặn những vấn đề mới có thể xảy ra trong tương lai.
2. Phạm vi, chính sách GDMT và chiến lược thực hiện GDMT trong môi trường phổ thông Việt Nam.
a. Phạm vi GDMT ở Việt nam
- Tất cả mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, văn hoá, kinh tế, khoa học kỹ thuật, pháp luật, chính trị.
- Tất cả mọi hành vi phần trong xã hội: công nhân, nông dân, tri thức, lự lượng vũ trang, học sinh, sinh viên, viên chứ, tiểu thương.
- Tất cả mọi lứa tuổi, giới tính, dân tộc, mọi trình độ văn hoá: tất cả các tổ chức xã hội; tất cả các vung lãnh thổ đất nước.
- ý thức của giai đoạn đầu tiên là tập trung vào học sinh ở phổ thông. Vì GDMT cho học sinh ở phổ thông không những có kết quả trước mắt mà còn đạt được những lợi ích lâu dài.
* Xét về khía cạnh này, thế hệ trẻ rõ ràng là bộ phận phù hợp nhất xã hội để tác động, vì:
+ Họ vẫn ở trong quá trình phát triển thái độ, nhận thức và hành vi
+ Họ là thành viên của nhóm dân cư đông nhất.
+ Sự thành đạt trong tương lai của họ phụ thuộc nhiều hơn vào phát triển bền vững hiện nay hơn bất kỳ nhóm nào khác.
* Và trường học là nơi hội tụ nhiều điều kiện nhất cho việc tác động vào ý thức môi trờng của thế hệ trẻ. Bởi vì trong nhà trường quá trình giáo dục đợc tiến hành theo chương trình và kế hoạch chặt chẽ, với các PPGD khoa học cho phép tác động đến từng cá thể học sinh. Điều đó đảm bảo rằng các quyết định có ảnh hưởng tới môi trường được chỉ dẫn đầy đủ bởi sự hiểu biết về kinh nghiệm.
b. Chính sách GDMT
* Mục tiêu của GDMT; GDMT ở nhà trường làm cho HS và GV đạt được:
- Có ý thức thường xuyên và luôn luôn nhạy cảm đối với mọi khía cạnh của nhà trường và những vấn đề liên quan đến môi trường.
- Thu nhận được những thông tin và kiến thức cơ bản về môi trường và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các hoạt động của con người và môi trường, về quan hệ giữa con người và môi trường.
- Phát triển những kỹ năng bảovệ và gìn giữ môi trường, kỹ năng dự đoán phòng tránh và giải quyết những vấn đề môi trường nảy sinh.
- Tham gia tích cực vào những hoạt động khôi phục, bảo vệ và gìn giữ môi trường.
- Có ý thức về tầm quan trọng của môi trường trong sạch đối với sức khoẻ con người, về chất lượng cuộc sống của chúng ta, phát triển thái độ tích cực đối với môi trờng.
* GDMT được thựchiện bằng các biện pháp chủ yếu sau:
- Đưa GDMT vào tất cả các cấp bậc học: mầm non; tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và các cấp bậc học khác.
- Kết hợp GDMT vào tất cả các môn ở tất cả các cấp, bậc học.
- Thực hiện GDMT bằng phương pháp hiện đại đặt trọng tâm ở người học và cách tiếp cận học bằng việc làm.
- Cung cấp kiến thức về môi trường và rèn luyện kỹ năng bảo vệ môi trường. Các trường tổ chức và tích cực tham gia cùng với cộng đồng cách hoạt động bảo vệ môi trường trong và ngoài nhà trường.
- Luôn chú ý tạo ra thái độ đúng và tinh thần trách nhiệm cao đối với việc bảo vệ môi trường.
- GDMT không chỉ cung cấp hiểu biết về môi trường mà còn được thực hiện trong môi trường, với thái độ và tình cảm vì môi trường.
- Trong GDMT hiện nay dành ưu tiên cho đào tạo GV và các bận tiểu học, trung học.
2. Mục đích của GDMT
a. GDMT trong nhà trường nhằm đạt đến mục đích cuối cùng là người học được trang bị.
- Một ý thức trách nhiệm sâu sắc với sự phát triển bền vững của trái đất.
- Một khả năng cảm thụ, đánh giá vẻ đẹp của nền tảng đạo lý môi trường.
b. GDMT mong hình thành điều gì học sinh .
+ Về kiến thức và hiểu biết: Các hoạt động GDMT sẽ được thiết kế và thực hiện nhằm giúp học sinh làm quen với các khái niệm: bảo vệ và bảo tồn; giảm tiêu thụ, tái sử dụng và tái chế; các chu trình khép kín; cái cần có và cái muốn có; Sự phụ thuộc lẫn nhau; Chi phí và lợi ích thu được; tăng trưởng và suy thoái; kiểm toán về tác động và sử dụng các nguồn cung cấp; Hình thành và duy trì quan hệ đối tác; Các kiểu liên kết: nguyên nhân- hậu quả, chuỗi - mạng; tư duy một cách toàn cầu và hành động một cách cục bộ.
Trong thực tiễn sư phạm; mỗi ngôi trường cụ thể thuộc về một vùng địa lý cụ thể, nằm trong một bối cảnh văn hoá cụ thể, sẽ có một nhu cầu GDMT cụ thể.
Điều này quyết định việc lựa chọn những nội dung và phương thức thực hiện phù hợp. Việc xác định và lựa chọn đúng những vấn đề môi trường có liên quan trựctiếp học sinh sẽ giúp thu hút các em tham gia một cách tự nhiên vào quá trình giải quyết các vấn đề bằng một thái độ tự nguyện và bằng những hành động có trách nhiệm.
+ Về thái độ và hành vi: các hoạt động GDMT sẽ được thiết kế và thực hiện nhằm giúp HS biết được giá trị của môi trường và vai trò cá nhân của mình trong việc giữ gìn môi trường cho hôm nay và ngày mai. Điều này khích lệ một thái độ và hành vi tích cực đối với môi trường, có thể nhìn thấy qua các biểuhiện dưới đây:
- Biết đánh giá, quan tâm và lo lắng đến môi trường và đời sống của các sinh vật.
- Sự đọc lập trong suy nghĩ các vấn đề về môi trường
- Tôn trọng niềm tin và quan điểm của người khác
- Khoan dung và cởi mở.
- Biết tôn trọng các luận chứng và luận cứ đúng đắn.
- Có ý thức phê phán và thay đổi những thái độ không đúng đắn về môi trường.
- Có mong muốn tham gia vào việc giải quyết các vấn đề môi trường, các hoạt động cải thiện môi trường và truyền bá các ý tưởng tốt đẹp trong cộng đồng.
3. Mô hình của việc dạy và học trong GDMT
Việc dạy và học trong GDMT đang diễn ra trên toàn cầu theo mô hình sau. GDMT trong nhà trưởng phổ thông cần được thực hiện theo nguyên tắc vì môi trường- về môi trường và trong môi trường.
Giáo dục vì môi trường hướng tới mối quan tâm thực sự đối với chất lượng môi trường sống và đề cao trách nhiệm của con người phải chăm sóc, giữ gìn và bảo vệ môi trường tự nhiên và góp phần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh.
Hình thành đạo đức môi trường với những quan niệm, lối sống và thói quen tiêu thụ thân thiện với môi trường.
Giáo dục về môi trường cung cấp những kiến thức, hiểu biết về môi trường, các mối quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa con ngời và giới tự nhiên trên cơ sở khai thác triệt để các tri thức về môi trường hiện có ở các môn học trong trường phổ thông.
Giáo dục trong môi trường sử dụng môi trường như là một nguồn lực cho các hoạt động dạy - học và hoạt động ngoại khoá ngoài nhà trường.
Môi trường sống ở các địa phương, ở cộng đồng là phòng thí nghiệm, và bảo tàng tự nhiên, phong phú, đa dạng cung cấp các nguồn thông tin, phương tiện để giáo dục môi trường.
4. Các PPDH của GDMT - nội dung của phương pháp và kỹ thuật thực hiện.
a. Nghiên cứu (tìm tòi, khám phá hay giải quyết vấn đề )
Đây là phương pháp hướng các em làm quen với quá trình tìm tòi, sáng tạo dưới dạng các bài tập.
Có nhiều dạng bài tập khác nhau đối với học sinh. bài tập giải quyết nhanh ở lớp; bài tập đòi hỏi có thời gian dài (trong 1 tiết học, 1 tuần hay 1 tháng ở nhà).
Các bài tập ở nhà phải được tính toán sao cho các tài liệu liên quan mà học sinh sử dụng không chứa đựng những lời giải sẵn, trực tiếp cho các bài tập.
Phương pháp nghiên cứu (PPNV) được tiến hành theo các bước sau:
1. Đặt vấn đề.
2. Tìm các giả thuyết giải quyết vấn đề
3. Thu thập các số liệu thống kê và tài liệu liên quan, xử lý số liệu, tài liệu và xác minh các giải thuyết.
4. Kết luận.
1. Vận dụng các kết luận, đưa ra cam kết hành động.
2. Làm việc nhóm
Đây là PPDH có nhiều khả năng tốt trong GDMT vì nó đề cao sự hợp tác trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân.
Trong thảo luận nhóm, cần chú ý:
- Vai trò của nhóm trưởng cần phải được xác định rõ.
- Giáo viên phải chuẩn bị chu đáo nội dung (hệ thống câu hỏi) cũng như tiến trình.
- Nếu thấy học sinh thảo luận đi xa vấn đề thì cần phải uốn nắn ngay.
- Cần khuyến khích các em tranh luận
- Hình dung trước những ý kiến và thái độ của học sinh khi tổng kết, học sinh nào cũng thấy mình có phần đóng góp vào những ý kiến thảo luận của nhóm, lớp.
Phương pháp làm việc nhóm được tiến hành theo 4 bước: chuẩn bị, giao nhiệm vụ, tiến hành thảo luận, tổng kết (đại diện các nhóm trình bày kết quả).
3. Đóng vai
Đây là phưng pháp được đặc trưng bởi một hoạt động với các nhân vật giả định, mà trong đó các tình thế trong thực tiễn cuộc sống được thể hiện tức thời thành những hoạt động có kịch tính.
Trong vở kịch này, các vai khác nhau do chính học sinh đóng và trình diễn.
Các hành động kịch được xuất phát từ chính sự hiểu biết, óc tưởng tượng và trí sáng tạo của học sinh, không cần phải qua đợt tập dượt hay dàn dựng công phu, vì vậy đây là quá trình thông tin với đặc điểm cơ bản là trình diễn tức thời.
Phương pháp đóng vai được tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: tạo không khí để đóng vai. Việc đóng vai không phải bao giờ cũng được tất cả các học sinh chấp nhận, vì vậy bước này rất quan trọng, giáo viên cần cho học sinh nhận thức được rằng bất kỳ con ngời nào trong cuộc sống cũng có thể gặp các tình huống cụ thể khác nhau.
- Bước 2: Lựa chọn vai - giáo viên có thể phân vai phù hợp với từng học sinh hoặc để học sinh tự nhận các vai trong vở kịch. Các học sinh khác còn lại đóng vai khán giả quan sát. Người quan sát cần phải chú ý xem diễn viên nhập vai như thế nào, tự đặt mình vào diễn và hình dung về tính phù hợp với thực tế của các diễn viên và cách giải quyết vấn đề, suy nghĩ xem có cách nào khác giải quyết vấn đề không.
- Bước 3: theo các vai trình diễn. Nếu thấy ý đồ của mình đã được thực hiện thì giáo viêncó thể cho ngừng diễn. Sau đó hướng dẫn học sinh thảo luận về các cách giải quyết vấn đề của vai diễn và có đánh gia vở kịch.
- Bước 4: Có th yêu cầu các diễn viên khác trình diễn vở kịch theo cách khác, với các cách giải quyết vấn đề khác.
- Bước 5: Hướng dẫn học sinh trao đổi kinh nghiệm và rút ra các kết luận cần thiết về các vấn đề của vở kịch nêu lên.
Phương pháp này có nhiều ưu điểm trong việc nêu nên các vấn đề của môi trường dễ bị tổn thương (sử dụng vốn đất, khai thác tài nguyên rừng, bảo vệ đa dạng sinh học...) Chúng giúp cho học sinh có định hướng tích cực về hiểu biết, thái độ và hành vi môi trường.
4. Quan sát, phỏng vấn.
Là phương pháp thường dùng, có mục đích thu nhập các thông tin về vấn đề nào đó. hoạt động cơ bản là quan sát và phỏng vấn.
Để tiến hành phương pháp này, việc quan sát cần phải có định hướng vào những vấn đề cụ thể của MT (chặt phá cây, bụi, tiếng ồn, các bãi đổ rác công cộng, nước hồ bị nhiễm bẩn...) trong khi quan sát cần phải chú ý nhiều hơn đến những dẫu hiệu nổi bật bên ngoài để từ đó đi sâu tìm tòi, khám phá. Quan sát phải có ghi chép chính xác địa điểm, thời gian, các tình trạng sự vật vào thời điểm tiến hành quan sát.
Phỏng vấn là giai đoạn tiếp theo của việc quan sát được thực hiện với cha mẹ, nhân dân địa phương, cán bộ khoa học.
Trong phỏng vấn, nội dung và cách đặt câu hỏi cần phải rõ ràng, cụ thể và thể hiện sự tôn trọng cao, lắng nghe cặn kẽ ý kiến của người được hỏi. Trong nhiều trường hợp cần phải hỏi một cách gián tiếp, hoặc nêu ý kiến ngược để lấy được ý kiến khách quan, cần có cách phòng tránh người được hỏi không phản ánh chính xác sự việc.
Trong quan sát - phỏng vấn, luôn thường trực câu hỏi: cái gì? ở đâu như thế nào? như vậy có hợp ý vê MT không? có thể giải quyết bằng cách nào?
Tuỳ theo mục tiêu đạt được mà quan sát - phỏng vấn có thể diễn ra theo cách khác. Trong trường hợp chỉ cần những thông tin có tính tái hiện hay không có tác động đến lợi ích của người phỏng vấn, thì không nhất thiết phải luôn đặt câu hỏi như vậy.
Trong nhiều trường hợp quan sát - phỏng vấn mang nặng tính kỹ thuật nhiều hơnlà một phương pháp độc lập. Chúng được sử dụng trong một phương pháp nhất định để nghiên cứu một vấn đề MT nào đó. Chẳng hạn sử dụng quan sát, phỏng vấn trong nghiên cứu nhu cầu của địa phương.
5. Tranh biện.
- Chia toàn thể số người tham gia thành hai bên. Mỗi bên cử một nhóm từ 3 đến 5 người làm đại diện. Ví dụ. Nhóm A và nhóm B. Số người giữa hai nhóm là bằng nhau. Cuộc tranh biện sẽ diễn ra giữa hai nhóm này. Còn còn lại làm cử toạ gồm các cổ động viên cho nhóm mình. Cần một trọng tài công bằng.
- Người điều khiển ra một ý kiến (dưới dạng một mệnh đề), viết hẳn lên bảng, ví dụ: "Không càn tiết kiệm năng lượng, vì con người còn có rất nhiều nguồn năng lượng thay thế khác".
Bốc thăm để phân công một trong hai nhóm gọi là "nhóm ủng hộ" (bảo vệ ý kiến trên), còn nhóm kia là "nhóm chống" (phản bác ý kiến trên). Mỗi nhóm có 10 phút hội ý để thống nhất đưa ra các lý lẽ chính của nhóm mình (mỗi người trong nhóm chịu trách nhiệm biện hộ cho một lý lẽ).
Phần tranh biện: Nhóm "ủng hộ" cử người thứ nhất đưa ra lý lẽ thứ nhất. Nhóm "chống" cử người thứ nhất của mình phản bác lại ý kiến của nhóm kia, đồng thời đưa ra lý lẽ riêng của nhóm mình. Lần lượt như vậy đối với người thứ hai, thứ ba.. cho đến hết.
- Vai trò trọng tài: Giữ cho cuộc tranh biện xảy ra đúng luật, Vai trò cử toạ: quan sát và bình chọn đội nào có lý lẽ vững vàng và có sức thuyết phục. Nguy cơ xin báo trước: có một nhóm nào cố tình "cướp diễn đàn" một cách thiếu lịch sự, hoặc cử toạ nhảy lên diễn đàn để ... cải !
6. Thuyết trình.
Là phương pháp, trong đó có học sinh tự thu nhập tư liệu qua báo chí và các phương tiện truyền thông khác, xây dựng thành một báo cáo và trình bày trước tập thể(lớp hay nhóm người có chung mục đích, cùng có quan tâm đến vấn đề).
Đây là phương pháp dành cho học sinh các lớp lớn, thể hiệ sự vận dụng tổng hợp các kỹ thuật ở nhiều phương pháp khác (khám phá, điều tra, thực địa, dự án, quan sát - phỏng vấn). Sử dụng được phương pháp này, nghĩa là học sinh đã đặt mình vào vị trí của người vừa có hành động tích cực đối với môi trường, vừa thông tin, lý giải và lôi quấn mọi người quân tâm đến môi trường.
7. Tham quan, cắm trại, trò chơi
Rất thuận lợi đểphối hợp nhiều hoạt động GDMT có quan hệ liên kết với nhau. Chỉ nên chọn tối đa hai đến ba chủ đề để thiết kế toàn bộ chương trình hoạt động. Như vậy, có thể hình dung chương trình cho một ngày tham quan, hoặc cho ba ngày cắm trại, hoặc cho bốn giờ trò chơi.. sẽ là tập hợp các hoạt động (còn gọi là các môđun chương trình).
Mỗi hoạt động (bằng một môđun chương trình) nên soạn thảo mẫu. Kiểu 2 (xem mục IX) thành từng tờ rời được đánh số thứ tự để ghi nhớ. Sau đó, chương trình diễn ra đến đâu, thì rút tờ rơi ra để dùng. Có thể phôtocopy thành nhiểu bản để phát cho những người cùng phối hợp.
Có nhiều trò chơi học tập có nội dung GDMT phù hợp với từng cấp học.
8. Lập dự án.
Là phương pháp mà trong đó cánhan hay nhóm HS thử thiết lập một dự án có nội dung MT và thực hiện nó. Phương pháp này tạo cho học sinh một thói quen đặt mình vào vị trí của những người luôn quan tâm và có hành động hợp lý với MT, mang lại sự thay đổi trong MT ở địa phương hay trường học. Ví dụ: xây dựng và thực hiện một dự án làm sạch nước thải sinh hoạt của một gia đình nông thôn.
5.Mô hình một hoạt động GDMT.
Để thiết kế một hoạt động GDMT cần xác định rõ 4 yếu tố cơ bản:
* Mục tiêu: hoạt động này được thiết kế nhằm giúp học sinh:
* Thực hiện nhiệm vụ: hoạt động này được thực hiện theo trình tự sau:
1. Học sinh nghe giáo viên
a. Nêu mục đích và mô tả toàn bộ hoạt động sẽ diễn ra.
b. Giao nhiệm vụ cụ thể (cho cá nhân hoặc nhóm)
c. Hướng dẫn cách thực hiện
2. Học sinh thực hiện nhiệm vụ từng bước
3. Học sinh kiểm tra và điều chỉnh liên tục trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ.
4. Học sinh tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ.
* Các sản phẩm đạt được:
1. Học sinh đối chiếu công việc với nhiệm vụ được giao lúc đầu
2. Học sinh trình bày kết quả công việc cho toàn nhóm nghe (hoặc đại diện nhóm trình bày kết quả trước lớp)
* Đánh giá:
1. Học sinh tự xem xét lại quá trình thực hiện có đúng quy trình hay không
2. Học sinh tự đánh giá chất lượng của kết quả đạt đợc.
3. Học sinh tự phát hiện những điều mới thu hoạch được sau hoạt động (kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm...) xem có gì thay đổi so với trước khi thực hiện hoạt động.
4. các học sinh khác, nhóm khác đánh giá.
5. Giáo viên giúp học sinh tổng kết chung.
6. Hai kiểu triển khai GDMT
1. Kiểu 1: GDMT thông qua chương trình giảng dạy của môn học trong nhà trường.
Cơ hội GDMT trong chương trình dạy học ở nhà trường thể hiện ở chỗ trong chương trình có chứa đựng những nội dung của GDMT dưới hai dạng chủ yếu:
- Dạng 1: Nội dung chủ yếu của bài học, hay một phần môn học có sự trùng hợp với nội dung GDMT.
- Dạng 2: Một số nội dung của bài học hay một số phần nhất định của môn học, có liên quan trực tiếp với nội dung GDMT
Ngoài ra, ở một số phần nội dung của môn học, bài học khác, các ví dụ, bài tập, bài làm... được xem như là một dạng vật liệu dùng để khai thác các vấn đề môi trường.
Quá trình khai thác các cơ hội GDMT cần phải đảm bảo 3 nguyên tắc cơ bản,
- Không làm biến tính đặc trưng môn học, không biến bàihọc của bộ môn thành bài GDMT.
- Khai thác nội dung GDMT có chọn lọc,có tính tập trung vào những chương mục nhất định.
- Phát huy cao độ các hoạt động tích cực nhận thức của học sinh và các kinh nghiệm thực tế các em đã có, vận dụng tối đa mọi khả năng để có học sinh tiếp xúc trực tiếp với môi trường.
2. Kiểu 2: GDMT được triển khai như một hoạt động độc lập
Về cơ bản cách tiến hành một hoạt động độc lập, về GDMT hoàn toàn tương tự như ở mục IV.
7. Một số hình thức phổ biến tổ chức các hoạt động GDMT
a. Hoạt động ở trên lớp:
Thông qua môn học trong chính khoá, có các biện pháp sau:
- Phân tích những vấn đề môi trường ở trong trường học.
- Khai thác thực trạng môi trờng đất nước,làm nguyên liệu để xây dựng bài học GDMT.
- Xây dựng bài tập xuất phát từ kiến thức môn học, nhưng gắn liền với thực tế địa phương.
- Sử dụng các phương tiện dạy học làm nguồn tri thức được "vật chấthoá" như làm điểm tựa, cơ sở để phân tích, tìm tòi, khám phá các kiến thức cần thiết về môi trường.
- Sử dụng các tài liệu tham khoả (các bài báo, các đoạn trích trong sách phỏ biến khoa học, các tư liệu, số liệu mới điều tra, công bố các ảnh chụp mới nhất...) để làm rõ thêm các vấn đề môi trường.
- Thực hiện các tiết học có nội dung gần gũi với môi trường ở ngay chính trong một địa điểm thích hợp của môi trường như sân trường,vườn trường, đồng ruộng, điểm dân cư tập trung...
b. Hoạt động ở ngoài lớp.
- Báo cáo chuyên đề về bảo vệ môi trường do các nhà khoa học, các kỹ thuật viên hay giáo viên chuyên về môi trờng trình bày.
- Thực địa tìm hiểu BVMT ở địa phương.
- Tham gia tuyên truyền, vận động thựchiện BVMT (chiến dịch truyền thông)
- Tham gia các chiến dịch xanh hoá trong nhà trường: thực hiện việc trồng cây, quản lý va phân loại rác thải.
- Tham quan, cắm trại, trò chơi.
- Theo dõi diễn biến môi trường tại địa phương (xử lý nước thải, rác thải, vệ sinh công cộng, bảo vệ thắng cảnh...)
- Tổ chức các câu lạc bộ, thành lập cácnhóm hoạt động môi trường.
- Tổ chức các cuộc thi kể chuyện, ngâm thơ, hát, làm bích báo có nội dung giáo dục môi trừng, thi các bài tìm hiểu thiên nhiên, môi trường.
- Tổ chức thi tái chế, tái sử dụng.
- Tổ chức triển lãm, biểu diễn văn nghệ
- Xây dựng dự án và thực hiện
- Hoạt động phối hợp với gia đình, cộng đồng và hội cha mẹ học sinh.
Các biện pháp bảo vệ môi trường
Chương 2.
I. Khái niệm về BVMT hiện nay
Vào khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XI, khi chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển mạnh, việc khai thác các nguồn tài nguyên tăng lên nhanh chóng làm cho nhiều khu rừng, nhiều phong cảnh đẹp bị triệt phá. Cũng từ đó người ta mới nảy sinh ra ý niệm bảo vệ thiên nhiên. ý niệm đó lúc đầu chỉ nhằm bảo vệ các phong cảnh, khu rừng đẹp. Từ đó người ta bắt đầu xây dựng các khu rừng cấm. Sự thành lập các khu rừng cấm là nhằm bảo vệ toàn vẹn các điều kiện tự nhiên một khu vực nhất định.
Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển kinh tế, việc khai thác các nguồn tài nguyên ngày càng tăng nên việc bảo vệ thiên nhiên bảng cách giữ gìn như vậy không thể phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã họi. Đó là chưa kể việc bảo vệ như vậy vẫn không thể tránh khỏi sự ô nhiễm môi trường. Ngày nay với số dân tăng lên rất nhanh, nhu cầu khai thác các nguồn tài nguyên không chỉ có ý nghĩa "gìn giữ" nữa, mà mang một nội dung hoàn toàn khác. Bảo vệ môi trường ngày nay có ý nghĩa là:
1. Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và bảo vệ sự cân bằng sinh thái.
Sử dụng hợp lý có ý nghĩa là sử dụng tàinguyên một cách tiết kiệm, không lãng phí và có hiệu quả cao. Do đó việc khai thác phải có kế hoạch, đảm bảo được nhu cầu trước mắt và cả tương lai. Việc khai thác phải được giới hạn ở một mức độ nào đó, bằng những biện pháp nào đó để đảm bảo sao cho các tài nguyên không bị cạn kiệt, sự cân bằng sinh thái không bị phá huỷ và nguồn tài nguyên vẫn giữ được khả năng phục hồi bình thường.
Sử dụng hợp lý còn là sử dụng theo một phương án tối ưu, dựa trên cơ sở các quy luật phát triển của môi trường để có thể khai thác sử dụng các tài nguêyn có lợi nhất và môi trường cũng tốt hơn lên.
2. Cải tạo phục hồi các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt.
Đốii với các lãnh thổ đã khai thác đến mức cạn kiệt, nếu không phục hồi sẽ bị phá huỷ hoàn toàn. Muốn phục hồi phải có biện pháp cải tạo. Mục đích của cải tạo là để phục hồi và nâng cao chất lượng của môi trường. Ngày nay, nhiệm vụ cải tạo để phục hồi các cảnh quan trở thành nhiệm vụ rất quan trọng, bởi vì phần lớn các cảnh quan tự nhiên đã bị con người khai thác từ lâu. Việc trồng rừng phủ xanh đồi núi trọc ở nước ta thực chất là một việc cải tạo để phục hồi rừng đã bị cạn kiệt.
3. Chống ô nhiễm và suy thoái môi trường:
Sự ô nhiễm môi trường (bao gồm không khí, nước và đất) do các chất thải công nghiệp và sinh hoạt gây ra đang ngày càng trầm trọng. Sự ô nhiễm nặng sẽ làm cho môi trường bị suy thoái, bị phá huỷ đồng thời gây tác hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của con người và sự phát triển của mọi sinh vật. Việc chống ô nhiễm môi trường đòi hỏi phải sử dụng các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất để ngăn chặn việc thải các chất bẩn hoặc xử lý các chất thải trước khi đổ vào môi trường.
4. Bảo vệ tính đa dạng sinh học và các vốn gien di truyền quý hiếm.
Sinh thái học trên trái đất rất phong phú và đa dạng, nhất là ở các vùng nhiệt đới và xích đạo ẩm ướt. Các loài động vật và thực vật hoang dại chính là nguồn cung cấp giống cây trồng và vật nuôi cho loài người.
Vốn gien di truyền của chúng đã góp phần cho sản xuất nông nghiệp một nguồn giống quý giá để sản xuất ra lương thực thực phẩm, nguồn thuốc chữa bệnh và nhiều mặt lợi ích khác. Các sinh vật còn là thành phần quan trọng của môi trường. Sự tồn tại của chúng sẽ làm cho sự cân bằng sinh thái của môi trường được ổn định. Việc bảo vệ sự đa dạng của sinh vật đòi hỏi phải bảo vệ các điểu kiện, các nơi sinh sống và phát triển của mọi loài khác nhau.
II. Các biện pháp bảo vệ môi trường.
Để bảo vệ môi trường được có kết quả, đòi hỏi phải có một hệ thống các hoạt động phối hợp liên hoàn với nhau theo các ngành, các lãnh thổ ở các cấp khác nhau thuộc công tác quản lý của Nhà nước, công tác ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và công tác giáo dục nhằm mục tiêu BVMT. Tuy nhiên, có thể nêu một số biện pháp chủ yếu sau đây:
1. Xây dựng quy hoạch sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Đây là biện pháp quan trọng đầu tiên đối với quốc gia cũng như mỗi địa phương trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội.. Bởi vì, muốn sản xuất phát triển phải tăng cường khai thác các tài nguyên.
Nhưng nếu khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên không theo một quy hoạch rõ ràng, không theo một biện pháp bảo vệ và cải tạo thì nguồn tài nguyên sẽ bị cạn kiệt, môi trường sẽ bị suy thoái và sản xuất không thể phát triển lâu bền được.
Do vậy, muốn sự phát triển ổn định và lâu dài phải có quy hoạch khai thác sử dụng hợp lý. Muốn quy hoạch có cơ sở chắc chắn phải tiến hành điều tra, đánh giá nguồn tài nguyên, xác định các mục tiêu của quy hoạch rồi mới đi đến lập quy hoạch cho từng ngành.
ở nước ta, từ ngày bắt đầu xây dựng và phát triển kinh tế. Chính phủ đã rất chú ý đến vấn đề này. Việc xây dựng "Chiến lược quốc gia về bảo vệ tài nguyên và môi trường" năm 1985 và "kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền" năm 1990 chính là nhằm mục đích thực hiện các biện pháp nói trên.
2. Nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các ngành sản xuất để chống hiện tượng gây ô nhiễm môi trường.
Những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật ngày nay có khả năng ngăn chặn các hiện tượng gây ô nhiễm không khí, các nguồn nước và được thực hiện theo nhiều con đường khác nhau, như:
- Nghiên cứu và lắp đặt các máy móc khí và lọc nước trong các xí nghiệp sản xuất để lọc bụi, các chất hoà tan, khở các chất độc không cho chúng thải vào môi trường.
- Nghiên cứu các công nghệ sản xuất không chất thải, công nghệ sử dụng nươc theo chu trình kín, công nghệ sử dụng ít nước và tiến tới chu trình sản xuất "khô" không cần có nước.
- Nghiên cứu thay thế các động cơ đốt trong bằng các động cơ điện. Nghiên cứu sử dụng các nguồn năng lượng không gây ô nhiễm như năng lượng mặt trời, năng lượng nước, gió, địa nhiệt v.v.. Đặc biệt, đối với các phương tiện giao thông như ô tô, máy bay tầu hoả rất cần các động cơ không gây ô nhiễm.
3. Luật pháp
Đối với từng quốc gia mọi biện pháp về BVMT cuối cùng phải được thể chế hoá bằng các quy định, các chính sách luật lệ do Nhà nước ban hành. ở nước ta từ trước đến nay đã có nhiều quy định, nhiều chính sách về môi trường, và hiện nay Luật bảo vệ môi trường sẽ định rõ những điều không được phép, những điều phải thực hiện đối với mọi công dân cũng như tổ chức xã hội trong việc khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên, trong hoạt động sản xuất và đời sống nhằm giữ cho môi trường không bị cạn kiệt và ô nhiễm, bảo đảm cho sự phát triển của đất nước lâu bền.
Đối với quốc tâm hiện tượng ô nhiễm môi trường đã mang tính toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia có trách nhiệm bảo vệ chung. Để giải quyết nhiệm vụ đó, cần có sự thống nhất và hợp tác giữa các nước trên cơ sở các luật, các công ước quốc tế.
Ví dụ công ước về sự thay đổi khí hậu được ký kết tại hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường tại Rioo đơ Gianêrô tháng 6/1992. Các nước kí vào công ước cam kết sẽ giảm bớt và ngăn ngừa việc thải các khí nhân tạo gây hiệu ứng nhà kính.
Công ước viên về việc bảo vệ tầng ozon năm 1985 và công ước bảo vệ tính đa dạng sinh học tại Rioo - 92 và nhiều công ước khác đều là những văn bản mang tính luật pháp quốc tế.
4. Xây dựng các vùng cấm, các khu bảo tồn tự nhiên.
Các rừng cấm các khu bảo tồn tự nhiên là những lãnh thổ đặc trưng cho các hệ sinh thái, các cảnh quan khác nhau nhằm bảo tồn các mẫu chuẩn thiên nhiên cho đời sau: giữ gìn phần cơ bản vốn gien đi di truyền, gìn giữ sinh cảnh của các động vật quý hiếm, coi như biện pháp đầu tiên bảo vệ là nơi để nghiên cứu, tìm hiểu các quy luật phát triển và biến đổi của tự nhiên. Những kết quả nghiên cứu đó sẽ giúp các nhà khoa học xây dựng quy hoạch cải tạo, bảo vệ cũng như dự đoán các biến đổi của tự nhiên đối với các cảnh quan tương tự.
5. Giáo dục môi trường
Là biện pháp có vai tro hết sức to lớn, vì nó giúp cho mọi người nói chung và đặc biệt cho thế hệ trẻ ở các trường học, hiểu biết tình trạng môi trường và các biện pháp VBMT. Sự hiểu biết của mọi tầng lớp nhân dân về môi trường là nền tảng cơ bản để thực hiện nhiệm vụ BVMT có kết quả.
Chương III:
Phương pháp giáo dục môi trường
thông qua môn hoá học ở trường phổ thông.
I. Phương pháp đưa GDMT vào môn hoá học ở trường phổ thông.
1. Xác định hệ thống kiến thức GDMT trong môn hoá học.
ở nhiều nước trên thế giới, việc GDMT đã được đưa vào trường học từ vài chục năm nay. ở nước ta việc đưa nội dung GDMT vào chương trình các môn học được thực hiện qua quá trình cải cách giáo dục.
Cũng tương tự như nhiều nước khác, nội dung GDMT ở nước ta tập trung chủ yếu vào các môn học có liên quan nhiều đến môi trường như môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học, các môn địa lý, sinh học, hoá học, và kỹ thụât nông nghiệp ở trường THCS và THPT.
Môn hoá học ở trường phổ thông có nhiều điều kiện thuận lợi để GDMT cho học sinh... Vạy các kiến thức GDMT được hình thành như thế nào?
Như đã trình bàu ở trên, nội dung GDMT gắn liền với nội dung môn học. Vì thế kiến thức GDMT là những kiến thức môn học kết hợp chặt chẽ với kiến thức bảo vệ môi trường được khai thác ở chính bài học trong SGK.
Căn cứ vào nội dung của các khái niệm cơ bản về môi trường, căn cứ vào nội dung kiến thức có trong SGK chúng ta có thể lập được bảng liệt kê khả năng khai thác nội dung GDMT trong chương trình SGK phổ thông.
Cấp học: Trung học cơ sở Bộ môn: hoá học Lớp: 8,9
Cấp học: Trung học cơ sở Bộ môn: hoá học Lớp: 8,9
Cấp học: Trung học cơ sở Bộ môn: hoá học Lớp: 8,9
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Cấp học: Trung học phổ thông Bộ môn: Hoá học
Ghi chú: Bài học khai thác kiến thức GDMT được ghi theo số thứ tự tiết học theo phân phối chương trình môn hoá học hiện hành.
2. Phương thức ưa GDMT vào môn hoá học ở trường phổ thông.
Với đặc điểm của hệ thống kiến thức GDMT như vậy, việc đưa kiến thức GDMT vào môn học thuận lợi nhất vẫn là hình thức tích hợp và lồng ghép.
Tích hợp là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức hoá học.Với kiến thức DGMTlàm cho chúng nhào quyên vào nhau tạo thành một thể thống nhất.
Lồng ghép là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặt cấu trú để có thể đưa vào học một mục, một đoạn, một số câu có nội dung GDMT.
Tuy nhiên với đặc thù của môn hoá học việc GDMT thuận lợi nhất là việc tận dung phương pháp môn đun để thiét kế các mô đun GDMT khai thác từ các kiến thức hoá học có trong chương trình SGK. Vậy phương pháp mô đun là gì ?
II. Môđun - cơ sở lý luận của phương pháp môđun .
1. Thuật ngữ Môđun
+ Môđun là một trong nhiều bộ phận hoặc đơn vị đã được tiêu chuẩn hoá và chế tạo riêng ré để ghép lại với nhau tạo thành một kiến trúc tổng thể.
+ Trong khai niệm giáo dục: Môđun là mọt trong nhiều đơn vị hoặc bài độc lập tạo thành một giáo trình, là đơn vị giáo trình.
Trong thuật ngữ của khoa học giáo dục hiện đại, người ta dùng Môđun chỉ một đơn vị kiến thức và kỹ thuật được xác định với khối lượng nhất định.
Thuật ngữ Môđun thường là chỉ dùng trong phạm trù định lượng về kiến trúc và kỹ năng ( tức là trong khuôn khổ của dạy và học).
Môđun dạy học là gì?
+ Môđun dạy học là đơn vị chương trình dạy học tương đối độc lập, được cấu trúc một cách đặc biệt, nhằm phục vụ cho người và chứa đựng của mục tiêu dạy học tương đối độc lập, được cấu tríc một cách đặc biệt, nhằm phục vụ cho người học và chứa đựng cả mục tiêu dạy học, nội dung bài học, phương pháp dạy học và và hệ thống công cụ đánh giá kết quả lĩnh hội, gắn bó chặt chẽ với nhau thành một thể hoàn chỉnh (toàn vẹn).
+ Những đặc trưng cơ bản của một Môđun dạy học:
- Là đơn vị học trình độc lập, là tập hợp những tình huống dạy học, được tổ cức xoay quanh một vấn đề của môn học. Nó là tài liệu tự học có hướng dẫn.
- Môđun dạy học được định hướng bởi hệ thống mục tiêu dạy học được xác định cụ thể rõ ràng và có thể đo lường được.
- Môđun dạy học được định hướng bởi hệ thống mục tiêu dạy học được xác định cụ thể rõ ràng và có thể đo lương được.
- Môđun dạy học được chứa đựng test (test điều kiện, test trung gian, test kết thúc... ) Nhờ cách này mà người đọc có thể tự kiểm tra ( liên hệ ngược ngoài).
- Tiếp cận này cho phép người học tiến lên theo nhịp độ thích hợp với khả năng của mình. Người học có thể lĩnh hội bằng nhiều con đường khác nhau, thực hiện bẳng nhiều cách khác nhau để chiếm lĩnh cùng một nội dung; người đọc tiến lên theo nhịp độ riêng.
Môđun dạy học tương đối độc lập nhưng nó lại liên quan chặt chẽ với cái đi trước vào cái sau nó về hoạt động của người học; người học học xong Môđun trước mới được phép học Môđun sau. Với cách tiếp cận này, người học có khả năng ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau và nó thích hợp với hệ đánh giá theo tín chỉ, rất mềm dẻo.
3. Môđun GDMT
Một Môđun DGMT ngoài mang những đặc điểm của Môđun dạy học ở trên, nó còn mang những nét riêng của nó.
- Một Môđun GDMT là một đơn vị mang tính độc lập tương đối, thiết kế chi tiết các việc làm GDMT nhằm khai thác kiến thức (khái niệm) vốn có của sách giáo khoa, để đạt ược mục tiêu GDMT đề ra.
- Một Môđun GDMT gồm có 4 đặc trưng cơ bản:
+ Nêu rõ khái niệm sẵn có trong SGK ( với tình huống cụ thể có liên quan).
+ Nêu rõ mục tiêu GDMT, khai thác từ khái niệm trên.
+ Nêu rõ từng việc làm của thầy và trò sao cho dễ kiểm tra và đánh giá (liên hệ ngược)
+ Có tính mềm dẻo, thích ứng với nhiều tình huống khác nhau, nhưng đều đạt mục tiêu GDMT.
Có hai loại hình tiếp cận: Mô đun khai thác phần GDMT từ SGK hiện hành và các việc làm ngoài giờ lên lớp, trong các hoạt động xã hội (môđun ngoại khoá).
Để xây dựng được các môđun GDMT, cần phải hiểu được các khái niệm cơ bản về MT, về nội dung GDMT có thể khai thác từ các khái niệm đó. Sau đó, vận dụng các PPDH GDMT đã đưa ra ở trên, kết hợp với tình hình thực tế ở địa phương để thiết kế môđun GDMT phù hợp.
III. Nội dung GDMT khai thác từ các khái niệm cơ bản về MT để GDMT cho học sinh THPT.
Nội dung GDMT thể hiện ở các việc làm được thiết kế trên cơ sở một số khái niệm cơ bản sẵn có trong SGK, nhằm làm rõ giá trị MT đối với con người, sao cho, rút cục, các hoạt động GDMT phải hình thành được ở HS ý thức vì MT và kỹ năng hành động thực tiễn để giải quyết các vấn đề MT.
Một số khái
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Ngọc Khuyên
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)