Chuyên đề tổ Văn

Chia sẻ bởi Nguyễn Phú Được | Ngày 01/05/2019 | 54

Chia sẻ tài liệu: Chuyên đề tổ Văn thuộc Power Point

Nội dung tài liệu:


Chào mừng quý thầy cô về dự chuyên đề:



Giáo viên thực hiện: Huỳnh Tấn Hưng
Năm học: 2011 - 2012
Tổ Văn
“Cách xác định lỗi và chữa lỗi chính tả cho
học sinh THCS
PHẦN MỘT: 
PHẦN MỞ ĐẦU
Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt có thể nói là một công việc lớn. Công việc ấy đặt ra cho cả cấp học, cho mọi người dân Việt Nam. Đối với người đang trực tiếp học tập và sử dụng ngôn ngữ như học sinh thì nhiệm vụ ấy được đặt ở vị trí cao.Thực trạng hiện nay, học sinh THCS đang mắc phải khá nhiều lỗi về tiếng Việt, lỗi trong phạm vi chính tả, từ, câu… Trước yêu cầu và thực trạng của vấn đề, tôi thấy việc tìm hiểu các lỗi tiếng Việt trong học sinh THCS để có biện pháp khắc phục là một công việc lí thú và cần thiết. Thuật ngữ “chính tả” hiểu theo nghĩa gốc là “phương pháp viết đúng” hoặc lối viết hợp chuẩn. Cụ thể, chính tả là một hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách phiên âm tiếng nước ngoài… Ở bậc THCS thì PPCT không qui định cụ thể tiết tập viết chính tả. Tuy nhiên, vẫn có đưa ra bài tập rèn luyện chính tả trong cả ba phân môn Văn, TLV và Tiếng Việt. Việc rèn luyện chính tả có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì quá trình rèn luyện chính tả giúp học sinh nắm vững hình thành kĩ năng, kĩ xảo chính tả. Ngoài ra, còn rèn cho học sinh các phẩm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý tiếng Việt và chữ viết của tiếng Việt. Từ những lí do chủ quan và khách quan đã nêu trên thôi thúc tôi chọn và thực hiện đề tài “Xác định lỗi và chữa lỗi chính tả cho học sinh THCS”.
1. Lý do chọn đề tài:
2. Nhiệm vụ của đề tài:
Đề tài tập trung vào các vấn đề sau:
- Một số cơ sở lí luận.
Thực tiễn và thực trạng của học sinh đối với việc viết chính tả
ở bậc THCS.
3. Phạm vi của đề tài:
Đề tài tập trung trình bày một số kinh nghiệm xác định lỗi và chữa
lỗi cho học sinh có hiệu quả.
4. Đối tượng nghiên cứu: 
Các bài viết TLV của học sinh lớp 6, 7, 8, 9 trường THCS Ba Trinh.
PHẦN HAI: 
PHẦN NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:    
I- Cơ sở khoa học:
-Việc chuẩn hóa tiếng Việt trong nhà trường là một yêu cầu đúng đắn, mang đầy đủ tính lý luận cũng như thực tiễn, tính cấp thiết trước mắt cũng
như tính lâu dài. Bởi lẽ, tiếng Việt được chia làm 3 phương ngữ chính:
+ Phương ngữ Nam Bộ.
+ Phương ngữ Trung  Bộ.
+ Phương ngữ Bắc Bộ.
Chuẩn hóa tiếng Việt nhằm khắc phục lỗi, phân biệt phương ngữ trên
chữ viết và hạn chế phân biệt trên cách phát âm.       
II- Cơ sở thực tiễn:
-Theo “Báo cáo Tình hình chính tả văn bản tiếng Việt” do Viện Công nghệ
Thông tin -  ĐH Quốc gia Hà Nội cho thấy, tỷ lệ lỗi chính tả trong văn bản
tiếng Việt đã ở mức báo động, vượt quá cao so với tiêu chuẩn (tiêu chuẩn
cho phép là 1%). Tỉ lệ lỗi chính tả Tiếng Việt hiện nay là 7,79%.
Qua thống kê lỗi chính tả của học sinh, chủ yếu các em mắc phải những
lỗi sau:
II- Cơ sở thực tiễn:
-Lỗi trong phạm vi chính tả: Các em không thể phân biệt rõ dấu hỏi,
dấu ngã, không phân biệt được phụ âm d - gi trong nhiều trường hợp,
lỗi âm cuối n - ng, t - c, lỗi âm đệm u - ô, lỗi âm chính o - ô, a – ê, còn
tùy tiện khi viết “i”- “y”.  Những lỗi này hoàn toàn sửa được, bởi tiếng
Việt là ngôn ngữ thống nhất. Mặt khác là đối tượng trung tâm của
trường học, học sinh được sự quan tâm giúp đỡ của thầy giáo, cô giáo,
gia đình và toàn xã hội.
- Trong đề tài này tôi chỉ đề cập đến hai lỗi thường gặp của học sinh
THCS là: Viết sai dấu hỏi- ngã, viết “i” hay “y”.
B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I- Mục đích của đề tài:
- Phát hiện những lỗi chính tả của học sinh THCS.
- Đề tài nhằm phục vụ cho học sinh và nghiên cứu giảng dạy của giáo viên.
II- Yêu cầu của đề tài:
1. Yêu cầu trong khi thực hiện đề tài:
Phát hiện đúng, chính xác lỗi của học sinh đã thành quy luật và mang tính
đặc trưng nhất.
- Tham khảo ý kiến đồng nghiệp và tài liệu.
2. Yêu cầu sau khi hoàn thành:
- Tìm ra quy luật về lỗi chính tả đã có.
- Đề ra được phương pháp khắc phục thích hợp.
C- NGUYÊN NHÂN – BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC:     
 I- Nguyên nhân:
Học sinh sở dĩ phạm các lỗi trên là do ba nguyên nhân sau:
1. Loại lỗi sai do không nhớ, không thuộc mặt chữ do thiếu ý thức
rèn luyện (đây là nguyên nhân chủ yếu).
2. Loại lỗi sai do không nắm được quy tắc.
3. Loại lỗi viết sai do ảnh hưởng của phương ngữ.
II- Phương pháp khắc phục:
1. Đối với việc phân biệt thanh hỏi - thanh ngã:
Có hai cách để khắc phục: Thứ nhất học thuộc lòng, thứ hai là nắm
mẹo luật- qui tắc.
 Thứ nhất: Học thuộc lòng:
 Thứ nhất: Học thuộc lòng:
II- Phương pháp khắc phục:
1. Đối với việc phân biệt thanh hỏi - thanh ngã:
-Trong tiếng Việt từ có dấu hỏi nhiều hơn từ có dấu ngã, do đó cách học
thông minh nhất là nhớ những trường hợp viết dấu ngã còn lại là viết dấu hỏi.
Bất kỳ văn bản nào những từ sau đây thường xuất hiện nhiều: chỗ, cũng, đã
(đã rồi), giữa, giữ, lẽ (lẽ phải), mãi (mãi mãi), nỗi (nỗi niềm), nữa (còn nữa),
những, sẽ (sẽ làm), vẫn (vẫn thế) 12 từ này luôn mang dấu ngã, học sinh chỉ
cần học thuộc thì đã giải quyết được 50% lỗi hỏi - ngã.   
Ngoài 12 trường hợp trên, chúng ta cần chú ý một số trường hợp khác
có tần suất khá cao, theo giáo sư: Phan Ngọc “chỉ cần học thuộc học sinh đã hạn chế được gần 90% lỗi viết sai dấu hỏi, dấu ngã”.
Đó là các từ: Cãi (cọ), Chỗ, cỗ (mâm) cỡ, cũ (mới), cũng (vậy), bão, bãi
(bờ), đã, dũng, dữ, đã (rồi), nữa (thêm), rõ, sẽ (làm), sĩ, hãy, hễ, hỗn (hợp), 
hữu, kỹ (càng) kỹ (thuật), lũy, lãnh (lãnh đạo), lão, lẽ (ly ù), lỗ (lời), lũ (lụt), lũ
(lượt) trĩu, vẫn (còn), vẽ (vời), vĩ, võng, vỡ (tan), lũng, lưỡi, lưỡng, mãi, mãnh
(liệt), mẫu, mỗi, mỡ (màng), mũ, mũi, ngã (ngữa), nghĩ (ngợi), ngõ (ngách),
ngũ (cốc) nhã, những, nỗi (niềm), vũ, vũng, xã, rã (rời).    
 Thứ hai: Dùng mẹo luật hoặc qui tắc:
II- Phương pháp khắc phục:
1. Đối với việc phân biệt thanh hỏi - thanh ngã:
Trừ một số địa phương thuộc miền Bắc, hầu hết người miền Trung và miền Nam đều phát âm những từ có dấu thanh hỏi, ngã không phân biệt được cường độ của chúng nên khi viết cũng hay nhầm lẫn giữa hai dấu này. Có thể khăc phục tình hình này không? Câu trả lời là có nếu ghi nhớ được một số qui tắc sau:
1.1.1. Từ ghép là loại từ ghép hai âm tiết trở lên mà một lượng lớn từ thoạt nhìn giống từ láy. Chẳng hạn các từ l ỡ dở, lí lẽ, lú lẫn, mồ mả, mỏi mệt, giữ gìn, nghỉ ngơi, sửa chữa, nhỏ nhẹ, sửa soạn, giãy nảy, nhểu nhão, kiêng cữ, ủ rũ... Điều cần nhớ là hai âm tiết của từ ghép đều có nghĩa chân xác. Tình hình cũng giống như loại từ ghép ăn uống, nhà cửa, quần áo, đau ốm... Tức là mỗi âm tiết của từ láy nếu đứng riêng thì trở thành một từ có nghĩa xác định.
1.1.2. Nhưng từ láy lại khác. Đó là từ cũng có cấu tạo từ hai âm tiết trở lên nhưng ít nhất có một âm tiết không có nghĩa xác định. Chẳng hạn loại từ có cả hai âm tiết đều không có nghĩa như lởn vởn, lủng củng, lững thững, tủn mủn, xởi lởi, đủng đỉnh... Một số từ khác lại có âm tiết đứng trước hoặc đứng sau không mang nghĩa như lỏng lẻo, mủm mỉm, nhỏ nhẻ... Tức là nếu tách ra thì các âm tiết lẻo, mủm, nhẻ không có nghĩa xác định. Nói khác, chúng không phải là một từ khi đứng riêng.
1.2. Quy tắc trầm bổng:
1.2.1. Quy tắc trầm chi phối từ láy có một âm tiết mang dấu thanh là huyền, nặng, ngã thì âm tiết đi cùng cũng có dấu ngã.
Ví dụ: từ láy có một âm tiết mang thanh huyền mùi mẽ, mỡ màng, phè phỡn, phũ phàng, rành rẽ, rầu rĩ, rũ rượi, sàm sỡ, sỗ sàng, sững sờ, sừng sững, tầm tã, tròn trĩnh, vững vàng, vỗ về, vòi vĩnh, vẽ vời, xoàng xĩnh,
bão bùng, bẽ bàng, buồn bã, còm cõi, chồm chỗm, dễ dàng, đẫy đà, hãi hùng, hỗn hào, hững hờ, kĩ càng, lỡ làng, lững lờ, não nùng, ngỡ ngàng...
Ví dụ 2: từ láy có một âm tiết mang thanh nặng bụ bẫm, chặt chẽ, chập chững, dạn dĩ, doạ dẫm, dựa dẫm, đẹp đẽ, đĩnh đạc, gạ gẫm, gặp gỡ, giặc giã, gọn ghẽ, hợm hĩnh, khập khiễng, lạnh lẽo, lạc lõng, lọc lõi, nhạt nhẽo, ngặt nghẽo, nghễu nghện, ngỗ ngược, õng ẹo, quạnh quẽ, rộn rã, rộng rãi, rũ rượi, thưỡn thẹo, gỡ gạc, giãy giụa, não nuột, nhễ nhại, nhẵn nhụi...
Ví dụ 3: từ láy có một âm tiết mang thanh ngã lã chã, lẽo đẽo, lõm bõm, lõng bõng, lỗ chỗ, lững thững, nhõng nhẽo...
1.2. Quy tắc trầm bổng:
1.2.2. Quy tắc bổng chi phối từ láy có một âm tiết mang dấu thanh ngang, sắc, hỏi thì âm tiết đi cùng cũng có dấu hỏi.
Ví dụ 1: từ láy có một âm tiết mang thanh ngang da dẻ, dai dẳng, dư dả, đon đả, nham nhở, thong thả, thơ thẩn, sa sả, vui vẻ, xây xẩm, leo lẻo, hả hê, hở hang, lẻ loi, mỏng manh, mở mang, rủ rê, nể nang...
Ví dụ 2: từ láy có một âm tiết mang thanh sắc bướng bỉnh, cứng cỏi, gắng gỏi, gắt gỏng, khấp khởi, kháu khỉnh, hắt hủi, hóm hỉnh, hiểm hóc, hớn hở, lắt lẻo, lấp lửng, láu lỉnh, mát mẻ, nhảm nhí, phấp phỏng, rẻ rúng, rác rưởi, tấp tểnh, trắng trẻo, vất vưởng, vớ vẩn, vắng vẻ, xấp xỉ, xó xỉnh, xối xả, tỉnh táo, thẳng thắn, gởi gắm,...
1.2. Quy tắc trầm bổng:
Ví dụ 3: từ láy có một âm tiết mang thanh hỏi thỏ thẻ, hổn hển, bủn rủn, đủng đỉnh, lảo đảo, lủng củng, lỏng lẻo...
Lưu ý 1: Để ghi nhớ quy tắc hài thanh trầm bổng (huyền-ngã-nặng/ngang-hỏi-sắc), người ta có hai câu lục bát sau:
Em huyền mang nặng ngã đau,
Anh ngang sắc thuốc hỏi đầu bớt chưa.
Lưu ý 2: Ngôn ngữ nào cũng có ngoại lệ nên quy tắc hài thanh tiếng Việt cũng có một số ngoại lệ sau:
Âm tiết có thanh ngang nhưng âm tiết đi cùng lại có thanh ngã: khe khẽ, lam lũ, ngoan ngoãn, nông nỗi, trơ trẽn, ve vãn...
Âm tiết có thanh huyền láy với âm tiết có thanh hỏi: bền bỉ, chàng hảng, chồm hổm, chèo bẻo, niềm nở, phỉnh phờ, sừng sỏ.
-Âm tiết có thanh nặng đi với thanh hỏi: gọn lỏn, nhỏ nhặt, vẻn vẹn...
2. Quy tắc dấu thanh đối với từ Hán Việt:
Hơn 60% tiếng Việt có nguồn gốc Hán nhưng phát âm Việt nên gọi ghép là từ Hán Việt để phân biệt với từ thuần Việt. Đa số từ Hán Việt có cấu tạo từ hai âm tiết trở lên và thường mang nghĩa khái quát cao.
2.1. Quy tắc thanh ngã của từ Hán Việt được ghép thành công thức mình nên nhớ là viết dấu ngã. Tức là với những từ Hán Việt có phụ âm đầu M, N. Nh, L, V, D, Ng thì phải viết thanh ngã. Ví dụ: M (mãnh liệt, mãn khoá, minh mẫn, mẫu hệ, mẫu giáo, mĩ thuật, mĩ lệ...), N (não bộ, truy nã, nỗ lực, phụ nữ...), Nh (nhãn hiệu, nhẫn nại, truyền nhiễm, thổ nhưỡng, nhũ mẫu), L (lão hoá, lãnh đạo, lãnh tụ, lãng phí, lễ nghĩa, lũng đoạn, tích luỹ...),V (vãn hồi, vãng lai, vĩ đại, vĩ tuyến, viễn xứ, vĩnh viễn...), D (dã man, hướng dẫn, dĩ vãng, dĩ nhiên, diễn viên, diễm lệ...), NG/NGH (bản ngã, ngôn ngữ, ngưỡng mộ, đội ngũ, nghĩa vụ, nghĩa trang...)
2.2. Quy tắc thanh hỏi được áp dụng với mọi phụ âm còn lại (tức là trừ các phụ âm nói trên) và các nguyên âm A, Â, Ô, Y kể cả âm đệm U.
2.2.1.Với các phụ âm B: bảo vệ, bản lĩnh, dân biểu, bảng nhãn... (Ngoại lệ: bãi công, bãi chức, bãi khoá, hoài bão, bão hoà), C: cảm tình, cảnh cáo, cẩn thận, cổ tích, củng cố, cử hành, nghĩa cử... (Ngoại lệ: cưỡng bức, linh cữu), Ð: đảm nhiệm, can đảm, đảng phái, điển hình, đả kích... (Ngoại lệ: đãi ngộ, đãng trí, phóng đãng, hiếu đễ, đỗ trọng, đỗ quyên), H: hải cảng, hải quân, hảo hạng, hoan hỉ, hiển vinh, hủ tục, hoả pháo, hoả tiễn, hoảng hốt... (Ngoại lệ: sợ hãi, kinh hãi, hãm hại, hung hãn, kiêu hãnh, hoãn binh, trì hoãn, hỗ trợ, hỗn hợp, huyễn hoặc, hữu nghị, hữu hạn, hãng), K: kỉ cương, kỉ luật, kỉ niệm, kiểm điểm...(Ngoại lệ: kĩ nữ, kĩ nghê, kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo, kĩ sư, kĩ lưỡng), KH: khả ái, khả năng, khải hoàn, khảo cổ, khẩn cấp, khỏa thân, khẩu khí, khiển trách, khủng bố, khuyển nho..., PH: gia phả, phản chiếu, phản ánh, phẩm chất, phủ định... (Ngoại lệ: phẫn nộ, phẫn uất, phẫn chí, phẫu thuật), Q: quả cảm, quả phụ, quản lí, quản giáo, quảng cáo, quảng đại, quảng trường, quỷ kế, quỷ quyệt... (Ngoại lệ: quẫn bách, quẫn trí, cùng quẫn, quỹ đạo), S: sản sinh, sản vật, sở hữu, sủng ái, lịch sử... (Ngoại lệ: sĩ, suyễn,sãi), T: miêu tả, vận tải, tản cư, tẩu thoát, tử trận, phụ tử, tiểu tiết... (Ngoại lệ: tiễn biệt, hỏa tiễn, tiễu trừ, tĩnh mịch, tuẫn tiết), TH: sa thải, thảm kịch, thảm họa, thản nhiên, thảng thốt, thảo mộc, thiểu số, thiển cận... (Ngoại lệ: mâu thuẫn, hậu thuẫn, phù thũng), TR: triển khai, trở lực, trưởng giả, trưởng nam... (Ngoại lệ: trữ lượng, tích trữ, trẫm, chim trĩ, ấu trĩ, bệnh trĩ), X: xả thân, xảo trá, ngu xuẩn, xử lí, công xưởng.... (Ngoại lệ: xã hội, xã tắc, xã giao).
2.2.2. Với các nguyên âm A (ảo ảnh, ảm đạm, quan ải...), Â (ẩn sĩ, ẩn số, ẩn dật, ẩm thực...), Ô (ổn định, ổn áp, ổn thoả...), Y (ỷ lại, ỷ thế, yểm hộ, yểm trợ, yểu mệnh, yểu tử...), U (ủng hộ, uổng mạng, uổng phí, uẩn khúc, uỷ nhiệm, ủy quyền, uỷ viên, uỷ thác, uyển chuyển...).
2- Khi nào viết “i”, “y”?
Hiện nay có nhiều ý kiến tranh cãi nên viết “i” hay “y”. Đây quả là một câu chuyện tốn nhiều bút mực. Theo “Quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục” của Bộ Giáo dục và Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam thì có một số quy tắc về viết “i" và “y” như sau:
- Nguyên âm trong các âm tiết mở, theo quy định là phải viết i ngắn: kĩ (thuật), lí (thuyết), mĩ (thuật), hi (vọng), (nghệ) sĩ...- Nguyên âm đứng một mình (âm tiết độc lập) thì sẽ viết i ngắn nếu là từ thuần Việt: ỉ (eo), ì (à) ì (ạch), (béo) ị, (ầm) ĩ,... và y dài, nếu là từ Hán Việt: ý (kiến), (lưu) ý, y (sĩ), (chuẩn) y...
- Nguyên âm đứng đầu âm tiết, có tổ hợp nguyên âm hoặc nguyên âm đôi, viết y dài: yêu (quý), yểu (điệu), yến (tiệc), yêng (hùng), huỳnh huỵch...
- Trong các âm tiết nửa mở, có nhiều trường hợp thể hiện bằng hai con chữ i, y nhưng thực chất có sự khác biệt (do sự nhầm lẫn chính tả). Nếu là tổ hợp nguyên âm [ui], như trong các từ quy (tắc), (thâm) thúy, (ma) túy, (xương) tủy, quỵ lụy... thì viết y dài. Nếu là tổ hợp nguyên âm [uj], như trong các từ cúi (đầu), túi (quần), tủi (hổ), xúi (bẩy), (tàn) lụi... thì viết i ngắn.
Quy định này được áp dụng cho các sách giáo dục và từ điển tiếng Việt. Thế nhưng, trong thực tế do thói quen ngôn ngữ và văn hóa mà trong nhiều trường hợp cả “i” và “y” vẫn đều được chấp nhận là cách viết đúng, đặc biệt là tên riêng thì dù không đúng với chuẩn mực vẫn cần được tôn trọng. GS Nguyễn Lân Dũng từng nói rằng ông đã viết quen những từ như “kỹ thuật”, “lý thuyết”…, bây giờ mà sửa lại thấy khó quá. Bản thân chúng ta, với tâm lý sử dụng ngôn ngữ theo thói quen, đôi khi là theo sự thuận tiện, cảm thấy những từ kiểu như thế này mà dùng “i ngắn” trông cứ ngường ngượng thế nào. Chuyện dùng “i” hay “y” cũng từng được bàn luận khá hay trên tạp chí “Ngôn ngữ & Đời sống”, Văn học và tuổi trẻ.
2- Khi nào viết “i”, “y”?
III- Vai trò của giáo viên, học sinh đối với sửa lỗi:
1. Đối  với giáo viên  cần phải có:
- Kiến thức về tiếng Việt.
- Trách nhiệm và vai trò của mình trong nhà trường và trách nhiệm trước nghề nghiệp. Từ đó giáo viên thiết kế chương trình rèn luyện sao cho phù hợp với học sinh để có hiệu quả cao.
- GV cần phải chăm chút từng trang vở học trò, đặc biệt là trong khi chấm và trả bài viết Tập làm văn, lồng ghép việc chữa lỗi chính tả cho học sinh, biến tiết học này thành một hoạt động phong phú, đa dạng, không lãng phí thời gian. Theo quan điểm của riêng tôi, đối với học sinh THCS, những từ thông dụng phổ biến thì phải viết đúng chính tả; những từ ít gặp, HS ít dùng (từ Hán Việt, thuật ngữ, từ chuyên môn...) giáo viên cần động viên, khích lệ học sinh viết đúng dần.
III- Vai trò của giáo viên, học sinh đối với sửa lỗi:
1. Đối  với giáo viên  cần phải có:
2. Đối với học sinh:
- Phải có ý thức rèn luyện chính tả, xem mỗi lỗi chính tả như là một con sâu phá hỏng vườn hoa Tiếng Việt. Từ nào chưa rõ thì hỏi Thầy cô, trao đổi với bạn bè, tra Từ điển... Đặc biệt là tăng cường việc đọc thêm sách báo.
- Phải tích cực tự giác trong việc tìm lỗi của mình và sửa chữa. Người học chính là đối tượng quyết định sự thành bại của bản thiết kế.
- Khi người học người dạy kết hợp với nhau một cách tâm đắc thì sẽ hoàn thành nhiệm vụ đặt ra.
PHẦN BA: 
KẾT LUẬN
KẾT LUẬN
Với mong muốn cho học sinh mình giảm dần lỗi chính tả Tiếng Việt khi tạo lập văn bản, ngày càng có nhiều bài văn hay, vở sạch, chữ đẹp ít mắc lỗi chính tả, bản thân tôi luôn nỗ lực tìm hiểu và tham khảo nhiều tư liệu để tích cóp những kiến thức bổ ích giúp các em phát hiện và chữa được nhiều lỗi chính tả. Qua thời gian áp dụng đề tài vào thực tế tôi nhận thấy tuy số lỗi chưa phát hiện được nhiều, cách phát hiện và chữa lỗi còn mang tính chủ quan song kết quả bước đầu của đề tài có giá trị thực tiễn trong giảng dạy của tôi. Trong năm học 2011- 2012 nhờ sự rèn luyện theo các biện pháp trên, các lớp tôi dạy đã tiến bộ dần về chữ viết, lỗi chính tả.
Mặc dù tôi đã rất cố gắng nhưng những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu là không thể tránh khỏi, tôi tha thiết mong sự bổ sung những ý kiến quý báu của đồng nghiệp và của các bạn đọc để đề tài được đầy đủ và hoàn thiện hơn.                         
Thân ái kính chào!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Phú Được
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)