CHUYEN DE HOANG SA - TRUONG SA
Chia sẻ bởi Ngô Quí |
Ngày 19/03/2024 |
7
Chia sẻ tài liệu: CHUYEN DE HOANG SA - TRUONG SA thuộc Địa lý 10
Nội dung tài liệu:
TRƯỜNG THPT: TRẦN HƯNG ĐẠO
TỔ: SỬ - ĐỊA - GDCD
CHÀO MỪNG QUÍ VỊ ĐẠI BIỂU, QUÍ THẦY CÔ GIÁO VỀ THAM DỰ BUỔI SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG VÀ HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA
CHUYÊN ĐỀ:
GIÁO VIÊN: NGÔ CỰ QUÍ
BỘ MÔN: ĐỊA LÍ
NỘI DUNG BÁO CÁO
Khái quát về biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa.
II. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
III. Lập trường của các bên tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
IV. Chủ trương của Đảng, Nhà nước ta trong giải quyết
vấn đề biển Đông.
V. Một số định hướng trong công tác tuyên truyền,
giáo dục.
PHIM - ASEAN và Biển Đông
Vị trí của biên Đông
I. Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
- Biển Đông là biển lớn thứ hai trong các biển của Thái Bình Dương, có diện tích 3 447 000 km2, nối hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Đây là con đường chiến lược của giao thương quốc tế, mỗi ngày có khoảng 200 đến 300 tàu vận tải loại lớn đi qua và trong một giờ có trên 10 chuyến máy bay chở khách bay qua.
- Gần 90% dầu lữa nhập khẩu của Nhật Bản, 70% của Trung Quốc từ Trung Đông đều đi qua Biển Đông.
I. Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Bờ biển Việt Nam dài tới 3.260 km, bao bọc lãnh thổ Việt Nam ở cả 3 hướng: Đông, Nam và Tây Nam, trung bình cứ 100 km2 đất liền thì có một km bờ biển (cao gấp 6 lần tỷ lệ này của thế giới).
Có 28/64 tỉnh, thành có biển. Bờ biển nước ta có 112 cửa sông, cửa rạch; 90 cảng biển lớn nhỏ và gần 100 địa điểm có thể xây dựng cảng; 125 bãi biển có cảnh quan đẹp, trong đó có 20 bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế và nhiều vịnh đẹp như: Hạ Long, Bái Tử Long, Vân Phong, Cam Ranh, Nha Trang… để phát triển du lịch biển.
- Vùng biển nước ta rộng trên một triệu km2, lớn gấp ba lần diện tích đất liền; và có 4000 hòn đảo lớn nhỏ với tổng diện tích 1 636 km2.
Năm vùng biển theo Công ước của LHQ về Luật biển 1982 mà Việt Nam tham gia từ ngày 23/6/1994
1hải lý = 1,852 km
Các bộ phận của vùng biển nước ta
Nói đến Biển Đông, chúng ta không thể không nói đến hai quần đảo thiêng liêng của Tổ Quốc là Hoàng Sa và Trường Sa.
- Quần đảo Hoàng Sa: là một quần đảo san hô nằm trên vùng biển rộng từ Tây sang Đông khoảng 100 hải lý (185,2 km), từ Bắc xuống Nam khoảng 85 hải lý (157,42 km), chiếm diện tích biển khoảng 15.000 km². Quần đảo Hoàng Sa hiện do Trung Quốc kiểm soát qua hai đợt đánh chiếm bất hợp pháp vào năm 1956 và 1974.
- Quần đảo Trường Sa: nằm trong một vùng biển rộng khoảng 180.000 km². Hiện Việt Nam kiểm soát trên 20 đảo, bãi đá ngầm, một số bị chiếm đóng bất hợp pháp bởi Trung Quốc (8), Philippines (8), Malaysia (4), Đài Loan (1).
Quần đảo Hoàng Sa
Quần đảo Trường Sa
Biển Đông
Hoàng Sa gồm 30 đảo, bãi đá, cồn san hô và bãi cạn. Nằm ở khu vực biển. Vị trí: Từ 15045’ đến 17005’ vĩ độ Bắc. Từ 1110 đến 1130 kinh độ Đông. Diện tích phần nổi là: 10 km2. Đảo lớn nhất là : Phú Lâm, rộng: 1,5 km2
Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) cách Hoàng Sa 120 hải lý
Đảo Hải Nam (Trung Quốc) cách Hoàng Sa 130 hải lý, cách Trường Sa 595 hải lý.
Trường Sa gồm hơn 100 đảo, bãi đá, cồn san hô và bãi cạn. Nằm ở khu vực biển. Vị trí: Từ 6050’ đến 1200’ vĩ độ Bắc. Từ 111030’ đến 117020’ kinh độ Đông. Diện tích phần nổi là: 10 km2. Đảo lớn nhất là : Ba Bình, rộng: 0,5 km2
Trường Sa cách Cam Ranh (Khánh Hoà) 248 hải lý; cách Đảo Phú Quí (Bình Thuận) 203 hải lý
II. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền
Trước khi Việt Nam xác lập chủ quyền, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ vô chủ, chưa từng thuộc quyền sở hữu của bất cứ quốc gia nào; hành động chiếm cứ của Việt Nam được thực hiện mang tính Nhà nước, phù hợp với luật pháp quốc tế, thỏa mãn các điều kiện theo quy định của luật quốc tế là: Chiếm cứ thực sự; chiếm cứ công khai; chiếm cứ hoà bình và chiếm cứ liên tục.
II. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền
- Chiếm cứ thực sự: Biểu hiện rõ nhất của hành vi chiếm cứ thực sự là việc các chính quyền phong kiến Việt Nam đã dựng bia chủ quyền, sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (khi đó được gọi bằng nhiều tên như Cát Vàng, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa…) vào lãnh thổ của mình, thiết lập bộ máy quản lý và khai thác (đó là các đội Hoàng Sa, Bắc Hải). Mặt khác tiến hành nhiều cuộc đo đạc, lập hải trình, cắm mốc, đánh dấu, lập bia, xây miếu, trồng cây cối trên hai quần đảo này…Đây chính là những biểu hiện cụ thể cho một sự chiếm cứ thực sự của Việt Nam.
II. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền
- Chiếm cứ công khai: Việt Nam là quốc gia đầu tiên phát hiện ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau đó tiến hành chiếm cứ công khai với việc nhiều tàu thuyền qua lại đây, thường xuyên cử người ra giám sát, tìm hiểu, khai thác trên hai quần đảo và thực hiện chức năng Nhà nước trên đó.
- Chiếm cứ hòa bình: Hai quần đảo vốn là lãnh thổ vô chủ, không có người ở và hoạt động chiếm cứ của Việt Nam được thực hiện hòa bình, không có việc sử dụng vũ trang.
- Chiếm cứ liên tục: Với tầm nhìn chiến lược và sâu rộng, người Việt Nam đã tiến hành chiếm hữu, khai thác, quản lý và bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa liên tục, ít nhất là từ thế kỷ XV mà không có sự tranh chấp với bất cứ quốc gia nào.
- Từ thế kỷ XVII, chúng ta có bằng chứng đầy đủ về chủ quyền của nhà nước Đại Việt (gồm cả Đàng Ngoài của chúa Trịnh và Đàng Trong của chúa Nguyễn) qua Tấm bản đồ trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ được vẽ theo bút pháp đương thời với lời chú thích rất rõ ràng: “Giữa biển có một dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm… Họ Nguyễn mỗi năm và cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hoá, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn…”
- Trong cuốn sách Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Ký Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa và đã khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
Cột mốc chủ quyền trên đảo Nam Yết (Trường Sa) do Chính quyền Sài gòn củ xây dựng năm 1956.
Việc chiếm cứ được sự thừa nhận của các quốc gia: Việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được sự thừa nhận của nhiều quốc gia và không gặp một sự phản đối nào. Trong rất nhiều tư liệu, sách vở, bản đồ của phương Tây như: Hải ngoại ký sự (1696), An Nam đại quốc họa đồ (1838)…và cả trong sách sử, bản đồ của Trung Quốc cũng trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận điều đó.
Ví dụ cuốn Hải lục (1842) viết: “Vạn lý Trường Sa là đất nối giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên dậu của An Nam”. Trong hội nghị quốc tế tại San Francisco (Mỹ) năm 1951, khi Chính phủ Bảo Đại - Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa thì không có một quốc gia nào phản đối, kể cả Trung Quốc. Mà theo luật quốc tế, điều đó thể hiện sự thừa nhận hoàn toàn.
III. Lập trường của các bên tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa
Trung Quốc (kể cả Đài Loan) luôn cho rằng họ đã phát hiện ra hai quần đảo này và chiếm hữu, khai thác “từ lâu đời”, nhưng thực tế không có một tài liệu sách sử hay bản đồ nào xác nhận điều đó. Ngược lại nhiều tư liệu của chính họ viết điểm cực Nam của Trung Quốc là “mũi núi ngoài cảng Du Lân”, “phía Nam từ vĩ độ Bắc 18º13’, tận cùng là bờ biển Nhai Châu đảo Hải Nam” và cũng không có một tài liệu nào nhắc tới hay vẽ vào bản đồ rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.
III. Lập trường của các bên tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa
Sau cuộc đổ bộ chớp nhoáng của Đô đốc Lý Chuẩn lên Hoàng Sa (1909), Trung quốc bắt đầu quan tâm tranh chấp chủ quyền trên quần đảo này.
- Tuy nhiên, tại các cuộc hội nghị quốc tế về quy chế lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ hai như Hội nghị San Francisco, Cairo, Posdam… Trung Quốc lại tuyệt nhiên không nói gì tới hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Cơ sở xác định chủ quyền của ta đối với hai quần đảo
- Theo những tài liệu chính thức, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và làm chủ hai quần đảo từ thế kỷ thứ 17, tiếp đó Chính quyền Đông Dương đã củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo: thành lập bộ máy hành chính thuộc hai tỉnh Thừa Thiên và Bà Rịa, cho cảnh sát ra đồn trú, lập đài khí tượng, trạm vô tuyến điện, xây đèn biển. Cho đến đầu thế kỷ 20 không có nước nào tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo đối với Việt Nam.
- Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905 tái bản lần thứ tư năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến Hải Nam. Trung Quốc địa lý học xuất bản năm 1906 viết: "Điểm mút của Trung Hoa ở Đông Nam là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18 độ13` Bắc".
- Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa, các nhà cầm quyền Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên Biển Đông. Tháng 5 năm 1909, đô đốc Lý Chuẩn đem 3 pháo thuyền ra thăm chớp nhoáng một vài đảo trên quần đảo Hoàng Sa rồi về . Năm 1921 Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết định sát nhập quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam.
- Từ đó bắt đầu có sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và từ những năm 1930 trên quần đảo Trường Sa. Năm 1935 lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố một bản đồ có cả 4 quần đảo trên Biển Đông là của Trung Quốc (công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi Bộ Ngoại giao Pháp năm 1932 còn viết rằng: "Các đảo Tây Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc xa nhất về phía Nam").
- Nếu không có chiến tranh thế giới thứ hai thì chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là liên tục và thật sự từ thế kỷ 17. Nhưng năm 1939, Nhật Bản đã chiếm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ tay Pháp và đã biến quần đảo Trường Sa thành căn cứ hải quân trong chiến tranh thế giới thứ hai.
- Tháng 11/1943, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ, Anh, Trung họp tại Cairo có bàn về các lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc. Tuyên bố của Hội nghị viết: "Các vùng lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc phải trả lại cho Trung Quốc gồm Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ". Như vậy rõ ràng là 3 cường quốc trong đó có Tổng thống Tưởng Giới Thạch của Trung Quốc đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ của Trung Quốc.
- Tháng 8 năm 1945 Tuyên ngôn của Hội nghị Potsdam với sự tham gia của 4 nước Mỹ, Anh, Trung, Liên Xô lại viết: "Các điều khoản của bản tuyên bố Cairo sẽ được thi hành". Như vậy cả 4 cường quốc trong đó có Trung Quốc đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ TQ.
- Trong Hoà ước giữa TQ và Nhật Bản ngày 28/4/1952, TQ ghi nhận việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo như nội dung đã được ghi trong văn kiện Hội nghị San Francisco mà không hề yêu cầu Nhật Bản trả lại cho Trung Quốc hai quần đảo.
1. Trung Quốc
- Trong cuộc hội nghị quốc tế về quy chế lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ hai: Cairo, Posdam… Trung Quốc lại tuyệt nhiên không nói gì tới hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
- Ngay cả khi Pháp chính thức chuyển giao hai quần đảo này cho Chính phủ Bảo Đại ngày 14/10/1950 và tại Hội nghị San Francisco (1951) có đại diện của Trung Quốc, Ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của Chính quyền Bảo Đại tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này mà không gặp phải ý kiến phản đối nào.
QUAN ĐIỂM CỦA CÁC BÊN VỀ 2 QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
- Năm 1947, Chính quyền Trung hoa dân quốc xuất bản bản đồ “Nam hải chư đảo” và sau đó (1950), Trung cộng tái bản trên bản đồ “Trung hoa nhân dân cộng hoà phân tỉnh tinh đồ” thể hiện đường yêu sách 9 đoạn đứt khúc (gọi nôn na là đường lưỡi bò) chiếm tới 80% diện tích Biển Đông.
- Ngày 15/8/1951, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố: "Các quần đảo Tây Sa và Nam Sa cũng như các quần đảo Đông Sa và quần đảo Trung Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc."
Trung Quốc xác định trong bản đồ “Trung Hoa Nhân dân Cộng hoà quốc phân tỉnh tinh đồ” thể hiện 9 đoạn đứt khúc
Bản đồ hình lưỡi bò của Trung Quốc
- Tháng 4/1956, Lợi dụng tình hình Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam chưa tiếp quản hai quần đảo, TQ cho quân đội ra chiếm đoạt 7 đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đảo Phú Lâm. Đài Loan cho quân đội ra chiếm đảo Ba Bình trên quần đảo Trường Sa.
- Tháng 1/1974, lợi dụng tình hình Mỹ phải rút khỏi Đông Dương, TQ đánh chiếm nốt 6 đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa (Trung Sa) từ Quân đội Chính quyền Sài Gòn củ.
=> Như vậy, đến nay Trung Quốc đã chiếm trọn 13 đảo của Quần đảo Hoàng Sa và hiện đã xây dựng xong sân bay Phú Lâm, là đảo lớn nhất trên quần đảo Hoàng Sa. Đây cũng là đảo Trung Quốc đã đưa dân ra sinh sống và trồng dừa trên khắp đảo này.
Trận đánh chiếm Hoàng Sa của Hải quân Trung Quốc từ Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà, tháng 1/1974
Hải quân Trung Quốc
Hải quân Việt Nam Cộng Hoà
Sân bay của Trung Quốc trên đảo Phú Lâm – Hoàng Sa
Trung quốc leo thang
- Biển Đông luôn thể hiện trên bản đồ là Biển Nam Trung Hoa. Thực tế lòng biển Hải Nam đến Hòang Sa và Trường Sa không liên tục như của Việt Nam
- Tháng 3/1988 và tháng 01/1995, TQ đánh chiếm 7 bãi đá, bãi cạn ở quần đảo Trường Sa (Nam Sa).
- Tháng 12/2007, Tuyên bố thành lập thành phố cấp huyện, thành phố Nam Sa thuộc tỉnh Hải Nam.
- Trong năm 2012 Trung Quốc đơn phương thành lập thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa bất chấp luật pháp quốc tế và đặt tên là đảo Vĩnh Hưng
TQ thành lập TP Tam Sa trên đảo Phú Lâm bất chấp luật pháp quốc tế
Sinh viên biểu tình trước Tổng lãnh sự quán Trung Quốc ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 9/12/2007
Sinh viên biểu tình trước Đại sự quán Trung Quốc ở Hà Nội ngày 9/12/2007
Sinh viên tuần hành trước Đại sự quán Trung Quốc ở Hà Nội ngày 16/12/2007
Sinh viên tuần hành trước Đại sự quán Trung Quốc ở Hà Nội ngày 16/12/2007
2. Đài Loan
Đài Loan hiện đang chiếm đóng 02 đảo trong Quần đảoTrường Sa, trong đó có đảo Ba Bình, đảo lớn nhất Trường Sa và đã xây dựng công trình trên bãi cạn Bàn Than vào năm 2004, cách đảo Ba Bình khoảng 0,4 km.
- Đài Loan đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa và đã xác lập đơn vị hành chính cho đảo Ba Bình thuộc đơn vị hành chính thành phố Cao Hùng. Hiện đang xúc tiến nâng cấp đường băng và hệ thống giao thông trên đảo Ba Bình.
3. Philippin
Về lịch sử, trước năm 1898, Nhà nước Philippin qua các thời kỳ chưa bao giờ coi quần đảo Trường Sa là thuộc lãnh thổ của mình. Năm 1898, khi Tây Ban Nha ký Hiệp ước Pari, nhượng quần đảo Philippin cho Mỹ thì quần đảo Trường Sa không nằm trong đường ranh giới của quần đảo Philippin.
- Năm 1956, một người Philippin đến Trường Sa, vạch một đường bao quanh và tuyên bố sở hữu quần đảo này, đặt tên là Kalayaan (vùng đất tự do).
- Năm 1979, tổng thống Philippin đã ký Sắc lệnh sáp nhập toàn bộ quần đảo Trường Sa (trừ đảo Trường Sa lớn) vào tỉnh Palawan của Philippin với lập luận rằng các đảo này thuộc Philippin vì nó cận kề về địa lý và quan trọng cho an ninh quốc phòng của Philippin. Hiện Philippin chiếm đóng 9 đảo, bãi đá và bãi cạn.
4. Malaysia và Brunei
4.1. Malaysia:
Năm 1979, Malaysia xuất bản bản đồ công bố ranh giới thềm lục địa của Malaysia bao trùm lên phần phía Nam quần đảo Trường Sa với lập luận các đảo, bãi đá ở Trường Sa thuộc về Vương quốc cổ của Malaysia và nằm trong phạm vi yêu sách thềm lục địa của Malaysia. Hiện Malaysiachiếm đóng 5 đảo, bãi đá, bãi cạn.
4.2. Brunei:
Năm 1988 và 1993, Brunei công bố bản đồ yêu sách thềm lục ở Biển Đông trùm lên một phần nhỏ phía Nam quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, Brunei không có yêu sách hay chiếm đóng đảo, bãi đá nào của quần đảo Trường Sa.
IV. Chủ trương của đảng và nhà nước ta
Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Kiên trì giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, bất đồng khác liên quan đến biển Đông thông qua thương lượng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982. Hiện Việt Nam đã ký hiệp ước, hiệp định với Trung Quốc và các nước trong khu vực:
+ Thoả thuận về hợp tác thăm dò và khai thác dầu chung với Malaysia (1992)
+ Hiệp định phân định ranh giới biển với Thái lan (1997).
+ Hiệp định về Vùng nước lịch sử với Campuchia (1982).
+ Với Trung Quốc Hiệp định về phân chia Vịnh Bắc bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc bộ (2000).
+ Hiệp định phân định thềm lục địa với Indonesia (2003).
+ Đang tiếp tục đàm phán ký kết tiếp các hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Trung Quốc và các nước khác: Malaysia; Campuchia; vùng chồng lấn giữa Việt Nam – Tháilan và Campuchia.
Thủ tướng khẳng định 2 QĐ Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam - Phim
Những thoả thuận trên đã thu hẹp bất đồng và tăng cường sự hiểu biết tin cậy lẫn nhau hơn. Song, từ đầu năm 2007 đến nay, tình hình biển Đông diễn biến theo chiều hướng xấu.
+ Trung Quốc đã phản đối và tìm cách ngăn cản các công ty dầu khí nước ngoài đang hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam. Dùng cả máy bay có vũ trang và lực lượng hải quân để ngăn cản và đe dọa. Ta kiên trì đấu tranh để đảm bảo không xung đột vũ trang, tránh rơi vào ý đồ gây hấn của Trung Quốc.
+ Các công ty thăm dò và khai thác dầu khí của nước ngoài vẫn tiến hành. Song vẫn có một số bị tác động và rút khỏi: Công ty thăm dò địa chấn của Nga; Công ty dầu khí BP và Conoco-Phillips của Mỹ
V. Một số định hướng trong công tác tuyên truyền giáo dục
- Kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định trong nước, đặc biệt là các khu vực biên giới trên bộ và trên biển.
Kiên trì giải quyết bất đồng, tranh chấp với Trung Quốc và các nước hữu quan khác về vấn đề Biển Đông cũng như các vấn đề biên giới lãnh thổ thông qua thương lượng hoà bình.
- Nêu cao ý thức bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển; đồng thời đẩy mạnh việc phát triển kinh tế kết hợp bảo vệ an ninh - quốc phòng trên biển.
- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục nhân dân nâng cao kiến thức về chủ quyền biển/đảo quốc gia. Cần nhận thức rõ sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ lâu dài, toàn diện, phức tạp, bao gồm các biện pháp chính trị, pháp lý, đối ngoại và trên thực tế, đòi hỏi phải vừa bảo vệ được chủ quyền, vừa duy trì và phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với các bên tranh chấp ở Biển Đông. Khi xử lý các vấn đề trên Biển Đông, cần hết sức khôn khéo và tỉnh táo, kế thừa các bài học dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
- Cần nêu cao tình thần cản giác trước âm mưu của các thế lực cơ hội, cực đoan, thù địch lợi dụng bất đồng về chủ quyền lãnh thổ giữa nước ta với Trung Quốc và các nước liên quan để kích động, chia rẽ quan hệ quốc tế của ta; công kích chủ trương, đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta./.
KẾT LUẬN
Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là nhất quán, là cơ sở để nước ta giữ vững vị trí của mình trên Biển Đông.
- Đây là một cuộc đấu tranh kiên trì; mọi hoạt động của các ngành, các cấp phải có sự kết hợp chặt chẻ giữa thực tiễn và pháp lý, trong đó mặt pháp lý là rất quan trọng.
- Đây là cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài nhưng vô cùng quan trọng và thiêng liêng đối với nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ Quốc.
- Chúng ta phải nâng cao ý thức về biển cho cả dân tộc, để làm chủ được biển của mình.
- Tập trung phát triển mạnh mẽ kinh tế biển gắn liền với bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi của nước ta trên biển, để vươn lên thành một quốc gia mạnh về biển ở Đông Nam Á.
TRƯỜNG THPT: TRẦN HƯNG ĐẠO
TỔ: SỬ - ĐỊA - GDCD
CHÂN THÀNH CẢM ƠN QUÍ VỊ ĐẠI BIỂU, QUÍ THẦY CÔ ĐÃ THAM GIA LẮNG NGHE BÁO BÁO – KÍNH CHÚC QUÍ VỊ ĐẠI BIỂU, QUÍ THẦY CÔ SỨC KHỎE – HẠNH PHÚC
Phân định Vịnh Bắc bộ giữa Việt Nam Và Trung Quốc
Về
TỔ: SỬ - ĐỊA - GDCD
CHÀO MỪNG QUÍ VỊ ĐẠI BIỂU, QUÍ THẦY CÔ GIÁO VỀ THAM DỰ BUỔI SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG VÀ HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA
CHUYÊN ĐỀ:
GIÁO VIÊN: NGÔ CỰ QUÍ
BỘ MÔN: ĐỊA LÍ
NỘI DUNG BÁO CÁO
Khái quát về biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa.
II. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
III. Lập trường của các bên tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
IV. Chủ trương của Đảng, Nhà nước ta trong giải quyết
vấn đề biển Đông.
V. Một số định hướng trong công tác tuyên truyền,
giáo dục.
PHIM - ASEAN và Biển Đông
Vị trí của biên Đông
I. Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
- Biển Đông là biển lớn thứ hai trong các biển của Thái Bình Dương, có diện tích 3 447 000 km2, nối hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Đây là con đường chiến lược của giao thương quốc tế, mỗi ngày có khoảng 200 đến 300 tàu vận tải loại lớn đi qua và trong một giờ có trên 10 chuyến máy bay chở khách bay qua.
- Gần 90% dầu lữa nhập khẩu của Nhật Bản, 70% của Trung Quốc từ Trung Đông đều đi qua Biển Đông.
I. Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Bờ biển Việt Nam dài tới 3.260 km, bao bọc lãnh thổ Việt Nam ở cả 3 hướng: Đông, Nam và Tây Nam, trung bình cứ 100 km2 đất liền thì có một km bờ biển (cao gấp 6 lần tỷ lệ này của thế giới).
Có 28/64 tỉnh, thành có biển. Bờ biển nước ta có 112 cửa sông, cửa rạch; 90 cảng biển lớn nhỏ và gần 100 địa điểm có thể xây dựng cảng; 125 bãi biển có cảnh quan đẹp, trong đó có 20 bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế và nhiều vịnh đẹp như: Hạ Long, Bái Tử Long, Vân Phong, Cam Ranh, Nha Trang… để phát triển du lịch biển.
- Vùng biển nước ta rộng trên một triệu km2, lớn gấp ba lần diện tích đất liền; và có 4000 hòn đảo lớn nhỏ với tổng diện tích 1 636 km2.
Năm vùng biển theo Công ước của LHQ về Luật biển 1982 mà Việt Nam tham gia từ ngày 23/6/1994
1hải lý = 1,852 km
Các bộ phận của vùng biển nước ta
Nói đến Biển Đông, chúng ta không thể không nói đến hai quần đảo thiêng liêng của Tổ Quốc là Hoàng Sa và Trường Sa.
- Quần đảo Hoàng Sa: là một quần đảo san hô nằm trên vùng biển rộng từ Tây sang Đông khoảng 100 hải lý (185,2 km), từ Bắc xuống Nam khoảng 85 hải lý (157,42 km), chiếm diện tích biển khoảng 15.000 km². Quần đảo Hoàng Sa hiện do Trung Quốc kiểm soát qua hai đợt đánh chiếm bất hợp pháp vào năm 1956 và 1974.
- Quần đảo Trường Sa: nằm trong một vùng biển rộng khoảng 180.000 km². Hiện Việt Nam kiểm soát trên 20 đảo, bãi đá ngầm, một số bị chiếm đóng bất hợp pháp bởi Trung Quốc (8), Philippines (8), Malaysia (4), Đài Loan (1).
Quần đảo Hoàng Sa
Quần đảo Trường Sa
Biển Đông
Hoàng Sa gồm 30 đảo, bãi đá, cồn san hô và bãi cạn. Nằm ở khu vực biển. Vị trí: Từ 15045’ đến 17005’ vĩ độ Bắc. Từ 1110 đến 1130 kinh độ Đông. Diện tích phần nổi là: 10 km2. Đảo lớn nhất là : Phú Lâm, rộng: 1,5 km2
Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) cách Hoàng Sa 120 hải lý
Đảo Hải Nam (Trung Quốc) cách Hoàng Sa 130 hải lý, cách Trường Sa 595 hải lý.
Trường Sa gồm hơn 100 đảo, bãi đá, cồn san hô và bãi cạn. Nằm ở khu vực biển. Vị trí: Từ 6050’ đến 1200’ vĩ độ Bắc. Từ 111030’ đến 117020’ kinh độ Đông. Diện tích phần nổi là: 10 km2. Đảo lớn nhất là : Ba Bình, rộng: 0,5 km2
Trường Sa cách Cam Ranh (Khánh Hoà) 248 hải lý; cách Đảo Phú Quí (Bình Thuận) 203 hải lý
II. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền
Trước khi Việt Nam xác lập chủ quyền, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ vô chủ, chưa từng thuộc quyền sở hữu của bất cứ quốc gia nào; hành động chiếm cứ của Việt Nam được thực hiện mang tính Nhà nước, phù hợp với luật pháp quốc tế, thỏa mãn các điều kiện theo quy định của luật quốc tế là: Chiếm cứ thực sự; chiếm cứ công khai; chiếm cứ hoà bình và chiếm cứ liên tục.
II. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền
- Chiếm cứ thực sự: Biểu hiện rõ nhất của hành vi chiếm cứ thực sự là việc các chính quyền phong kiến Việt Nam đã dựng bia chủ quyền, sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (khi đó được gọi bằng nhiều tên như Cát Vàng, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa…) vào lãnh thổ của mình, thiết lập bộ máy quản lý và khai thác (đó là các đội Hoàng Sa, Bắc Hải). Mặt khác tiến hành nhiều cuộc đo đạc, lập hải trình, cắm mốc, đánh dấu, lập bia, xây miếu, trồng cây cối trên hai quần đảo này…Đây chính là những biểu hiện cụ thể cho một sự chiếm cứ thực sự của Việt Nam.
II. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền
- Chiếm cứ công khai: Việt Nam là quốc gia đầu tiên phát hiện ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau đó tiến hành chiếm cứ công khai với việc nhiều tàu thuyền qua lại đây, thường xuyên cử người ra giám sát, tìm hiểu, khai thác trên hai quần đảo và thực hiện chức năng Nhà nước trên đó.
- Chiếm cứ hòa bình: Hai quần đảo vốn là lãnh thổ vô chủ, không có người ở và hoạt động chiếm cứ của Việt Nam được thực hiện hòa bình, không có việc sử dụng vũ trang.
- Chiếm cứ liên tục: Với tầm nhìn chiến lược và sâu rộng, người Việt Nam đã tiến hành chiếm hữu, khai thác, quản lý và bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa liên tục, ít nhất là từ thế kỷ XV mà không có sự tranh chấp với bất cứ quốc gia nào.
- Từ thế kỷ XVII, chúng ta có bằng chứng đầy đủ về chủ quyền của nhà nước Đại Việt (gồm cả Đàng Ngoài của chúa Trịnh và Đàng Trong của chúa Nguyễn) qua Tấm bản đồ trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ được vẽ theo bút pháp đương thời với lời chú thích rất rõ ràng: “Giữa biển có một dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm… Họ Nguyễn mỗi năm và cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hoá, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn…”
- Trong cuốn sách Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Ký Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa và đã khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
Cột mốc chủ quyền trên đảo Nam Yết (Trường Sa) do Chính quyền Sài gòn củ xây dựng năm 1956.
Việc chiếm cứ được sự thừa nhận của các quốc gia: Việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được sự thừa nhận của nhiều quốc gia và không gặp một sự phản đối nào. Trong rất nhiều tư liệu, sách vở, bản đồ của phương Tây như: Hải ngoại ký sự (1696), An Nam đại quốc họa đồ (1838)…và cả trong sách sử, bản đồ của Trung Quốc cũng trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận điều đó.
Ví dụ cuốn Hải lục (1842) viết: “Vạn lý Trường Sa là đất nối giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên dậu của An Nam”. Trong hội nghị quốc tế tại San Francisco (Mỹ) năm 1951, khi Chính phủ Bảo Đại - Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa thì không có một quốc gia nào phản đối, kể cả Trung Quốc. Mà theo luật quốc tế, điều đó thể hiện sự thừa nhận hoàn toàn.
III. Lập trường của các bên tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa
Trung Quốc (kể cả Đài Loan) luôn cho rằng họ đã phát hiện ra hai quần đảo này và chiếm hữu, khai thác “từ lâu đời”, nhưng thực tế không có một tài liệu sách sử hay bản đồ nào xác nhận điều đó. Ngược lại nhiều tư liệu của chính họ viết điểm cực Nam của Trung Quốc là “mũi núi ngoài cảng Du Lân”, “phía Nam từ vĩ độ Bắc 18º13’, tận cùng là bờ biển Nhai Châu đảo Hải Nam” và cũng không có một tài liệu nào nhắc tới hay vẽ vào bản đồ rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.
III. Lập trường của các bên tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa
Sau cuộc đổ bộ chớp nhoáng của Đô đốc Lý Chuẩn lên Hoàng Sa (1909), Trung quốc bắt đầu quan tâm tranh chấp chủ quyền trên quần đảo này.
- Tuy nhiên, tại các cuộc hội nghị quốc tế về quy chế lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ hai như Hội nghị San Francisco, Cairo, Posdam… Trung Quốc lại tuyệt nhiên không nói gì tới hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Cơ sở xác định chủ quyền của ta đối với hai quần đảo
- Theo những tài liệu chính thức, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và làm chủ hai quần đảo từ thế kỷ thứ 17, tiếp đó Chính quyền Đông Dương đã củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo: thành lập bộ máy hành chính thuộc hai tỉnh Thừa Thiên và Bà Rịa, cho cảnh sát ra đồn trú, lập đài khí tượng, trạm vô tuyến điện, xây đèn biển. Cho đến đầu thế kỷ 20 không có nước nào tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo đối với Việt Nam.
- Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905 tái bản lần thứ tư năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến Hải Nam. Trung Quốc địa lý học xuất bản năm 1906 viết: "Điểm mút của Trung Hoa ở Đông Nam là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18 độ13` Bắc".
- Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa, các nhà cầm quyền Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên Biển Đông. Tháng 5 năm 1909, đô đốc Lý Chuẩn đem 3 pháo thuyền ra thăm chớp nhoáng một vài đảo trên quần đảo Hoàng Sa rồi về . Năm 1921 Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết định sát nhập quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam.
- Từ đó bắt đầu có sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và từ những năm 1930 trên quần đảo Trường Sa. Năm 1935 lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố một bản đồ có cả 4 quần đảo trên Biển Đông là của Trung Quốc (công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi Bộ Ngoại giao Pháp năm 1932 còn viết rằng: "Các đảo Tây Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc xa nhất về phía Nam").
- Nếu không có chiến tranh thế giới thứ hai thì chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là liên tục và thật sự từ thế kỷ 17. Nhưng năm 1939, Nhật Bản đã chiếm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ tay Pháp và đã biến quần đảo Trường Sa thành căn cứ hải quân trong chiến tranh thế giới thứ hai.
- Tháng 11/1943, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ, Anh, Trung họp tại Cairo có bàn về các lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc. Tuyên bố của Hội nghị viết: "Các vùng lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc phải trả lại cho Trung Quốc gồm Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ". Như vậy rõ ràng là 3 cường quốc trong đó có Tổng thống Tưởng Giới Thạch của Trung Quốc đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ của Trung Quốc.
- Tháng 8 năm 1945 Tuyên ngôn của Hội nghị Potsdam với sự tham gia của 4 nước Mỹ, Anh, Trung, Liên Xô lại viết: "Các điều khoản của bản tuyên bố Cairo sẽ được thi hành". Như vậy cả 4 cường quốc trong đó có Trung Quốc đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ TQ.
- Trong Hoà ước giữa TQ và Nhật Bản ngày 28/4/1952, TQ ghi nhận việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo như nội dung đã được ghi trong văn kiện Hội nghị San Francisco mà không hề yêu cầu Nhật Bản trả lại cho Trung Quốc hai quần đảo.
1. Trung Quốc
- Trong cuộc hội nghị quốc tế về quy chế lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ hai: Cairo, Posdam… Trung Quốc lại tuyệt nhiên không nói gì tới hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
- Ngay cả khi Pháp chính thức chuyển giao hai quần đảo này cho Chính phủ Bảo Đại ngày 14/10/1950 và tại Hội nghị San Francisco (1951) có đại diện của Trung Quốc, Ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của Chính quyền Bảo Đại tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này mà không gặp phải ý kiến phản đối nào.
QUAN ĐIỂM CỦA CÁC BÊN VỀ 2 QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
- Năm 1947, Chính quyền Trung hoa dân quốc xuất bản bản đồ “Nam hải chư đảo” và sau đó (1950), Trung cộng tái bản trên bản đồ “Trung hoa nhân dân cộng hoà phân tỉnh tinh đồ” thể hiện đường yêu sách 9 đoạn đứt khúc (gọi nôn na là đường lưỡi bò) chiếm tới 80% diện tích Biển Đông.
- Ngày 15/8/1951, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố: "Các quần đảo Tây Sa và Nam Sa cũng như các quần đảo Đông Sa và quần đảo Trung Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc."
Trung Quốc xác định trong bản đồ “Trung Hoa Nhân dân Cộng hoà quốc phân tỉnh tinh đồ” thể hiện 9 đoạn đứt khúc
Bản đồ hình lưỡi bò của Trung Quốc
- Tháng 4/1956, Lợi dụng tình hình Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam chưa tiếp quản hai quần đảo, TQ cho quân đội ra chiếm đoạt 7 đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đảo Phú Lâm. Đài Loan cho quân đội ra chiếm đảo Ba Bình trên quần đảo Trường Sa.
- Tháng 1/1974, lợi dụng tình hình Mỹ phải rút khỏi Đông Dương, TQ đánh chiếm nốt 6 đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa (Trung Sa) từ Quân đội Chính quyền Sài Gòn củ.
=> Như vậy, đến nay Trung Quốc đã chiếm trọn 13 đảo của Quần đảo Hoàng Sa và hiện đã xây dựng xong sân bay Phú Lâm, là đảo lớn nhất trên quần đảo Hoàng Sa. Đây cũng là đảo Trung Quốc đã đưa dân ra sinh sống và trồng dừa trên khắp đảo này.
Trận đánh chiếm Hoàng Sa của Hải quân Trung Quốc từ Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà, tháng 1/1974
Hải quân Trung Quốc
Hải quân Việt Nam Cộng Hoà
Sân bay của Trung Quốc trên đảo Phú Lâm – Hoàng Sa
Trung quốc leo thang
- Biển Đông luôn thể hiện trên bản đồ là Biển Nam Trung Hoa. Thực tế lòng biển Hải Nam đến Hòang Sa và Trường Sa không liên tục như của Việt Nam
- Tháng 3/1988 và tháng 01/1995, TQ đánh chiếm 7 bãi đá, bãi cạn ở quần đảo Trường Sa (Nam Sa).
- Tháng 12/2007, Tuyên bố thành lập thành phố cấp huyện, thành phố Nam Sa thuộc tỉnh Hải Nam.
- Trong năm 2012 Trung Quốc đơn phương thành lập thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa bất chấp luật pháp quốc tế và đặt tên là đảo Vĩnh Hưng
TQ thành lập TP Tam Sa trên đảo Phú Lâm bất chấp luật pháp quốc tế
Sinh viên biểu tình trước Tổng lãnh sự quán Trung Quốc ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 9/12/2007
Sinh viên biểu tình trước Đại sự quán Trung Quốc ở Hà Nội ngày 9/12/2007
Sinh viên tuần hành trước Đại sự quán Trung Quốc ở Hà Nội ngày 16/12/2007
Sinh viên tuần hành trước Đại sự quán Trung Quốc ở Hà Nội ngày 16/12/2007
2. Đài Loan
Đài Loan hiện đang chiếm đóng 02 đảo trong Quần đảoTrường Sa, trong đó có đảo Ba Bình, đảo lớn nhất Trường Sa và đã xây dựng công trình trên bãi cạn Bàn Than vào năm 2004, cách đảo Ba Bình khoảng 0,4 km.
- Đài Loan đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa và đã xác lập đơn vị hành chính cho đảo Ba Bình thuộc đơn vị hành chính thành phố Cao Hùng. Hiện đang xúc tiến nâng cấp đường băng và hệ thống giao thông trên đảo Ba Bình.
3. Philippin
Về lịch sử, trước năm 1898, Nhà nước Philippin qua các thời kỳ chưa bao giờ coi quần đảo Trường Sa là thuộc lãnh thổ của mình. Năm 1898, khi Tây Ban Nha ký Hiệp ước Pari, nhượng quần đảo Philippin cho Mỹ thì quần đảo Trường Sa không nằm trong đường ranh giới của quần đảo Philippin.
- Năm 1956, một người Philippin đến Trường Sa, vạch một đường bao quanh và tuyên bố sở hữu quần đảo này, đặt tên là Kalayaan (vùng đất tự do).
- Năm 1979, tổng thống Philippin đã ký Sắc lệnh sáp nhập toàn bộ quần đảo Trường Sa (trừ đảo Trường Sa lớn) vào tỉnh Palawan của Philippin với lập luận rằng các đảo này thuộc Philippin vì nó cận kề về địa lý và quan trọng cho an ninh quốc phòng của Philippin. Hiện Philippin chiếm đóng 9 đảo, bãi đá và bãi cạn.
4. Malaysia và Brunei
4.1. Malaysia:
Năm 1979, Malaysia xuất bản bản đồ công bố ranh giới thềm lục địa của Malaysia bao trùm lên phần phía Nam quần đảo Trường Sa với lập luận các đảo, bãi đá ở Trường Sa thuộc về Vương quốc cổ của Malaysia và nằm trong phạm vi yêu sách thềm lục địa của Malaysia. Hiện Malaysiachiếm đóng 5 đảo, bãi đá, bãi cạn.
4.2. Brunei:
Năm 1988 và 1993, Brunei công bố bản đồ yêu sách thềm lục ở Biển Đông trùm lên một phần nhỏ phía Nam quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, Brunei không có yêu sách hay chiếm đóng đảo, bãi đá nào của quần đảo Trường Sa.
IV. Chủ trương của đảng và nhà nước ta
Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Kiên trì giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, bất đồng khác liên quan đến biển Đông thông qua thương lượng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982. Hiện Việt Nam đã ký hiệp ước, hiệp định với Trung Quốc và các nước trong khu vực:
+ Thoả thuận về hợp tác thăm dò và khai thác dầu chung với Malaysia (1992)
+ Hiệp định phân định ranh giới biển với Thái lan (1997).
+ Hiệp định về Vùng nước lịch sử với Campuchia (1982).
+ Với Trung Quốc Hiệp định về phân chia Vịnh Bắc bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc bộ (2000).
+ Hiệp định phân định thềm lục địa với Indonesia (2003).
+ Đang tiếp tục đàm phán ký kết tiếp các hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Trung Quốc và các nước khác: Malaysia; Campuchia; vùng chồng lấn giữa Việt Nam – Tháilan và Campuchia.
Thủ tướng khẳng định 2 QĐ Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam - Phim
Những thoả thuận trên đã thu hẹp bất đồng và tăng cường sự hiểu biết tin cậy lẫn nhau hơn. Song, từ đầu năm 2007 đến nay, tình hình biển Đông diễn biến theo chiều hướng xấu.
+ Trung Quốc đã phản đối và tìm cách ngăn cản các công ty dầu khí nước ngoài đang hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam. Dùng cả máy bay có vũ trang và lực lượng hải quân để ngăn cản và đe dọa. Ta kiên trì đấu tranh để đảm bảo không xung đột vũ trang, tránh rơi vào ý đồ gây hấn của Trung Quốc.
+ Các công ty thăm dò và khai thác dầu khí của nước ngoài vẫn tiến hành. Song vẫn có một số bị tác động và rút khỏi: Công ty thăm dò địa chấn của Nga; Công ty dầu khí BP và Conoco-Phillips của Mỹ
V. Một số định hướng trong công tác tuyên truyền giáo dục
- Kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định trong nước, đặc biệt là các khu vực biên giới trên bộ và trên biển.
Kiên trì giải quyết bất đồng, tranh chấp với Trung Quốc và các nước hữu quan khác về vấn đề Biển Đông cũng như các vấn đề biên giới lãnh thổ thông qua thương lượng hoà bình.
- Nêu cao ý thức bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển; đồng thời đẩy mạnh việc phát triển kinh tế kết hợp bảo vệ an ninh - quốc phòng trên biển.
- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục nhân dân nâng cao kiến thức về chủ quyền biển/đảo quốc gia. Cần nhận thức rõ sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ lâu dài, toàn diện, phức tạp, bao gồm các biện pháp chính trị, pháp lý, đối ngoại và trên thực tế, đòi hỏi phải vừa bảo vệ được chủ quyền, vừa duy trì và phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với các bên tranh chấp ở Biển Đông. Khi xử lý các vấn đề trên Biển Đông, cần hết sức khôn khéo và tỉnh táo, kế thừa các bài học dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
- Cần nêu cao tình thần cản giác trước âm mưu của các thế lực cơ hội, cực đoan, thù địch lợi dụng bất đồng về chủ quyền lãnh thổ giữa nước ta với Trung Quốc và các nước liên quan để kích động, chia rẽ quan hệ quốc tế của ta; công kích chủ trương, đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta./.
KẾT LUẬN
Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là nhất quán, là cơ sở để nước ta giữ vững vị trí của mình trên Biển Đông.
- Đây là một cuộc đấu tranh kiên trì; mọi hoạt động của các ngành, các cấp phải có sự kết hợp chặt chẻ giữa thực tiễn và pháp lý, trong đó mặt pháp lý là rất quan trọng.
- Đây là cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài nhưng vô cùng quan trọng và thiêng liêng đối với nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ Quốc.
- Chúng ta phải nâng cao ý thức về biển cho cả dân tộc, để làm chủ được biển của mình.
- Tập trung phát triển mạnh mẽ kinh tế biển gắn liền với bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi của nước ta trên biển, để vươn lên thành một quốc gia mạnh về biển ở Đông Nam Á.
TRƯỜNG THPT: TRẦN HƯNG ĐẠO
TỔ: SỬ - ĐỊA - GDCD
CHÂN THÀNH CẢM ƠN QUÍ VỊ ĐẠI BIỂU, QUÍ THẦY CÔ ĐÃ THAM GIA LẮNG NGHE BÁO BÁO – KÍNH CHÚC QUÍ VỊ ĐẠI BIỂU, QUÍ THẦY CÔ SỨC KHỎE – HẠNH PHÚC
Phân định Vịnh Bắc bộ giữa Việt Nam Và Trung Quốc
Về
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Ngô Quí
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)