Chuyên đề Quá trình mở rộng lãnh thổ Việt Nam qua các triều đại phong kiến

Chia sẻ bởi Tiết Thị Hồng Chuyên | Ngày 27/04/2019 | 67

Chia sẻ tài liệu: Chuyên đề Quá trình mở rộng lãnh thổ Việt Nam qua các triều đại phong kiến thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

CHUYÊN ĐỀ LỊCH SỬ:
LÃNH THỔ VIỆT NAM QUA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN
PHÒNG GD – ĐT QUẬN 6
TRƯƠNG THCS NGUYỄN ĐỨC CẢNH
Giáo viên thực hiện: Tiết Thị Hồng Chuyên
Tổ: Lịch sử
I. Thời Hồng Bàng
 Một số sử liệu cho rằng vào đầu thời kỳ Hồng Bàng, bộ tộc Việt có lãnh thổ rộng lớn từ phía nam sông Dương Tử đến vùng Thanh Hóa.
Sau này nhà nước Văn Lang của bộ tộc Lạc Việt hình thành trên vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng Sông Lam ,rồi đến thời kỳ Âu Lạc,Thục Phán sau khi chiếm được Văn Lang đã sát nhập vào đất của mình, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang (Quảng Tây-Trung Quốc) kéo xuống dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh)
II. Thời Bắc thuộc
Lãnh thổ của dân tộc Việt thời kỳ này, trong sự cai quản của chính quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao Châu) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâu vì sau đó Chiêm Thành thường lấy lại được. Ranh giới lãnh thổ về phía nam đôi khi được nhắc trong sử liệu là một cột mốc bằng đồng dựng lên bởi Mã Viện sau khi chinh phạt sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, còn gọi là cột đồng Mã Viện.
Lãnh thổ Việt Nam thời Bắc thuộc.
An Nam đô hộ phủ thời Đường.
III. Thời phong kiến tự chủ
Nhà Ngô-Đinh-Tiền Lê
 Sau khi giành độc lập từ Trung Quốc, trong thời đại Ngô-Đinh-Tiền Lê kéo dài 70 năm (939-1009) lãnh thổ của Việt Nam tương ứng với lãnh thổ nhà nướcVăn Lang cũ. Ranh giới phía nam tại dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh)
IV. Quá trình Nam tiến
Do đặc điểm địa-chiến lược, trong tiến trình lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam mở rộng lãnh thổ sang phía Đông thì gặp biển, phía Tây thì bị các dãy núi hiểm trở của dãyTrường Sơn ngăn cản, phía Bắc là lãnh thổ của người khổng lồ Hán, nên chỉ có thể lần lượt chinh phục và khai phá về phương Nam. Hành trình Nam tiến kéo dài gần 700 năm, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập đến khi hoàn thành lên 3lần, từ thế kỷ thứ XI đến giữa thế kỷ XVIII lãnh thổ Việt Nam về cơ bản được hình thành và tồn tại như hiện nay.
1. Nhà Lý



Năm 1069, Lý Thánh Tông nam chinh đánh Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Jaya Rudravarman). Vua Chiêm đã cắt 3 châu: Mê Linh, Bố Chính, Địa Lý nay thuộc Quảng Bình, bắc Quảng Trị cho Đại Việt
Việt Nam thời Lý - Trần (trước năm 1306)
Lãnh thổ Đại Việt khoảng năm 1010
dưới thời nhà Lý
2. Nhà Trần

Năm  1306 nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Mân. Đổi lại Chế Mân dâng đất cho Đại Việt gồm Châu Ô và Châu Rí, nay thuộc vùng nam Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, lãnh thổ Đại Việt phía nam tới đèo Hải Vân
3. Dưới triều Hồ

(1400-1407)
. Năm 1402, nhà Hồ xâm chiếm Chiêm Thành và nhận được Chiêm Động chia thành hai châu Thăng và Hóa; đồng thời nhận được Cổ Lũy chia thành 2 châu Tư và Nghĩa. Châu Thăng và Hóa ngày nay thuộc huyện Duy Sơn, Quế Sơn, Tam Kỳ Thăng Bình của tỉnh Quảng Nam, Châu Tư và Nghĩa nay thuộc huyện Đức Phổ, Mộ Đức, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Bình Sơn của tỉnh Quảng Ngãi. Lãnh thổ phía Nam Việt Nam được mở rộng đến Quảng Nam và Quảng Ngãi.Nhưng khi nhà Minh cai trị thì khu vực này bị Chiêm Thành chiếm lại
Nước Đại Ngu thời nhà Hồ 1402
5. Nhà Hậu Lê

1471, quân Đại Việt phá tan kinh đô Đồ Bàn (thuộc Bình Định ngày nay), tiêu diệt vua Trà Toàn cùng 7 vạn quân Chiêm Thành, và sát nhập miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân đến bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt, đặt tên vùng đất mới là thừa tuyên Quảng Nam. Lãnh thổ của Đại Việt được kéo về phía nam đến núi Thạch Bi, nay thuộc Phú Yên
6. Nhà Nguyễn
Do áp lực tấn công của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và nhu cầu đất đai, các chúa Nguyễn đã tiến hành những đợt nam tiến vĩ đại, mở rộng lãnh thổ Đại Việt chưa từng thấy.

Năm 1611, Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh đem quân vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuyên Hòa, nay thuộc Phú Yên. Đến năm 1653 chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ tới Khánh Hòa.
- Tháng Tám năm 1692, chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Chu, chiếm Chiêm Thành và đến năm sau đổi tên thành Thuận Thành, xóa bỏ sự tồn tại của Chiêm Thành với tư cách một quốc gia.
Năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm và chính thức sát nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành là Bình Thuận, Ninh Thuận
Bản đồ Việt Nam thời Trịnh – Nguyễn phân tranh
Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Sài Gòn lập dinh, chia trấn, bổ nhiệm quan lại chính thức đưa khu vực các tỉnh miền Đông Nam Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong.
- Năm 1718, Mạc Cửu (thương nhân người Hoa) người khai phá vùng đất Hà Tiên, Kiên Giang (của Chân Lạp) xin nội thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn phong chức Tổng binh cai quản
- Từ năm 1736-1739, Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) khai phá thêm vùng đất Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng (của Chân Lạp) đưa vào lãnh thổ Đàng Trong.
- Từ năm 1732-1757, do nhu cầu được các chúa Nguyễn hỗ trợ lên ngôi và bảo vệ trước Xiêm La, lần lượt các vua của Chân Lạp đã dâng từng phần vùng đất còn lại ở đồng bằng sông Cửu Long cho các chúa Nguyễn.

V. HOÀN THIỆN LÃNH THỔ
Năm 1816, vua Gia Long chính thức cho cắm cờ, xác lập chủ quyền, giao đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thay mặt quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước đó khoảng 200 năm các Chúa Nguyễn cũng đã lập đội Hoàng Sa hằng năm đi ra các đảo tìm kiếm sản vật
Năm 1830, vua Minh Mạng sát nhập vùng Tây Nguyên vào lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên các bộ tộc người Thượng vẫn được quyền tự trị của mình cho tới năm 1898 khi người Pháp trực tiếp tổ chức cai trị ở đây
VI. Việt Nam ngày nay

Lãnh thổ Việt Nam ngày nay có hình chữ S chạy dài theo hướng Đông Nam của bán đảo Đông Dương , từ Hà Giang tới Cà Mau.
Diện tích khoảng 331.690 km²
Khoảng cách từ bắc tới nam là khoảng 1.650 km
Đường bờ biển dài 3.260 km
Lãnh hải rộng lớn (Việt Nam tuyên bố 12 hải lý ranh giới lãnh hải, thêm 12 hải lý tiếp giáp nữa theo thông lệ và vùng an ninh, và 200 hải lý làm vùng đặc quyền kinh tế). Hai quần đảo lớn là Trường Sa, Hoàng Sa. Đảo lớn nhất là Phú Quốc và rất nhiều các hòn đảo nhỏ khác.
KẾT LUẬN
Như vậy, trong buổi đầu lịch sử cương vực nước ta chỉ gồm vùng đồng bằng, trung du miền núi Bắc bộ nay. Đầu thời phong kiến tự chủ mới đến bắc dãy Hoành Sơn. Thời Lý (thế kỷ XI) đã ổn định biên giới vùng Đông Bắc và về phía Nam kéo tới sông Thạch Hãn (Quảng Trị). Sang đời Trần bắt đầu kinh dinh vùng Tây Bắc và Tây Nghệ An, Thanh Hoá vào kéo cương giới phía Nam đến đèo Hải Vân và nhà Hồ tiếp tục phát triển vào đến Quảng Ngãi. Nhà Hậu Lê đã ổn định biên giới phía Tây và mở mang bờ cõi phiá Nam tới Bình Định. Họ Nguyễn phát triển lãnh thổ vào đến Hà Tiên, Cà Mau và bắt đầu kinh dinh vùng cao nguyên phía Tây.
Trong thời hiện đại, sau 30 năm chiến tranh (1945-1975) và những tranh chấp về đường biên mốc giới kéo dài hơn 10 năm, tới cuối thế kỷ XX Chính phủ Việt Nam đã ký Hiệp ước biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia và nước Việt Nam có diện mạo ngày như ngày nay.
Chuyên đề kết thúc tại đây.
Xin cảm ơn và rất mong sự đóng góp của quý thầy cô.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Tiết Thị Hồng Chuyên
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)