Chuyên đề Ngữ văn 7
Chia sẻ bởi Đỗ Thị Lệ Thúy |
Ngày 21/10/2018 |
33
Chia sẻ tài liệu: Chuyên đề Ngữ văn 7 thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Phòng giáo dục và đào tạo vĩnh yên
Trường THCS Liên Bảo
Người thực hiện: Đỗ Thị Lệ Thúy
Chuyên đề lý thuyết môn ngữ văn 7
"Dạy môn ngữ văn theo hướng
tích hợp"
Phần I: Đặt vấn đề
1.Lý do chọn đề tài:
Môn Ngữ Văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó chứng tỏ nó có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Nó còn là môn học có mối quan hệ rất mật thiết với các môn học khác, và các môn học khác cũng có thể góp phần học tốt môn Ngữ Văn.
Xuất phát từ những căn cứ đó ta thấy môn Ngữ Văn có một vị trí đặc
biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường THCS. Giúp hình
thành những con người có trình độ phổ thông cơ sở học lên những bậc cao hơn đó là những con người có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng đúng, tình cảm đẹp, có lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người có bản lĩnh, có tư duy sáng tạo, có năng lực cảm thụ cái tốt, cái đẹp trong nghệ thuật trước hết là trong văn học- có năng lực thực hành, có năng lực sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy giao tiếp.
Vậy muốn đạt được mong muốn đó ta phải chú ý đến đổi mới phương pháp dạy văn theo hướng tích hợp.
Ta thường nói tới hai bộ phận Tiếng Việt và Văn học, song từ lâu ta vẫn coi là ba phân môn. Hiện nay theo quan điểm đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn ở trường THCS không còn nữa. Theo quan điểm tích hợp triệt để " Tam vị" hướng và hoà vào " nhất thể" tức là sát nhập làm một.
Việc đổi mới lần này là lần đổi mới toàn diện, triệt để có tính cách mạng thay đổi mục tiêu.
Vậy dạy học theo quan điểm tích hợp là như thế nào có phải là rũ bỏ
toàn bộ cái cũ hay không?
" Giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ nhận việc dạy các tri
thức kỹ năng riêng của từng phân môn. Vấn đề là làm thế nào phối
hợp các tri thức kỹ năng từng phân môn thật nhuần nhuyễn nhằm đạt
tới mục tiêu chung của môn Ngữ Văn"
2. Phạm vi, đối tượng, mục đích của đề tài
Hướng phấn đấu bao quát của Ngữ Văn theo tinh thần tích hợp là hình thành cho học sinh năng lực: Phân tích- bình giá và cảm thụ văn học với việc hình thành bốn kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết.
Với phương pháp này đây là phương pháp kế thừa phương pháp truyền thống và phát huy tính tích cực cao độ của chủ thể học sinh- nhân vật trung tâm. Trong quá trình dạy học môn Ngữ Văn phải đạt được 4 mục tiêu đó là: Tích hợp, giảm tải, tăng thực hành và gắn với thực tế. Nguyên tắc tích hợp này là tìm những điểm quy đồng giữa ba phần: Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong từng đơn vị
kiến thức và rèn kỹ năng thực hành trong mỗi tiết học- bài học được cụ thể hoá bằng nhiều biện pháp- hình thức- hoạt động linh hoạt tổ chức hướng dẫn học sinh học tập.
Trong giáo dục hiện đại, tích hợp là một vấn đề rất lớn, vì thế giờ học Ngữ Văn theo hướng đổi mới phương pháp dạy học không chỉ chú trọng tới hoạt động
của giáo viên mà còn chú trọng tới hoạt động của học sinh, tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng học sinh đều được suy nghĩ, tìm tòi, khám phá để có thể hiểu,
cảm, vận dụng tốt
kiến thức kỹ năng về
về văn học, ngôn ngữ học và hướng tới làm một bài văn đạt kết quả theo hướng tích hợp ba phân môn Ngữ Văn ở lớp 7, trong phạm vi cả nước.
Chào mừng 20-11
Phần II: Nội dung
A.Nội dung cơ sở lý luận khoa học của đề tài
Dựa trên 6 phương thức biểu đạt khi xây dựng văn bản:
tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, hành chính -công vụ. Mỗi bài học sẽ bắt đầu bằng việc tìm hiểu văn bản, sau đó căn cứ trên văn bản này để hướng dẫn các em học về kiến thức- kỹ năng tiếng Việt- làm văn có liên quan. Việc hướng dẫn các em học theo phương pháp này là lựa chọn- tạo nên trục đồng quy giữa văn bản văn học với nội dung các giờ tiếng Việt- Tập làm văn.
Đối tượng phục vụ: Học sinh lớp 7 trong chương trình cải cách.
Với chương trình Ngữ văn THCS giúp cho các em có những tri thức quy ước sử dụng tiếng Việt, các kiểu văn bản thường dùng trong giao tiếp và sáng tác văn học. Những tri thức sơ yếu về Thi pháp, Lịch sử văn học, một số tác gia văn học lớn, một số khái niệm và thao tác phân tích tác phẩm văn học, những hiểu biết về văn hoá qua một số văn bản văn học ưu tú của Việt Nam và thế giới. Biết sử dụng công cụ để giao tiếp, học tập tổ chức điều phối các hoạt động trong cuộc sống.
Yêu cầu mỗi giờ dạy học thuộc 3 phân môn trong từng bài học như một thể thống nhất trong mỗi giờ Văn-tiếng Việt -Tập làm văn, dạy làm sao vừa giữ được bản sắc riêng ,vừa hoà nhập với nhau để hình thành cho học sinh những kĩ năng, năng lực tổng hợp. Đây là một điểm lạ, lạ vì giờ đây một bài học Ngữ văn lại bao gồm cả ba mạch kiến thức kỹ năng Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn và mô hình cấu trúc bài học Ngữ văn là một bài với ba nội dung cụ thể: Kết quả cần đạt- phần chung cho cả ba nội dung. Phần văn bản gồm các phần nhỏ: Văn bản, chú thích văn bản, câu hỏi đọc hiểu văn bản theo 4 loại: đọc- hiểu, suy nghĩ- vận dụng, liên tưởng- tích luỹ, ghi nhớ- luyện tập.
B. ứng dụng vào thực tiễn công tác giảng dạy
Phần kiến thức tiếng Việt gồm: Ví dụ để phân tích, ghi nhớ,bài tập.
Lý thuyết làm văn gồm: Ví dụ để phân tích, ghi nhớ, luyện tập.
Ngoài ra mỗi bài học có phần đọc thêm, tư liệu tham khảo và phần tranh
ảnh. Vì vậy trong mỗi bài học đều nhấn mạnh những điểm đồng quy về kiến
thức kỹ năng giữa 3 phân môn để thực hiện quan điểm tích hợp. Không phủ
nhận dạy riêng từng KTKN của từng phân môn nhưng phải phối hợp thật
nhuần nhuyễn những KTKN của từng phân môn trong mỗi giờ: ( Văn học,
Tiếng Việt, Tập làm văn) yếu tố đồng quy này chính là ngôn ngữ trong văn
bản của mỗi bài học.
Ngôn ngữ cần được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm ngữ âm, từ
vựng, cú pháp mà còn là các kiểu văn bản, các quy tắc ngôn ngữ.để phản
ánh điều mà văn bản muốn thể hiện.
Trong ba nội dung của bài học Ngữ văn, giờ học làm văn có một vị trí đặc
biệt, một mặt nó là giờ học thể hiện kết quả học tập từ hai tiết trước( tìm
hiểu văn bản và rèn luyện kỹ năng Tiếng Việt. Mặt khác là giờ học có tính
chất thực hành tổng hợp để học sinh vận dụng những kiến thức kỹ năng:
Nghe, nói, đọc, viết theo những yêu cầu của sự hội nhập xã hội đặt ra.
I.Quá trình áp dụng của bản thân:
1.Với phân môn Văn cần cho học học sinh nắm được nội dung của
văn bản, cùng với một số thông tin về tác giả, một số khái niệm thuật
ngữ sơ yếu, cần thiết về thi pháp, lịch sử văn học, lý luận văn học và thao tác phân tích tác phẩm. Chính vì vậy đổi mới phương pháp dạy học còn là tôn trọng đề cao những tìm tòi, khám phá thể hiện tính tích cực của học sinh bên cạnh đó phải đảm bảo tính tích hợp trong môn học:
Ví dụ trong bài 19, tiết 73 Tục ngữ về thiên nhiên và lao đông sản xuất chúng ta có thể cho học sinh đi vào tìm hiểu nội dung từng câu tục ngữ . Câu 1 là câu có nội dung như sau: "Một mặt người bằng mười mặt của"; ở câu này chúng ta sẽ ghi lên bảng 2 ý: 1- Nghĩa của câu này là người quý hơn của, quý gấp bội lần;2- Câu tục ngữ khẳng định tư tưởng coi trọng con người, giá trị con người của nhân dân ta. Nhưng học sinh có thể sẽ tư duy và đưa ra những bài học khác vừa lý thú, vừa trong sáng theo suy nghĩ phù hợp với lứa tuổi và phù hợp với từng văn cảnh mà các em bắt gặp trong đời sống: " Phê phán những trường hợp coi của hơn người" " An ủi, động viên những trường hợp mà nhân dân cho là của đi thay ngưòi".
Nói về tư tưởng đạo lý, triết lý sống của nhân dân: đặt con người lên
trên mọi thứ của cải" " Quan niệm về việc sinh đẻ trước đây: muốn đẻ
nhiều con".vì vậy giờ học đã đem lại những ấn tượng sâu sắc cho học
sinh.
Hay văn bản " Ca Huế trên sông Hương" là một văn bản ghi chép lại
một văn hoá truyền thống còn giữ đến ngày nay ở xứ Huế. Bài văn
vừa có những dòng miêu tả rất sinh động về một đêm trăng thơ mộng
trên dòng sông Hương.Vừa giới thiệu được nguồn gốc, đặc điểm và
sự hấp dẫn của những làn điệu dân ca Huế. Như vậy ta phải hướng
cho các em thấy được văn bản đã dẫn các em tới một xứ Huế đẹp và
nên thơ. Có bề dày truyền thống văn hóa. Từ đó các em có thể liên
hệ với những vẻ đẹp tương tự ở những vùng quê khác nhau và có thái
độ ứng xử tốt đẹp với giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc.
Hay trong văn bản " Những trò lố hay là Va ren và Bội Châu" giáo viên phải hướng cho học sinh phát hiện được những yêu cầu sau:
+ Bài văn có thể chia ra làm mấy đoạn, nội dung chính của từng đoạn
là gì?
+ Theo em đây là một tác phẩm ghi chép sự thật hay chỉ là tưởng
tượng hư cấu?
+ Cụm từ " nửa chính thức hứa" và câu hỏi của tác giả " giả thử cứ cho
rằng (.) sẽ "chăm sóc" vụ ấy vào lúc nào và ra làm sao" có ý nghĩa
gì trong việc bộc lộ thực chất lời hứa của Va ren?
+ Trong đoạn văn có 2 nhân vật: Va ren và Bội Châu, được xây dựng
theo quan hệ tương phản, đối lập như thế nào? Số lượng từ và hình thức
ngôn ngữ mà tác giả đã sử dụng trong việc khắc họa tính cách của từng
nhân vật như thế nào?
2. Với phân môn Tiếng Việt nằm trong chương trình tích hợp cùng với Văn học và Tập làm văn. Về nội dung để đảm bảo được tính tích hợp phần Tiếng Việt bao gồm các yếu tố lý thuyết nằm trong hệ thống văn bản chung được trình bày hướng tới phần văn học và Tập làm văn. cụ thể qua phân môn tiếng Việt học sinh có được kiến thức về nhìn nhận, phân tích và khai thác cái hay, cái đẹp trong văn bản văn học, đồng thời có thêm kiến thức, kỹ năng phục vụ cho việc tạo lập các văn bản theo yêu cầu của Tập làm văn.
Song dạy Tiếng Việt cũng cần phải cung cấp kiến thức của riêng phân môn tiếng việt. Nó vừa đảm bảo tính hệ thống trục ngang, vừa đảm bảo tính hệ thống trục dọc.
Về tri thức: Nắm được đơn vị ngôn ngữ của tiếng Việt ( từ, câu, các biện pháp tu từ, cú pháp, các kiểu văn bản) nắm được khái niệm giao tiếp chủ yếu là ngữ cảnh, mục đích giao tiếp.
Về kỹ năng: Thực hành đầy đủ cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết trên cơ sở vận dụng các tri thức lý thuyết một cách chủ động vào các lĩnh vực giao tiếp khác nhau trong đời sống và trong quá trình học tập.
Với phương pháp dạy học theo hướng tích hợp buộc giáo viên phải hướng dẫn học sinh luôn quan tâm đến ngữ cảnh, không được tách các đơn vị ngôn ngữ
ra khỏi văn bản. Cần triệt để khai thác các yếu tố trong văn bản văn học để học tiếng Việt và ngược lại từ các kiến thức về tiếng Việt vận dụng bình giá, phát hiện vẻ đẹp của văn học cũng như vậy đối với quan hệ giữa phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn.
Ví dụ trong tiết dạy về "Câu đặc biệt" Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài tập 1 phần a trang 29.
Học sinh đọc đoạn trích trong bài " Tinh thần yêu nước của nhân dân ta"
Giáo viên hỏi: Tìm những câu đặc biệt và câu rút gọn?
Học sinh sẽ phát hiện ra: không có câu đặc biệt và chỉ có câu rút gọn
Như vậy giáo viên đã kết hợp để học sinh ôn lại kiến thức đã được học về câu rút gọn bằng cách vận dụng vào bài tập.
Hay ở bài "Sống chết mặc bay" học sinh cũng sẽ dễ dàng phát hiện ra :
+ biện pháp nghệ thuật liệt kê và phương thức miêu tả thông qua đoạn
trích giới thiệu về đồ dùng sinh hoạt của viên quan phụ mẫu và cảnh bài trí trong đình.
+ Biện pháp nghệ thuật tương phản, tăng cấp: trong khi những người dân ở ngoài đê đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng bởi tình thế ngày một gay go của khúc đê với cảnh nhàn hạ, sung sướng không có gì là gấp gáp ở trong đình.
Để đạt được những điều đó, giáo viên phải là người hướng dẫn cho các em phát hiện- tìm tòi một cách sáng tạo trong văn bản.
3. Tập làm văn là một trong ba phân môn của Ngữ Văn, nó có vị trí
đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá kết quả học tập bộ môn, thông
qua hệ thống bài tập tạo lập văn bản,cũng như thực hành sử dụng tiếng
Việt trong mỗi bài học trong sách giáo khoa. Trong phân môn Tập làm
văn, phương châm tích hợp là hướng học sinh biết vận dụng những tri thức
của tiếng Việt vào làm văn, vào việc tiếp thu những cái hay, cái đẹp của
văn bản, đồng thời vận dụng các kỹ năng, tri thức về Tiếng Việt, Văn học
vào tạo lập văn bản; phục vụ cho hoạt động giao tiếp trong đời sống hàng
ngày.
Với quan điểm chú trọng tới việc rèn luyện, nâng cao kỹ năng thực hành
nói và viết, tạo lập văn bản tiếng Việt, phân môn Tập làm văn đã xây dựng
theo lối cấu trúc đồng tâm.
Ví dụ kỹ năng đưa và trình bày dẫn chứng trong văn bản nghị luận chứng
minh qua văn bản chứng minh mẫu mực: tinh thần yêu nước của nhân dân
ta.
Thông qua văn bản yêu cầu học sinh xác định thể loại, tìm bố cục ?
Vấn đề nghị luận ở đây là gì tác giả đã nêu vấn đề bằng cách nào?nêu tác
dụng nghệ thuật của cách ấy? Nhận xét về cách nêu vấn đề của tác giả?
ở phần giải quyết vấn đề có 2 đoạn hãy khái quát nội dung cho từng đoạn?
Đoạn 2 chứng minh bằng cách lập luận và dẫn chứng như thế nào?
Đoạn 3: Hệ thống lập luận và dẫn chứng của tác giả ở đoạn văn này
có gì đặc sắc? Nêu nhận xét về cách nêu dẫn chứng? Biện pháp nghệ thuật?
Trong bài này có hai điểm nổi bật về cách diễn đạt, em hãy chỉ ra?
( Học sinh suy nghĩ và sẽ phát hiện ra vấn đề cần tìm là: sử dụng hình
ảnh so sánh và dùng lối nói liệt kê với mô hình " từ.đến")
Giáo viên lại có thể hỏi tiếp: Em hãy phân tích giá trị của từng trường
hợp cụ thể?
Học sinh suy nghĩ và có thể trả lời theo hướng sau:
+ Nhận xét về hình ảnh trong câu ở phần mở đầu: " từ xưa đến nay"
đến " cướp nước" làm cho người đọc có thể hình dung cụ thể và sinh
động về sức mạnh của tinh thần yêu nước. Các động từ trong câu được
chọn lọc, thể hiện sức mạnh với những sắc thái khác nhau( kết thành,
lướt qua, nhấn chìm)
+ Hình ảnh so sánh trong đoạn cuối cùng rất đặc sắc: " tinh thần yêu
nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính,
trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo
trong rương, trong hòm". Bằng những hình ảnh âý người đọc có thể hình
dung rất rõ hai trạng thái của tinh thần yêu nước: tiềm tàng, kín đáovà
biểu lộ rõ ràng, đầy đủ.
+ Thủ pháp liệt kê được sử dụng thích hợp đã có tác dụng thể hiện được
sự phong phú với nhiều biểu hiện đa dạng của tinh thần yêu nước trong
nhân dân, ở mọi tầng lớp, giai cấp, lứa tuổi, ở mọi địa phương. Các vế
trong mô hình liên kết " từ.đến" không phải được đặt một cách tùy tiện
mà đều có mối liên hệ một cách hợp lý, được sắp xếp theo cùng một
bình diện như lứa tuổi, tầng lớp, giai cấp, nghề nghiệp, địa bàn cư trú.
Học sinh có thể học tập theo mẫu này để đặt câu theo lối liệt kê có sử
dụng mô hình liên kết " từ.đến"
Như vậy tức là ta đã chú ý tích hợp giữa phân môn Tiếng Việt với Tập
làm văn. Tiếng Việt: ở biện pháp nghệ thuật liệt kê dẫn chứng, dùng từ.
Tập làm văn: Tìm bố cục bài văn nghị luận; xác định vấn đề cần nghị luận;
và nội dung từng phần của bài văn tương đương với cấu trúc 3 phần của
bài văn nghị luận chứng minh.
II.Hiệu quả khi áp dụng đề tài:
Qua khảo sát thực tế cho thấy khi áp dụng phương pháp giảng dạy này
trong 6 năm học vừa qua tôi thấy học sinh tiếp thu và hiểu bài nhanh, nhớ kiến thức đã được lĩnh hội thông qua từng bài trong chương trình ngữ
văn 6,7.
Cụ thể số lượng học sinh hiểu bài ngay tại lớp đạt xấp xỉ 70%.
Chất lượng đem đến có tiến bộ sau khi khảo sát kết quả học kỳ của các năm học bằng 2 hình thức trắc nghiệm và tự luận.
Hầu hết các em hiểu bài, một số em đạt điểm cao trong bài kiểm tra
học kỳ. Học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản, vận dụng tốt trong các phân môn và ứng dụng được vào thực tế.
III.Những bài học kinh nghiệm được rút ra
và mở hướng nghiên cứu mới:
Có được kinh nghiệm là nhờ quá trình học tập tích lũy từ việc thăm lớp dự giờ của các giáo viên có nhiều kinh nghiệm và việc trao đổi với các đồng nghiệp trong khối dạy, tìm đọc và tham khảo sách có liên quan.
Tích cực học hỏi và cũng tự nghiên cứu tích lũy để đưa chất lượng dạy
và học được nâng cao, đáp ứng mục tiêu giáo dục đầo tạo, phục vụ công
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Kiến nghị và đề nghị: Tăng cường đầu tư phương tiện, thiết bị dạy và học cho các nhà trường. Cần có những cuộc tham quan thực tế giúp cho học sinh hiểu về nền văn hóa của dân tộc.
Chúc mừng
ngày nhà giáo Việt Nam
Phần III: Kết luận
Môn Ngữ văn là một phân môn có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện phương hướng tích hợp:Văn- Tiếng việt- Tập làm văn đều có một yếu tố chung là tiếng Việt. Dù dạy Văn, Tiếng hay Tập làm văn thì tất cả đều do giáo viên đảm nhiệm. Tuy nhiên trong việc dạy và học lúc đầu còn bỡ ngỡ bởi chúng ta quen dạy các phân môn riêng rẽ, nay mục tiêu cơ chế phối hợp- tích hợp 3 phân môn là một, tìm ra những yếu tố đồng quy, là một điều hết sức cần thiết.
Tích cực hoạt động hóa hoạt động của học sinh, đảm bảo sự phối hợp liên môn, đổi mới giờ học từ tĩnh sang động không độc tôn một phương pháp.
Trên đây là suy nghĩ của tôi về việc " Dạy môn ngữ văn theo hướng tích hợp". Tôi đã mạnh dạn đưa ra những phương pháp áp dụng cho một số bài cụ thể nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động , sáng tạo của học sinh và với phương pháp dạy học này đã tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho học sinh và kết quả bước đầu đạt được cũng rất khả quan. Tôi tin rằng với phương pháp này trong những năm tới chúng ta sẽ gặt hái được những thành công mới trong quá trình dạy và học.
Phần IV: Tài liệu tham khảo
1.Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
2. Thiết kế bài giảng môn Ngữ văn 7
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, sách giáo viên,
các tài liệu liên quan.
Chúc một ngày tốt lành
kính chúc các đồng nghiệp
mạnh khỏe, hạnh phúc!
Nhân dịp 20- 11
Trường THCS Liên Bảo
Người thực hiện: Đỗ Thị Lệ Thúy
Chuyên đề lý thuyết môn ngữ văn 7
"Dạy môn ngữ văn theo hướng
tích hợp"
Phần I: Đặt vấn đề
1.Lý do chọn đề tài:
Môn Ngữ Văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó chứng tỏ nó có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Nó còn là môn học có mối quan hệ rất mật thiết với các môn học khác, và các môn học khác cũng có thể góp phần học tốt môn Ngữ Văn.
Xuất phát từ những căn cứ đó ta thấy môn Ngữ Văn có một vị trí đặc
biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường THCS. Giúp hình
thành những con người có trình độ phổ thông cơ sở học lên những bậc cao hơn đó là những con người có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng đúng, tình cảm đẹp, có lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người có bản lĩnh, có tư duy sáng tạo, có năng lực cảm thụ cái tốt, cái đẹp trong nghệ thuật trước hết là trong văn học- có năng lực thực hành, có năng lực sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy giao tiếp.
Vậy muốn đạt được mong muốn đó ta phải chú ý đến đổi mới phương pháp dạy văn theo hướng tích hợp.
Ta thường nói tới hai bộ phận Tiếng Việt và Văn học, song từ lâu ta vẫn coi là ba phân môn. Hiện nay theo quan điểm đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn ở trường THCS không còn nữa. Theo quan điểm tích hợp triệt để " Tam vị" hướng và hoà vào " nhất thể" tức là sát nhập làm một.
Việc đổi mới lần này là lần đổi mới toàn diện, triệt để có tính cách mạng thay đổi mục tiêu.
Vậy dạy học theo quan điểm tích hợp là như thế nào có phải là rũ bỏ
toàn bộ cái cũ hay không?
" Giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ nhận việc dạy các tri
thức kỹ năng riêng của từng phân môn. Vấn đề là làm thế nào phối
hợp các tri thức kỹ năng từng phân môn thật nhuần nhuyễn nhằm đạt
tới mục tiêu chung của môn Ngữ Văn"
2. Phạm vi, đối tượng, mục đích của đề tài
Hướng phấn đấu bao quát của Ngữ Văn theo tinh thần tích hợp là hình thành cho học sinh năng lực: Phân tích- bình giá và cảm thụ văn học với việc hình thành bốn kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết.
Với phương pháp này đây là phương pháp kế thừa phương pháp truyền thống và phát huy tính tích cực cao độ của chủ thể học sinh- nhân vật trung tâm. Trong quá trình dạy học môn Ngữ Văn phải đạt được 4 mục tiêu đó là: Tích hợp, giảm tải, tăng thực hành và gắn với thực tế. Nguyên tắc tích hợp này là tìm những điểm quy đồng giữa ba phần: Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong từng đơn vị
kiến thức và rèn kỹ năng thực hành trong mỗi tiết học- bài học được cụ thể hoá bằng nhiều biện pháp- hình thức- hoạt động linh hoạt tổ chức hướng dẫn học sinh học tập.
Trong giáo dục hiện đại, tích hợp là một vấn đề rất lớn, vì thế giờ học Ngữ Văn theo hướng đổi mới phương pháp dạy học không chỉ chú trọng tới hoạt động
của giáo viên mà còn chú trọng tới hoạt động của học sinh, tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng học sinh đều được suy nghĩ, tìm tòi, khám phá để có thể hiểu,
cảm, vận dụng tốt
kiến thức kỹ năng về
về văn học, ngôn ngữ học và hướng tới làm một bài văn đạt kết quả theo hướng tích hợp ba phân môn Ngữ Văn ở lớp 7, trong phạm vi cả nước.
Chào mừng 20-11
Phần II: Nội dung
A.Nội dung cơ sở lý luận khoa học của đề tài
Dựa trên 6 phương thức biểu đạt khi xây dựng văn bản:
tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, hành chính -công vụ. Mỗi bài học sẽ bắt đầu bằng việc tìm hiểu văn bản, sau đó căn cứ trên văn bản này để hướng dẫn các em học về kiến thức- kỹ năng tiếng Việt- làm văn có liên quan. Việc hướng dẫn các em học theo phương pháp này là lựa chọn- tạo nên trục đồng quy giữa văn bản văn học với nội dung các giờ tiếng Việt- Tập làm văn.
Đối tượng phục vụ: Học sinh lớp 7 trong chương trình cải cách.
Với chương trình Ngữ văn THCS giúp cho các em có những tri thức quy ước sử dụng tiếng Việt, các kiểu văn bản thường dùng trong giao tiếp và sáng tác văn học. Những tri thức sơ yếu về Thi pháp, Lịch sử văn học, một số tác gia văn học lớn, một số khái niệm và thao tác phân tích tác phẩm văn học, những hiểu biết về văn hoá qua một số văn bản văn học ưu tú của Việt Nam và thế giới. Biết sử dụng công cụ để giao tiếp, học tập tổ chức điều phối các hoạt động trong cuộc sống.
Yêu cầu mỗi giờ dạy học thuộc 3 phân môn trong từng bài học như một thể thống nhất trong mỗi giờ Văn-tiếng Việt -Tập làm văn, dạy làm sao vừa giữ được bản sắc riêng ,vừa hoà nhập với nhau để hình thành cho học sinh những kĩ năng, năng lực tổng hợp. Đây là một điểm lạ, lạ vì giờ đây một bài học Ngữ văn lại bao gồm cả ba mạch kiến thức kỹ năng Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn và mô hình cấu trúc bài học Ngữ văn là một bài với ba nội dung cụ thể: Kết quả cần đạt- phần chung cho cả ba nội dung. Phần văn bản gồm các phần nhỏ: Văn bản, chú thích văn bản, câu hỏi đọc hiểu văn bản theo 4 loại: đọc- hiểu, suy nghĩ- vận dụng, liên tưởng- tích luỹ, ghi nhớ- luyện tập.
B. ứng dụng vào thực tiễn công tác giảng dạy
Phần kiến thức tiếng Việt gồm: Ví dụ để phân tích, ghi nhớ,bài tập.
Lý thuyết làm văn gồm: Ví dụ để phân tích, ghi nhớ, luyện tập.
Ngoài ra mỗi bài học có phần đọc thêm, tư liệu tham khảo và phần tranh
ảnh. Vì vậy trong mỗi bài học đều nhấn mạnh những điểm đồng quy về kiến
thức kỹ năng giữa 3 phân môn để thực hiện quan điểm tích hợp. Không phủ
nhận dạy riêng từng KTKN của từng phân môn nhưng phải phối hợp thật
nhuần nhuyễn những KTKN của từng phân môn trong mỗi giờ: ( Văn học,
Tiếng Việt, Tập làm văn) yếu tố đồng quy này chính là ngôn ngữ trong văn
bản của mỗi bài học.
Ngôn ngữ cần được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm ngữ âm, từ
vựng, cú pháp mà còn là các kiểu văn bản, các quy tắc ngôn ngữ.để phản
ánh điều mà văn bản muốn thể hiện.
Trong ba nội dung của bài học Ngữ văn, giờ học làm văn có một vị trí đặc
biệt, một mặt nó là giờ học thể hiện kết quả học tập từ hai tiết trước( tìm
hiểu văn bản và rèn luyện kỹ năng Tiếng Việt. Mặt khác là giờ học có tính
chất thực hành tổng hợp để học sinh vận dụng những kiến thức kỹ năng:
Nghe, nói, đọc, viết theo những yêu cầu của sự hội nhập xã hội đặt ra.
I.Quá trình áp dụng của bản thân:
1.Với phân môn Văn cần cho học học sinh nắm được nội dung của
văn bản, cùng với một số thông tin về tác giả, một số khái niệm thuật
ngữ sơ yếu, cần thiết về thi pháp, lịch sử văn học, lý luận văn học và thao tác phân tích tác phẩm. Chính vì vậy đổi mới phương pháp dạy học còn là tôn trọng đề cao những tìm tòi, khám phá thể hiện tính tích cực của học sinh bên cạnh đó phải đảm bảo tính tích hợp trong môn học:
Ví dụ trong bài 19, tiết 73 Tục ngữ về thiên nhiên và lao đông sản xuất chúng ta có thể cho học sinh đi vào tìm hiểu nội dung từng câu tục ngữ . Câu 1 là câu có nội dung như sau: "Một mặt người bằng mười mặt của"; ở câu này chúng ta sẽ ghi lên bảng 2 ý: 1- Nghĩa của câu này là người quý hơn của, quý gấp bội lần;2- Câu tục ngữ khẳng định tư tưởng coi trọng con người, giá trị con người của nhân dân ta. Nhưng học sinh có thể sẽ tư duy và đưa ra những bài học khác vừa lý thú, vừa trong sáng theo suy nghĩ phù hợp với lứa tuổi và phù hợp với từng văn cảnh mà các em bắt gặp trong đời sống: " Phê phán những trường hợp coi của hơn người" " An ủi, động viên những trường hợp mà nhân dân cho là của đi thay ngưòi".
Nói về tư tưởng đạo lý, triết lý sống của nhân dân: đặt con người lên
trên mọi thứ của cải" " Quan niệm về việc sinh đẻ trước đây: muốn đẻ
nhiều con".vì vậy giờ học đã đem lại những ấn tượng sâu sắc cho học
sinh.
Hay văn bản " Ca Huế trên sông Hương" là một văn bản ghi chép lại
một văn hoá truyền thống còn giữ đến ngày nay ở xứ Huế. Bài văn
vừa có những dòng miêu tả rất sinh động về một đêm trăng thơ mộng
trên dòng sông Hương.Vừa giới thiệu được nguồn gốc, đặc điểm và
sự hấp dẫn của những làn điệu dân ca Huế. Như vậy ta phải hướng
cho các em thấy được văn bản đã dẫn các em tới một xứ Huế đẹp và
nên thơ. Có bề dày truyền thống văn hóa. Từ đó các em có thể liên
hệ với những vẻ đẹp tương tự ở những vùng quê khác nhau và có thái
độ ứng xử tốt đẹp với giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc.
Hay trong văn bản " Những trò lố hay là Va ren và Bội Châu" giáo viên phải hướng cho học sinh phát hiện được những yêu cầu sau:
+ Bài văn có thể chia ra làm mấy đoạn, nội dung chính của từng đoạn
là gì?
+ Theo em đây là một tác phẩm ghi chép sự thật hay chỉ là tưởng
tượng hư cấu?
+ Cụm từ " nửa chính thức hứa" và câu hỏi của tác giả " giả thử cứ cho
rằng (.) sẽ "chăm sóc" vụ ấy vào lúc nào và ra làm sao" có ý nghĩa
gì trong việc bộc lộ thực chất lời hứa của Va ren?
+ Trong đoạn văn có 2 nhân vật: Va ren và Bội Châu, được xây dựng
theo quan hệ tương phản, đối lập như thế nào? Số lượng từ và hình thức
ngôn ngữ mà tác giả đã sử dụng trong việc khắc họa tính cách của từng
nhân vật như thế nào?
2. Với phân môn Tiếng Việt nằm trong chương trình tích hợp cùng với Văn học và Tập làm văn. Về nội dung để đảm bảo được tính tích hợp phần Tiếng Việt bao gồm các yếu tố lý thuyết nằm trong hệ thống văn bản chung được trình bày hướng tới phần văn học và Tập làm văn. cụ thể qua phân môn tiếng Việt học sinh có được kiến thức về nhìn nhận, phân tích và khai thác cái hay, cái đẹp trong văn bản văn học, đồng thời có thêm kiến thức, kỹ năng phục vụ cho việc tạo lập các văn bản theo yêu cầu của Tập làm văn.
Song dạy Tiếng Việt cũng cần phải cung cấp kiến thức của riêng phân môn tiếng việt. Nó vừa đảm bảo tính hệ thống trục ngang, vừa đảm bảo tính hệ thống trục dọc.
Về tri thức: Nắm được đơn vị ngôn ngữ của tiếng Việt ( từ, câu, các biện pháp tu từ, cú pháp, các kiểu văn bản) nắm được khái niệm giao tiếp chủ yếu là ngữ cảnh, mục đích giao tiếp.
Về kỹ năng: Thực hành đầy đủ cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết trên cơ sở vận dụng các tri thức lý thuyết một cách chủ động vào các lĩnh vực giao tiếp khác nhau trong đời sống và trong quá trình học tập.
Với phương pháp dạy học theo hướng tích hợp buộc giáo viên phải hướng dẫn học sinh luôn quan tâm đến ngữ cảnh, không được tách các đơn vị ngôn ngữ
ra khỏi văn bản. Cần triệt để khai thác các yếu tố trong văn bản văn học để học tiếng Việt và ngược lại từ các kiến thức về tiếng Việt vận dụng bình giá, phát hiện vẻ đẹp của văn học cũng như vậy đối với quan hệ giữa phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn.
Ví dụ trong tiết dạy về "Câu đặc biệt" Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài tập 1 phần a trang 29.
Học sinh đọc đoạn trích trong bài " Tinh thần yêu nước của nhân dân ta"
Giáo viên hỏi: Tìm những câu đặc biệt và câu rút gọn?
Học sinh sẽ phát hiện ra: không có câu đặc biệt và chỉ có câu rút gọn
Như vậy giáo viên đã kết hợp để học sinh ôn lại kiến thức đã được học về câu rút gọn bằng cách vận dụng vào bài tập.
Hay ở bài "Sống chết mặc bay" học sinh cũng sẽ dễ dàng phát hiện ra :
+ biện pháp nghệ thuật liệt kê và phương thức miêu tả thông qua đoạn
trích giới thiệu về đồ dùng sinh hoạt của viên quan phụ mẫu và cảnh bài trí trong đình.
+ Biện pháp nghệ thuật tương phản, tăng cấp: trong khi những người dân ở ngoài đê đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng bởi tình thế ngày một gay go của khúc đê với cảnh nhàn hạ, sung sướng không có gì là gấp gáp ở trong đình.
Để đạt được những điều đó, giáo viên phải là người hướng dẫn cho các em phát hiện- tìm tòi một cách sáng tạo trong văn bản.
3. Tập làm văn là một trong ba phân môn của Ngữ Văn, nó có vị trí
đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá kết quả học tập bộ môn, thông
qua hệ thống bài tập tạo lập văn bản,cũng như thực hành sử dụng tiếng
Việt trong mỗi bài học trong sách giáo khoa. Trong phân môn Tập làm
văn, phương châm tích hợp là hướng học sinh biết vận dụng những tri thức
của tiếng Việt vào làm văn, vào việc tiếp thu những cái hay, cái đẹp của
văn bản, đồng thời vận dụng các kỹ năng, tri thức về Tiếng Việt, Văn học
vào tạo lập văn bản; phục vụ cho hoạt động giao tiếp trong đời sống hàng
ngày.
Với quan điểm chú trọng tới việc rèn luyện, nâng cao kỹ năng thực hành
nói và viết, tạo lập văn bản tiếng Việt, phân môn Tập làm văn đã xây dựng
theo lối cấu trúc đồng tâm.
Ví dụ kỹ năng đưa và trình bày dẫn chứng trong văn bản nghị luận chứng
minh qua văn bản chứng minh mẫu mực: tinh thần yêu nước của nhân dân
ta.
Thông qua văn bản yêu cầu học sinh xác định thể loại, tìm bố cục ?
Vấn đề nghị luận ở đây là gì tác giả đã nêu vấn đề bằng cách nào?nêu tác
dụng nghệ thuật của cách ấy? Nhận xét về cách nêu vấn đề của tác giả?
ở phần giải quyết vấn đề có 2 đoạn hãy khái quát nội dung cho từng đoạn?
Đoạn 2 chứng minh bằng cách lập luận và dẫn chứng như thế nào?
Đoạn 3: Hệ thống lập luận và dẫn chứng của tác giả ở đoạn văn này
có gì đặc sắc? Nêu nhận xét về cách nêu dẫn chứng? Biện pháp nghệ thuật?
Trong bài này có hai điểm nổi bật về cách diễn đạt, em hãy chỉ ra?
( Học sinh suy nghĩ và sẽ phát hiện ra vấn đề cần tìm là: sử dụng hình
ảnh so sánh và dùng lối nói liệt kê với mô hình " từ.đến")
Giáo viên lại có thể hỏi tiếp: Em hãy phân tích giá trị của từng trường
hợp cụ thể?
Học sinh suy nghĩ và có thể trả lời theo hướng sau:
+ Nhận xét về hình ảnh trong câu ở phần mở đầu: " từ xưa đến nay"
đến " cướp nước" làm cho người đọc có thể hình dung cụ thể và sinh
động về sức mạnh của tinh thần yêu nước. Các động từ trong câu được
chọn lọc, thể hiện sức mạnh với những sắc thái khác nhau( kết thành,
lướt qua, nhấn chìm)
+ Hình ảnh so sánh trong đoạn cuối cùng rất đặc sắc: " tinh thần yêu
nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính,
trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo
trong rương, trong hòm". Bằng những hình ảnh âý người đọc có thể hình
dung rất rõ hai trạng thái của tinh thần yêu nước: tiềm tàng, kín đáovà
biểu lộ rõ ràng, đầy đủ.
+ Thủ pháp liệt kê được sử dụng thích hợp đã có tác dụng thể hiện được
sự phong phú với nhiều biểu hiện đa dạng của tinh thần yêu nước trong
nhân dân, ở mọi tầng lớp, giai cấp, lứa tuổi, ở mọi địa phương. Các vế
trong mô hình liên kết " từ.đến" không phải được đặt một cách tùy tiện
mà đều có mối liên hệ một cách hợp lý, được sắp xếp theo cùng một
bình diện như lứa tuổi, tầng lớp, giai cấp, nghề nghiệp, địa bàn cư trú.
Học sinh có thể học tập theo mẫu này để đặt câu theo lối liệt kê có sử
dụng mô hình liên kết " từ.đến"
Như vậy tức là ta đã chú ý tích hợp giữa phân môn Tiếng Việt với Tập
làm văn. Tiếng Việt: ở biện pháp nghệ thuật liệt kê dẫn chứng, dùng từ.
Tập làm văn: Tìm bố cục bài văn nghị luận; xác định vấn đề cần nghị luận;
và nội dung từng phần của bài văn tương đương với cấu trúc 3 phần của
bài văn nghị luận chứng minh.
II.Hiệu quả khi áp dụng đề tài:
Qua khảo sát thực tế cho thấy khi áp dụng phương pháp giảng dạy này
trong 6 năm học vừa qua tôi thấy học sinh tiếp thu và hiểu bài nhanh, nhớ kiến thức đã được lĩnh hội thông qua từng bài trong chương trình ngữ
văn 6,7.
Cụ thể số lượng học sinh hiểu bài ngay tại lớp đạt xấp xỉ 70%.
Chất lượng đem đến có tiến bộ sau khi khảo sát kết quả học kỳ của các năm học bằng 2 hình thức trắc nghiệm và tự luận.
Hầu hết các em hiểu bài, một số em đạt điểm cao trong bài kiểm tra
học kỳ. Học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản, vận dụng tốt trong các phân môn và ứng dụng được vào thực tế.
III.Những bài học kinh nghiệm được rút ra
và mở hướng nghiên cứu mới:
Có được kinh nghiệm là nhờ quá trình học tập tích lũy từ việc thăm lớp dự giờ của các giáo viên có nhiều kinh nghiệm và việc trao đổi với các đồng nghiệp trong khối dạy, tìm đọc và tham khảo sách có liên quan.
Tích cực học hỏi và cũng tự nghiên cứu tích lũy để đưa chất lượng dạy
và học được nâng cao, đáp ứng mục tiêu giáo dục đầo tạo, phục vụ công
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Kiến nghị và đề nghị: Tăng cường đầu tư phương tiện, thiết bị dạy và học cho các nhà trường. Cần có những cuộc tham quan thực tế giúp cho học sinh hiểu về nền văn hóa của dân tộc.
Chúc mừng
ngày nhà giáo Việt Nam
Phần III: Kết luận
Môn Ngữ văn là một phân môn có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện phương hướng tích hợp:Văn- Tiếng việt- Tập làm văn đều có một yếu tố chung là tiếng Việt. Dù dạy Văn, Tiếng hay Tập làm văn thì tất cả đều do giáo viên đảm nhiệm. Tuy nhiên trong việc dạy và học lúc đầu còn bỡ ngỡ bởi chúng ta quen dạy các phân môn riêng rẽ, nay mục tiêu cơ chế phối hợp- tích hợp 3 phân môn là một, tìm ra những yếu tố đồng quy, là một điều hết sức cần thiết.
Tích cực hoạt động hóa hoạt động của học sinh, đảm bảo sự phối hợp liên môn, đổi mới giờ học từ tĩnh sang động không độc tôn một phương pháp.
Trên đây là suy nghĩ của tôi về việc " Dạy môn ngữ văn theo hướng tích hợp". Tôi đã mạnh dạn đưa ra những phương pháp áp dụng cho một số bài cụ thể nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động , sáng tạo của học sinh và với phương pháp dạy học này đã tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho học sinh và kết quả bước đầu đạt được cũng rất khả quan. Tôi tin rằng với phương pháp này trong những năm tới chúng ta sẽ gặt hái được những thành công mới trong quá trình dạy và học.
Phần IV: Tài liệu tham khảo
1.Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
2. Thiết kế bài giảng môn Ngữ văn 7
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, sách giáo viên,
các tài liệu liên quan.
Chúc một ngày tốt lành
kính chúc các đồng nghiệp
mạnh khỏe, hạnh phúc!
Nhân dịp 20- 11
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Đỗ Thị Lệ Thúy
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)