Chuyên đề văn cực hay
Chia sẻ bởi Nong Hung Cuong |
Ngày 21/10/2018 |
61
Chia sẻ tài liệu: chuyên đề văn cực hay thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN THẠCH AN
TRƯỜNG PTCS TRỌNG CON
CHUYÊN ĐỀ:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP MỞ RỘNG VỐN TỪ TIẾNG VIỆT
Người viết & Báo cáo: Nông Hùng Cường
Tổ chuyên môn THCS trường PTCS Trọng Con
A - PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Văn học là nhân học” .Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người
Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội ,môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm ,tư tưởng ,tình cảm cho học sinh. Bên cạnh đó còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác.Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại ,các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn .Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành ,giảm lí thuyết ,gắn học với hành ,gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú ,sinh động của cuộc sống .
Hiện nay, với xu thế phát triển và hội nhập, các em học sinh có điều kiện để tiếp xúc với nhiều nền văn hóa qua các phương tiện thông tin đại chúng. Mạng Internet phát triển, việc truy cập dễ dàng, đặc biệt là sự bùng nổ của các trang cá nhân như: Facebook, Googler+…Giúp các em có thể được tự do chia sẻ những suy nghĩ, thông tin… Tuy nhiên trong những cái gọi là mới mẻ, không phải lúc nào cũng có thể được coi là hay, là đẹp. Đặc biệt trong ngôn ngữ giao tiếp, nó có tác động không nhỏ đến các em, ảnh hưởng đến quan niệm và phong cách sống. Thực tế các em vẫn chưa biết chọn lọc ngôn từ cũng như cách học tập, vận dụng những "lời hay, ý đẹp" vào trong các bài viết của bản thân và trong giao tiếp hàng ngày.
Thực trạng học sinh sử dụng từ ngữ, đặt câu hay viết văn chưa được chuẩn xác thậm chí là không đúng cả về mặt nội dung và ngữ pháp đã và đang là vấn đề được nhiều người, đặc biệt là các giáo viên đang trực tiếp giảng giạy bộ môn văn suy nghĩ và trăn trở.
Một bài viết hay trước hết từ ngữ phải hay, nhiều từ ngữ hay thì câu văn sẽ hay, nhiều câu văn hay thì đoạn văn sẽ hay và nhiều đoạn văn hay thì tất bài văn sẽ hay. Để có được cái hay đó, mỗi học sinh cần phải có cho mình một vốn từ vựng tiếng Việt căn bản. Làm cách nào để các em có được vốn từ vựng đó? đây cũng là câu hỏi mà tôi muốn cùng các bạn đồng nghiệp đi tìm lời giải đáp
II. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt cho các em học sinh là công việc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại rất khó thực hiện. Bởi lẽ giáo viên tiếp xúc với học sinh chủ yếu là ở trường với một khoảng thời gian ngắn ngủi. Vì vậy, trong chuyên đề này, tôi muốn đặt ra kế hoạch nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt ngay trong mỗi tiết học mà giáo viên lên lớp, bám sát vào chính những bài học cụ thể để từ đó giúp các em có thêm vốn từ vựng có thể vận dụng hợp lí vào các bài viết cũng như trong "lời ăn tiếng nói" hàng ngày.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: với đề tài này có thể áp dụng cho tất cả học sinh các lớp trong khối THCS
- Phạm vi nghiên cứu: Chương trình Ngữ văn THCS cả năm học
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu phương pháp nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt.
- Giáo án áp dụng các phương pháp nâng cao vốn từ tiếng Việt.
- Khảo sát thực tiễn, đánh giá kết quả
V. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thực nghiệm
NỘI DUNG
I. cơ sở
1. Cơ sở lý luận
Giao tiếp trong cuộc sống là nhu cầu không thể thiếu của con người. Trong giao tiếp có hai hình thức chủ yếu: Nói và viết. Các em học sinh đang ở trong độ tuổi dễ tiếp thu những cái mới mà chưa thực sự hiểu được nó hay hoặc không phù hợp thậm chí là sai. Mở rộng vốn từ tiếng Việt sẽ giúp các em có được vốn từ vựng cơ bản, điều kiện không thể thiếu để các em có được những lời nói cũng như bài văn hay. Từ đó các em nhận thức được một cách đầy đủ hơn sự giàu đẹp của tiếng Việt và có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
2. Cơ sở thực tiễn
Lỗi xuất hiện nhiều nhất trong mỗi bài làm văn của học sinh là lặp từ dẫn đến lủng củng. Điều này chứng tỏ các em bị bí từ, thiếu vốn từ vựng.
Tôi có thể chắc chắn một điều rằng: Chúng ta bắt gặp không ít những câu" không thể hiểu " được mà các em học sinh nói trong sự vô tư và hồn nhiên, đại loại như:
- " Hôm qua, chú ấy phê nặng
- " Thằng A ở lớp bên nhảy hiphop thật là Pro.......vv
Hoặc:
- " Thầy của em có dáng người thấp, lùn, béo tốt, có giọng nói to vang như một chú Bec- Giê....vv ( Bài làm văn của học sinh)
Xem qua những tin nhắn hay những dòng chia sẻ trên Facebook của các em, chúng ta sẽ cảm thấy như mình đang đọc một ngôn ngữ không phải là tiếng Việt
- Ví dụ: “Zeu ngey sen na tui choi, 3h ne, ko pit dg thi pao pen den de”, tôi đã không thể dịch nổi tin nhắn này.
Có một thực trạng học sinh đang cổ súy cho thứ ngôn ngữ quái dị này và xem như đó là mốt. Bên cạnh đó các em bị ảnh hưởng rất nhiều từ các câu nói, các thành ngữ cải biên tuy nhiên lại làm cho các em rất thích thú tạo thành một phong cách nói phổ biến.
Ví dụ như: “Buồn như con chuồn chuồn, Chán như con gián, Biển học là vô bờ quay đầu là hiphop…”
Thậm chí còn có nhiều ấn phẩm trên mạng được các em phổ biến và coi đó là những “kiệt tác”:
Những câu nói, thành ngữ cải biên như trên khiến người đọc bật cười dưới góc độ giải trí hài hước. Nhưng điều đáng nói ở đây là các em học sinh hồn nhiên mang cả cách nói ấy vào bài văn và trong các tình huống giao tiếp với mọi hoàn cảnh và mọi đối tượng.
Sử dụng từ ngữ không đúng nghĩa, "lai căng hóa", thậm chí cả những từ ngữ đầy tính bạo lực, vô nghĩa từ những trò chơi điện tử, phim ảnh,… đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến các em. Nhiệm vụ của các giáo viên, trước hết là những giáo viên dạy văn là giúp cho các em nhận ra được nghĩa của từ, biết được nhiều từ vựng, biết cách sử dụng nó trong các hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với ngữ cảnh.
Đối với đề tài này, giáo viên hoàn toàn có thể áp dụng trong hầu hết các tiết của môn ngữ văn.
- Với tiết dạy văn bản: Nhấn mạnh cho các em thấy những từ ngữ hay, tiêu biểu, thể hiện được dụng ý của tác giả.
- Tiết tiếng Việt: Hướng dẫn các em tìm hiểu về nghĩa của từ trong các bài học. Kỹ năng sử dụng câu, đặt câu hoặc viết đoạn văn đúng với nội dung và ngữ pháp.
- Tiết tập làm văn: Giúp các em sử dụng các từ ngữ phù hợp với thể loại văn bản, biết cách sử dụng từ ngữ để tạo nên các biện pháp nghệ thuật.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những mặt hạn chế khi sử dụng phương pháp này vào bài giảng vì mặt bằng nhận thức của các em không đồng đều. Giáo viên mất nhiều thời gian vào việc mở rộng vốn từ sẽ chiếm thời gian của tiết học và không làm rõ được nội dung bài giảng.
II. Quá trình thực hiện
Để thực hiện có hiệu quả các phương pháp mở rộng vốn từ tiếng Việt, trước hết, bản thân giáo viên phải tự trao dồi cho mình vốn từ tiếng Việt phong phú. Sự trau dồi đó không phải là " ngày một, ngày hai" mà có được mà nó là cả một quá trình lĩnh hội từ các văn hóa phẩm, các phương tiện thông tin đại chúng hay từ những giao tiếp đời thường.
* Tiết văn bản:
Các tác phẩm thơ, văn của các nhà văn, nhà thơ không thể thiếu biện pháp nghệ thuật. Từ ngữ góp phần quyết định tạo nên các biện pháp nghệ thuật đó. Giáo viên cho các em nhận ra những từ ngữ đặc biệt, cùng các em phân tích nghĩa, tìm ra các từ đồng nghĩa, trái nghĩa, cách sử dụng hợp lí trong các ngữ cảnh.
Ví dụ: "Sông ngòi, kênh rạch bủa giăng chằng chịt như mạng nhện" ( văn bản : sông nước Cà Mau - Đoàn Giỏi)
- Hệ thống câu hỏi phát hiện:
? Sông ngòi, kênh rạch Cà Mau được ví với hình ảnh nào?
? Em hiểu " chi chít như mạng nhện" nghĩa là như thế nào?
? Qua đó em thấy tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?
? Tìm thêm những câu gợi hình ảnh giống như " chi chít như mạng nhện"?
? Đặt câu cụ thể với những câu vừa tìm được?
* Tiết tiếng Việt:
Phương pháp mở rộng vốn từ tiếng Việt cũng giống như tiết học văn bản. Nghĩa là cho học sinh phân tích nghĩa từ ngữ -> tìm thêm các từ đồng nghĩa, trái nghĩa -> Khái niệm về từ loại -> Đặt câu với từ vừa tìm được ...
Liên hệ với những từ Hán Việt đồng nghĩa
Ví dụ: " Bạn chưa về à ?"
- Hệ thống câu hỏi phát hiện:
? Trong câu trên, nếu bỏ đi từ ngữ nào thì nội dung vẫn không thay đổi?
? Từ " à" trong câu trên có tác dụng gì?
? Tìm thêm những từ có chức năng giống như từ " à"?
? Đặt câu với từ vừa tìm được? Những từ ngữ đó nên sử dụng và không nên sử dụng trong trường hợp nào? vì sao?
-> Những từ đó gọi là tình thái từ.
? Chỉ ra các trường hợp sử dụng tình thái từ không đúng với đối tượng và ngữ cảnh?
? Cách sửa chửa?
* Tiết tập làm văn:
Cho các em luyện tập nhiều hơn, đặc biệt là thực hành viết.
Giáo viên cho các em đọc bài viết của mình trước lớp, cùng cả lớp phát hiện các từ, câu chưa hay, không đúng. Tìm ra các từ, câu có thể thay thế.
Khuyến khích các em tìm hiểu nhiều hơn nữa các phương tiện thông tin đại chúng,chú ý cách dùng câu, từ. Mỗi học sinh cần có một quyển từ điển tiếng Việt.
Ví dụ: " Sáng bố em đi làm sớm, về muộn"
- Hệ thống câu hỏi phát hiện:
? Thế nào thì được cho là sớm?
-> Lúc mặt trời lên
? Từ hay cụm từ nào có thể thể hiện được điều đó?
-> Bình minh, ban mai .....
Vậy thế nào thì được cho là muộn?
-> Lúc mặt trời lặn
? Từ hay cụm từ nào có thể thể hiện được điều đó?
-> Hoàng hôn....
Sau đây là một số bài soạn cụ thể có sử dụng phương pháp mở rộng và nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt. Vì phương pháp này cần được thực hiện trong cả quá trình học của các em ở trường THCS nên trong mỗi tiết dạy, giáo viên chỉ nên đưa vào một số ít câu hỏi nhằm mở rộng và nâng cao vốn từ tiếng Việt. Chủ yếu cho các em tìm ra thêm các câu, từ đồng nghĩa:
Để tạo hứng thú cho các em, giáo viên nên đưa
thêm một số bài tập dưới dạng trò chơi.
Có rất nhiều trò chơi giúp các em mở rộng vốn từ, ví dụ:
Cho học sinh làm động tác, các em còn lại đoán hành động.
Bình luận tranh, ảnh.
Thi hát với các từ vựng.
Giải ô chữ.
III. kết quả điều tra khảo sát thực tiễn
1. Kiểm chứng
Trong những năm học vừa qua, với việc áp
dụng phương pháp mở rộng vốn từ tiếng Việt,
tôi đã thu được một số kết quả khả quan. Chất
lượng bài viết của học sinh được nâng cao. Các
em có ý thức hơn, sáng tạo hơn, linh hoạt và
lưu loát hơn trong việc dùng từ. Cách dùng
câu, từ của các em trong giao tiếp có những
cải thiện đáng kể, hạn chế được việc sử dụng
các câu, từ không phù hợp hoặc "lai căng hóa".
2. Hiệu quả đạt được
Phương pháp này không đem lại hiệu quả "tức thì" và thực hiện nó trong cả một thời gian rất dài thậm chí là thực hiện trong cả quá trình giảng dạy của một giáo viên đối với các thế hệ học sinh. áp dụng phương pháp này các em sẽ có được những vốn từ căn bản để có thể ứng dụng vào trong văn nói và văn viết. Giúp các em nhận ra câu, từ hay, dở, biết cách sử dụng nó, "tẩy chay" các câu, từ phản cảm, không đúng mực. Bước đầu tạo cho các em có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
V. Bài học kinh nghiệm
Đối với giáo viên
- Thường xuyên tự trau dồi vốn từ vựng cho mình.
- Cho học sinh tự mở rộng vốn từ thông qua bài học cụ thể.
- Cho học sinh thực hành nhiều hơn nữa để giáo viên nhận ra cách viết của từng em từ đó có hướng chỉnh sửa.
- Ngoài giờ học, có những cuộc nói chuyện thân mật với các em khi để nhận ra cách sử dụng câu, từ trong giao tiếp, chỉnh sửa kịp thời.
- Phương pháp này cần được sử dụng nhiều hơn với học sinh lớp 6.
- Chú trọng đến câu, từ khi nói hoặc viết ở khi giao tiếp với học sinh.
2. Đối với học sinh
- Cần trang bị cho mình cuốn từ điển tiếng Việt.
- Thường xuyên đọc sách, báo, nghe đài, xem truyền hình...tiếp thu cách sử dụng câu, từ đúng nghĩa, phù hợp với hoàn cảnh.
- Nắm vững kiến thức trong sách giáo khoa, luôn phát hiện, tìm tòi thêm các từ ngữ, câu văn hay để học tập.
C. KẾT LUẬN
Mở rộng vốn từ tiếng Việt thực chất là hướng cho các em học sinh phát hiện, tìm thêm các từ ngữ, câu văn đồng nghĩa, trái nghĩa, giàu hình tượng, giàu sức biểu cảm và hoa mỹ. Biết cách sử dụng câu, từ hợp với ngữ cảnh trong nói và viết. Đây là công việc cần phải làm đối với một giáo viên cũng như là trách nhiệm trước thực trạng sử dụng câu, từ, ngôn ngữ bừa bãi của học sinh hiện nay. Hơn lúc nào hết việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cần phải được chú trọng. Mở rộng vốn từ tiếng Việt là một trong những việc nhằm hướng đến công việc cấp thiết đó.
Chuyên đề tôi nghiên cứu chỉ nêu lên được một phương pháp rất nhỏ. Tôi cho rằng đây là một
đề tài lớn bởi tính khẩn thiết, tầm quan trọng và sự tác động sâu sắc của vấn đề đến những người "chủ nhân tương lai của đát nước". Tôi cũng tin tưởng rằng các bạn đồng nghiệp sẽ còn có những ý tưởng, những phương pháp khác cho việc mở rộng vốn từ tiếng Việt. Bản thân tôi luôn luôn mong muốn và chờ đợi những ý kiến góp ý và bổ sung để chuyên đề của tôi có thể được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
TRƯỜNG PTCS TRỌNG CON
CHUYÊN ĐỀ:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP MỞ RỘNG VỐN TỪ TIẾNG VIỆT
Người viết & Báo cáo: Nông Hùng Cường
Tổ chuyên môn THCS trường PTCS Trọng Con
A - PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Văn học là nhân học” .Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người
Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội ,môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm ,tư tưởng ,tình cảm cho học sinh. Bên cạnh đó còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác.Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại ,các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn .Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành ,giảm lí thuyết ,gắn học với hành ,gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú ,sinh động của cuộc sống .
Hiện nay, với xu thế phát triển và hội nhập, các em học sinh có điều kiện để tiếp xúc với nhiều nền văn hóa qua các phương tiện thông tin đại chúng. Mạng Internet phát triển, việc truy cập dễ dàng, đặc biệt là sự bùng nổ của các trang cá nhân như: Facebook, Googler+…Giúp các em có thể được tự do chia sẻ những suy nghĩ, thông tin… Tuy nhiên trong những cái gọi là mới mẻ, không phải lúc nào cũng có thể được coi là hay, là đẹp. Đặc biệt trong ngôn ngữ giao tiếp, nó có tác động không nhỏ đến các em, ảnh hưởng đến quan niệm và phong cách sống. Thực tế các em vẫn chưa biết chọn lọc ngôn từ cũng như cách học tập, vận dụng những "lời hay, ý đẹp" vào trong các bài viết của bản thân và trong giao tiếp hàng ngày.
Thực trạng học sinh sử dụng từ ngữ, đặt câu hay viết văn chưa được chuẩn xác thậm chí là không đúng cả về mặt nội dung và ngữ pháp đã và đang là vấn đề được nhiều người, đặc biệt là các giáo viên đang trực tiếp giảng giạy bộ môn văn suy nghĩ và trăn trở.
Một bài viết hay trước hết từ ngữ phải hay, nhiều từ ngữ hay thì câu văn sẽ hay, nhiều câu văn hay thì đoạn văn sẽ hay và nhiều đoạn văn hay thì tất bài văn sẽ hay. Để có được cái hay đó, mỗi học sinh cần phải có cho mình một vốn từ vựng tiếng Việt căn bản. Làm cách nào để các em có được vốn từ vựng đó? đây cũng là câu hỏi mà tôi muốn cùng các bạn đồng nghiệp đi tìm lời giải đáp
II. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt cho các em học sinh là công việc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại rất khó thực hiện. Bởi lẽ giáo viên tiếp xúc với học sinh chủ yếu là ở trường với một khoảng thời gian ngắn ngủi. Vì vậy, trong chuyên đề này, tôi muốn đặt ra kế hoạch nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt ngay trong mỗi tiết học mà giáo viên lên lớp, bám sát vào chính những bài học cụ thể để từ đó giúp các em có thêm vốn từ vựng có thể vận dụng hợp lí vào các bài viết cũng như trong "lời ăn tiếng nói" hàng ngày.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: với đề tài này có thể áp dụng cho tất cả học sinh các lớp trong khối THCS
- Phạm vi nghiên cứu: Chương trình Ngữ văn THCS cả năm học
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu phương pháp nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt.
- Giáo án áp dụng các phương pháp nâng cao vốn từ tiếng Việt.
- Khảo sát thực tiễn, đánh giá kết quả
V. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thực nghiệm
NỘI DUNG
I. cơ sở
1. Cơ sở lý luận
Giao tiếp trong cuộc sống là nhu cầu không thể thiếu của con người. Trong giao tiếp có hai hình thức chủ yếu: Nói và viết. Các em học sinh đang ở trong độ tuổi dễ tiếp thu những cái mới mà chưa thực sự hiểu được nó hay hoặc không phù hợp thậm chí là sai. Mở rộng vốn từ tiếng Việt sẽ giúp các em có được vốn từ vựng cơ bản, điều kiện không thể thiếu để các em có được những lời nói cũng như bài văn hay. Từ đó các em nhận thức được một cách đầy đủ hơn sự giàu đẹp của tiếng Việt và có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
2. Cơ sở thực tiễn
Lỗi xuất hiện nhiều nhất trong mỗi bài làm văn của học sinh là lặp từ dẫn đến lủng củng. Điều này chứng tỏ các em bị bí từ, thiếu vốn từ vựng.
Tôi có thể chắc chắn một điều rằng: Chúng ta bắt gặp không ít những câu" không thể hiểu " được mà các em học sinh nói trong sự vô tư và hồn nhiên, đại loại như:
- " Hôm qua, chú ấy phê nặng
- " Thằng A ở lớp bên nhảy hiphop thật là Pro.......vv
Hoặc:
- " Thầy của em có dáng người thấp, lùn, béo tốt, có giọng nói to vang như một chú Bec- Giê....vv ( Bài làm văn của học sinh)
Xem qua những tin nhắn hay những dòng chia sẻ trên Facebook của các em, chúng ta sẽ cảm thấy như mình đang đọc một ngôn ngữ không phải là tiếng Việt
- Ví dụ: “Zeu ngey sen na tui choi, 3h ne, ko pit dg thi pao pen den de”, tôi đã không thể dịch nổi tin nhắn này.
Có một thực trạng học sinh đang cổ súy cho thứ ngôn ngữ quái dị này và xem như đó là mốt. Bên cạnh đó các em bị ảnh hưởng rất nhiều từ các câu nói, các thành ngữ cải biên tuy nhiên lại làm cho các em rất thích thú tạo thành một phong cách nói phổ biến.
Ví dụ như: “Buồn như con chuồn chuồn, Chán như con gián, Biển học là vô bờ quay đầu là hiphop…”
Thậm chí còn có nhiều ấn phẩm trên mạng được các em phổ biến và coi đó là những “kiệt tác”:
Những câu nói, thành ngữ cải biên như trên khiến người đọc bật cười dưới góc độ giải trí hài hước. Nhưng điều đáng nói ở đây là các em học sinh hồn nhiên mang cả cách nói ấy vào bài văn và trong các tình huống giao tiếp với mọi hoàn cảnh và mọi đối tượng.
Sử dụng từ ngữ không đúng nghĩa, "lai căng hóa", thậm chí cả những từ ngữ đầy tính bạo lực, vô nghĩa từ những trò chơi điện tử, phim ảnh,… đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến các em. Nhiệm vụ của các giáo viên, trước hết là những giáo viên dạy văn là giúp cho các em nhận ra được nghĩa của từ, biết được nhiều từ vựng, biết cách sử dụng nó trong các hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với ngữ cảnh.
Đối với đề tài này, giáo viên hoàn toàn có thể áp dụng trong hầu hết các tiết của môn ngữ văn.
- Với tiết dạy văn bản: Nhấn mạnh cho các em thấy những từ ngữ hay, tiêu biểu, thể hiện được dụng ý của tác giả.
- Tiết tiếng Việt: Hướng dẫn các em tìm hiểu về nghĩa của từ trong các bài học. Kỹ năng sử dụng câu, đặt câu hoặc viết đoạn văn đúng với nội dung và ngữ pháp.
- Tiết tập làm văn: Giúp các em sử dụng các từ ngữ phù hợp với thể loại văn bản, biết cách sử dụng từ ngữ để tạo nên các biện pháp nghệ thuật.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những mặt hạn chế khi sử dụng phương pháp này vào bài giảng vì mặt bằng nhận thức của các em không đồng đều. Giáo viên mất nhiều thời gian vào việc mở rộng vốn từ sẽ chiếm thời gian của tiết học và không làm rõ được nội dung bài giảng.
II. Quá trình thực hiện
Để thực hiện có hiệu quả các phương pháp mở rộng vốn từ tiếng Việt, trước hết, bản thân giáo viên phải tự trao dồi cho mình vốn từ tiếng Việt phong phú. Sự trau dồi đó không phải là " ngày một, ngày hai" mà có được mà nó là cả một quá trình lĩnh hội từ các văn hóa phẩm, các phương tiện thông tin đại chúng hay từ những giao tiếp đời thường.
* Tiết văn bản:
Các tác phẩm thơ, văn của các nhà văn, nhà thơ không thể thiếu biện pháp nghệ thuật. Từ ngữ góp phần quyết định tạo nên các biện pháp nghệ thuật đó. Giáo viên cho các em nhận ra những từ ngữ đặc biệt, cùng các em phân tích nghĩa, tìm ra các từ đồng nghĩa, trái nghĩa, cách sử dụng hợp lí trong các ngữ cảnh.
Ví dụ: "Sông ngòi, kênh rạch bủa giăng chằng chịt như mạng nhện" ( văn bản : sông nước Cà Mau - Đoàn Giỏi)
- Hệ thống câu hỏi phát hiện:
? Sông ngòi, kênh rạch Cà Mau được ví với hình ảnh nào?
? Em hiểu " chi chít như mạng nhện" nghĩa là như thế nào?
? Qua đó em thấy tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?
? Tìm thêm những câu gợi hình ảnh giống như " chi chít như mạng nhện"?
? Đặt câu cụ thể với những câu vừa tìm được?
* Tiết tiếng Việt:
Phương pháp mở rộng vốn từ tiếng Việt cũng giống như tiết học văn bản. Nghĩa là cho học sinh phân tích nghĩa từ ngữ -> tìm thêm các từ đồng nghĩa, trái nghĩa -> Khái niệm về từ loại -> Đặt câu với từ vừa tìm được ...
Liên hệ với những từ Hán Việt đồng nghĩa
Ví dụ: " Bạn chưa về à ?"
- Hệ thống câu hỏi phát hiện:
? Trong câu trên, nếu bỏ đi từ ngữ nào thì nội dung vẫn không thay đổi?
? Từ " à" trong câu trên có tác dụng gì?
? Tìm thêm những từ có chức năng giống như từ " à"?
? Đặt câu với từ vừa tìm được? Những từ ngữ đó nên sử dụng và không nên sử dụng trong trường hợp nào? vì sao?
-> Những từ đó gọi là tình thái từ.
? Chỉ ra các trường hợp sử dụng tình thái từ không đúng với đối tượng và ngữ cảnh?
? Cách sửa chửa?
* Tiết tập làm văn:
Cho các em luyện tập nhiều hơn, đặc biệt là thực hành viết.
Giáo viên cho các em đọc bài viết của mình trước lớp, cùng cả lớp phát hiện các từ, câu chưa hay, không đúng. Tìm ra các từ, câu có thể thay thế.
Khuyến khích các em tìm hiểu nhiều hơn nữa các phương tiện thông tin đại chúng,chú ý cách dùng câu, từ. Mỗi học sinh cần có một quyển từ điển tiếng Việt.
Ví dụ: " Sáng bố em đi làm sớm, về muộn"
- Hệ thống câu hỏi phát hiện:
? Thế nào thì được cho là sớm?
-> Lúc mặt trời lên
? Từ hay cụm từ nào có thể thể hiện được điều đó?
-> Bình minh, ban mai .....
Vậy thế nào thì được cho là muộn?
-> Lúc mặt trời lặn
? Từ hay cụm từ nào có thể thể hiện được điều đó?
-> Hoàng hôn....
Sau đây là một số bài soạn cụ thể có sử dụng phương pháp mở rộng và nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt. Vì phương pháp này cần được thực hiện trong cả quá trình học của các em ở trường THCS nên trong mỗi tiết dạy, giáo viên chỉ nên đưa vào một số ít câu hỏi nhằm mở rộng và nâng cao vốn từ tiếng Việt. Chủ yếu cho các em tìm ra thêm các câu, từ đồng nghĩa:
Để tạo hứng thú cho các em, giáo viên nên đưa
thêm một số bài tập dưới dạng trò chơi.
Có rất nhiều trò chơi giúp các em mở rộng vốn từ, ví dụ:
Cho học sinh làm động tác, các em còn lại đoán hành động.
Bình luận tranh, ảnh.
Thi hát với các từ vựng.
Giải ô chữ.
III. kết quả điều tra khảo sát thực tiễn
1. Kiểm chứng
Trong những năm học vừa qua, với việc áp
dụng phương pháp mở rộng vốn từ tiếng Việt,
tôi đã thu được một số kết quả khả quan. Chất
lượng bài viết của học sinh được nâng cao. Các
em có ý thức hơn, sáng tạo hơn, linh hoạt và
lưu loát hơn trong việc dùng từ. Cách dùng
câu, từ của các em trong giao tiếp có những
cải thiện đáng kể, hạn chế được việc sử dụng
các câu, từ không phù hợp hoặc "lai căng hóa".
2. Hiệu quả đạt được
Phương pháp này không đem lại hiệu quả "tức thì" và thực hiện nó trong cả một thời gian rất dài thậm chí là thực hiện trong cả quá trình giảng dạy của một giáo viên đối với các thế hệ học sinh. áp dụng phương pháp này các em sẽ có được những vốn từ căn bản để có thể ứng dụng vào trong văn nói và văn viết. Giúp các em nhận ra câu, từ hay, dở, biết cách sử dụng nó, "tẩy chay" các câu, từ phản cảm, không đúng mực. Bước đầu tạo cho các em có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
V. Bài học kinh nghiệm
Đối với giáo viên
- Thường xuyên tự trau dồi vốn từ vựng cho mình.
- Cho học sinh tự mở rộng vốn từ thông qua bài học cụ thể.
- Cho học sinh thực hành nhiều hơn nữa để giáo viên nhận ra cách viết của từng em từ đó có hướng chỉnh sửa.
- Ngoài giờ học, có những cuộc nói chuyện thân mật với các em khi để nhận ra cách sử dụng câu, từ trong giao tiếp, chỉnh sửa kịp thời.
- Phương pháp này cần được sử dụng nhiều hơn với học sinh lớp 6.
- Chú trọng đến câu, từ khi nói hoặc viết ở khi giao tiếp với học sinh.
2. Đối với học sinh
- Cần trang bị cho mình cuốn từ điển tiếng Việt.
- Thường xuyên đọc sách, báo, nghe đài, xem truyền hình...tiếp thu cách sử dụng câu, từ đúng nghĩa, phù hợp với hoàn cảnh.
- Nắm vững kiến thức trong sách giáo khoa, luôn phát hiện, tìm tòi thêm các từ ngữ, câu văn hay để học tập.
C. KẾT LUẬN
Mở rộng vốn từ tiếng Việt thực chất là hướng cho các em học sinh phát hiện, tìm thêm các từ ngữ, câu văn đồng nghĩa, trái nghĩa, giàu hình tượng, giàu sức biểu cảm và hoa mỹ. Biết cách sử dụng câu, từ hợp với ngữ cảnh trong nói và viết. Đây là công việc cần phải làm đối với một giáo viên cũng như là trách nhiệm trước thực trạng sử dụng câu, từ, ngôn ngữ bừa bãi của học sinh hiện nay. Hơn lúc nào hết việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cần phải được chú trọng. Mở rộng vốn từ tiếng Việt là một trong những việc nhằm hướng đến công việc cấp thiết đó.
Chuyên đề tôi nghiên cứu chỉ nêu lên được một phương pháp rất nhỏ. Tôi cho rằng đây là một
đề tài lớn bởi tính khẩn thiết, tầm quan trọng và sự tác động sâu sắc của vấn đề đến những người "chủ nhân tương lai của đát nước". Tôi cũng tin tưởng rằng các bạn đồng nghiệp sẽ còn có những ý tưởng, những phương pháp khác cho việc mở rộng vốn từ tiếng Việt. Bản thân tôi luôn luôn mong muốn và chờ đợi những ý kiến góp ý và bổ sung để chuyên đề của tôi có thể được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nong Hung Cuong
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)