Chuyên đề dạy học toán buổi 2

Chia sẻ bởi Lê Trọng Châu | Ngày 21/10/2018 | 52

Chia sẻ tài liệu: Chuyên đề dạy học toán buổi 2 thuộc Tiếng Anh 9

Nội dung tài liệu:

Chuyên đề dạy học môn toán buổi 2
(Do Phòng GDTH Sở chỉ đạo Phòng GD Can Lộc thực hiện)
A.Nội dung, chương trình phương pháp dạy học buổi 2
- Nội dung dạy học buổi 2 chính là củng cố và rèn luyện kiến thức , kỷ năng các môn TNXH , khoa học , lịch sử , địa lý ..được tích hợp thông qua tổ chức HĐTT; bồi dưỡng học sinh giỏi , học sinh có năng khiếu các bộ môn ; phụ đạo học sinh yếu , giúp đỡ học sinh khó khăn trong học tập để đạt chuẩn kiến thức, kỷ năng theo quy định .
- Đối với nội dung dạy học buổi 2 tại chuyên đề này chúng tôi đi sâu trao đổi nội dung dạy học bộ môn toán .Theo chúng tôi để BDHS giỏi , phụ đạo học sinh yếu môn toán đưa vào buổi 2 cần tăng cường luyện tập .Thông qua luyện tập chúng ta giúp học sinh yếu ,học sinh khó khăn nắm được kiến thức đạt được kỉ năng theo chuẩn , cũng thông qua luyện tập buổi 2 chúng ta giúp học sinh khá giỏi có kỷ năng thành thạo trong việc giải toán và phát triển kiến thức.
Chuyên đề nâng cao hiệu quả
dạy luyện tập toán
tiểu học
B. Giải pháp dạy luyện toán có hiệu quả
1. Có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng thông dụng; Một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản.
2. Hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống.
3. Bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết), cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gủi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, chăm học và hứng thú học tập toán, hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
I. Mục tiêu dạy toán tiểu học nhằm giúp học sinh :
II. Quan điểm xây dựng và phát triển chương trình Toán TH:
Quan điểm xây dựng và phát triển chương trình Toàn TH căn cứ vào trọng tâm của môn Toán TH.,căn cứ vào nội dung của chương trình.
Riêng về kiến thức và kĩ năng của môn toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng hoạt động thực hành, luyện tập giải hệ thống các bài toán (bao gồm các bài toán có lời văn) trong đó có:
+ Các bài toán dẫn đến việc hình thành bước đầu những khái niệm Toán học và quy tắc tính toán.
+ Các bài toán đòi hỏi học sinh tự mình vận dụng những điều đã học để cũng cố những kiến thức và kĩ năng cơ bản, tập giải quyết một số tình huống trong học tập và đời sống.
+ Các bài toán phát triển trí thông minh đòi hỏi học sinh phải vận dụng độc lập, linh hoạt, sáng tạo vốn hiểu biết của bản thân.
Vì vậy thời gian chủ yếu dạy học toán ở tiểu học là thời gian thực hành, luyện tập về tính, đo lường và giải toán.
II. Quan điểm xây dựng và phát triển chương trình Toán TH:
III. Học sinh TH học Toán như thế nào?
+ Học sinh TH, nhất là các lớp đầu cấp thường phán đoán theo cảm nhận riêng nên suy luận thường mang tính tuyệt đối. Trong học toán học sinh thường khó nhận thức về quan hệ kéo theo trong suy diễn. Chẳng hạn đáng lẽ hiểu: "12=3x4 nên 12 : 3 = 4",coi đó là hai mệnh đề không quan hệ với nhau.
Các em khó chấp nhận các giả thiết, dữ kiện có tính chất hoàn toàn giả định bởi khi suy luận thường gắn với thực tế ( phép suy diễn của "hiện thưc").
Bởi vậy khi nghe một mệnh đề toán học các em chưa có khả năng phân tích rành mạch các thuật ngữ, các bộ phận của câu để mà hiểu nó một cách tổng quát:
III. Học sinh TH học Toán như thế nào?

+ Học sinh TH bước đầu có khả năng thực hiện việc phân tích, tổng hợp, trìu tượng hoá, khái quát hoá và những hình thức đơn giản của sự suy luận, phán đoán. ở học sinh TH việc phân tích và tổng hợp phát triển không đồng đều, tổng hợp có khi không đúng hoặc không đầy đủ dẫn đến khái quát sai trong hình thành khái niệm.Khi giải toán thường ảnh hưởng bởi một số từ "Thêm", "Bớt", "Nhiều gấp".Tách chúng ra khỏi điều kiện chung để lựa chọn phép tính ứng với từ đó do vậy mà mắc sai lầm.
IV. Thực trạng dạy luyện tập toán buổi 2:

- Thực tế ở buổi 1 mục tiêu nội dung bài học đã được hội đồng khoa học bộ GD-ĐT nghiên cứu soạn thảo. Còn ở buổi 2 giáo viên phải căn cứ vào nội dung buổi 1, năng lực thực tế học sinh để xây dựng mục tiêu và hệ thống bài tập phù hợp.
Đây là một vấn đề khó đối với giáo viên, cho nên trong giảng dạy giáo viên hay rập khuôn theo SGK và các bài tập có sẵn ở vở bài tập, sách nâng cao. Chính vì thế hệ thống bài tập rời rạc, không có tính tổng hợp, liên kết giữa các kiến thức, các phần.chưa có tính khái quát để củng cố kiến thức, kĩ năng hiệu quả và phát huy khả năng tư duy của trò.
IV. Thực trạng dạy luyện tập toán buổi 2:

VD: Khi dạy phần: Luyện tập dấu hiệu chia hết cho 2, 3, 5, 9 (SGK toán 4 - trang 99).
Bài 1: Trong các số 7435, 4568, 66811, 2050, 2229, 35766.
a. Số nào chia hết cho 2.
b. Số nào chia hết cho 3.
c. Số nào chia hết cho 5.
d. Số nào chia hết cho 9.
Bài 2: Trong các số 57234, 64620, 5270, 77285.
a. Số nào chia hết cho 2 và 5.
b. Số nào chia hết cho 2 và 3.
Cấu trúc bài buổi 1 là vậy sang bài buổi 2 giáo viên cũng thực hiện theo cấu trúc đó nhưng thay số tức là chỉ hiểu từ cái cụ thể chứ chưa khái quát được dưới dạng tổng quát.
IV. Thực trạng dạy luyện tập toán buổi 2:

- Nhiều giáo viên trong dạy luyện tập các dạng toán chưa biết hướng cho học sinh khai thác các đặc trưng của từng dạng đó .Chưa chú ý đến việc "chốt " những kiến thức, kỹ năng quan trọng để có " động hình" giúp học sinh biết giải các bài toán thuộc loại đó .
VD: Anh 8 tuổi, anh hơn em 3 tuổi. Hỏi em mấy tuổi?
GV chỉ dừng lại tìm số tuổi của em chứ chưa hướng cho học sinh hiểu được đặc trưng của dạng toán "tính tuổi" là trong cùng một thời điểm thì " Hiệu số tuổi của anh và em luôn không thay đổi " .
Chính vì thế khi gặp dạng toán:
VD: Tổng số tuổi 2 anh em hiện nay là 10 tuổi. Tính tổng số tuổi 2 anh em sau 2 năm nữa. (Thì học sinh bế tắc).
IV. Thực trạng dạy luyện tập toán buổi 2:
- Câu hỏi nêu ra chỉ mang hình thức, có khi hỏi vụn vặt hoặc quá khó nên không có tác dụng kích thích tư duy độc lập, sáng tạo, làm thui chột hứng thú học toán của học sinh.
V. Giải pháp:

2. Hệ thống bài tập:
Hệ thống bài tập đưa ra phải phù hợp với quy luật phát triển tư duy từ dễ đến khó, từ trực quan đến trừu tượng, từ cụ thể đến tổng quát. Các bài tập cần lựa chọn mang tính điển hình cho một dạng toán, điển hình cho một phương pháp giải .. Số lượng bài và mức độ phải phù hợp đối tượng học sinh.
1. Xác định mục tiêu:
Để xác định cụ thể mục tiêu trước hết cần xác định cụ thể nội dung tiết dạy củng cố kiến thức buổi 1 hoặc 1 dạng toán, 1 chương, 1 phần; đối tượng học sinh.
Mục tiêu phải cụ thể để làm cơ sở xây dựng hệ thống bài tập phù hợp.
2. Hệ thống bài tập:
Ví dụ: Chọn hệ thống bài tập cho tiết luyện tập Toán buổi chiều.
Đối tượng: Lớp 4 phân luồng từ trung bình khá trở lên.
Số lượng lớp: 26 em.
Thời gian: 60 phút.
Kiến thức: Sau khi học sinh đã học hết phần kiến thức phân số ở SGK Toán 4.
V. Giải pháp:
* Mục tiêu:
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng so sánh phân số đã được học trong chương trình SGK.
- Bước đầu giúp học sinh biết so sánh phân số qua phần bù phần thừa với đơn vị.
* Hệ thống bài tập được chọn:


3. Chú trọng đến hệ thống cần hỏi gợi mở để dẫn dắt, kích thích học sinh tư duy tìm tòi lời giải bài toán.
V. Giải pháp:
-Trong xây dựng hệ thống câu hỏi nên kích thích được tư duy độc lập sáng tạo của học sinh.Chú ý giúp học sinh tìm tòi lời giải bài toán theo hướng "phân tích đi lên" hay còn gọi là "suy ngược từ cuối".
Ví dụ: Cho 2 địa điểm A và B cách nhau 20 km. Xuất phát từ A có một động tử thứ nhất chạy về phía B với vận tốc 15 km/h. Xuất phát từ B có một động tử thứ 2 chạy về phía A với vận tốc 25km/h. Ngoài ra còn có một động tử thứ 3 xuất phát từ A với vận tốc 40 km/h. Động tử thứ 3 này chạy đi, chạy lại giữa khoảng cách của 2 động tử thứ nhất và thứ hai. Cả 3 động tử xuất phát cùng một lúc, thời gian dùng để quay của động tử thứ 3 không đáng kể. Hỏi quảng đường chạy đi chạy lại của động tử thứ 3 khi khoảng cách giữa hai động tử thứ nhất và thứ hai triệt tiêu ?.

-Đây là một bài toán thoát mới đọc thì rất phức tạp bởi bài toán dạng chuyển động có đến 3 động tử. Ngoài hai động tử chuyển động ngược chiều nhau thì có một động tử thứ 3 chạy đi chạy lại giữa khoảng cách 2 động tử A và B.
Bài toán này sẽ trở nên dễ dàng nếu chúng ta gợi mở để học sinh biết gạt đi lớp "khói mù"(hành động chạy đi chạy lại ) mà nhận ra mối quan hệ giữa 3 động tử này cùng thời gian chuyển động .

V. Giải pháp:
3. Chú trọng đến hệ thống cần hỏi gợi mở để dẫn dắt, kích thích học sinh tư duy tìm tòi lời giải bài toán.
Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi gợi mở:
- Muốn tìm quảng đường chạy đi chạy lại của động tử thứ 3 chúng ta cần tìm những yếu tố nào?
( Giáo viên có thể gợi mở để học sinh thấy được vận tốc của động tử thứ 3 là 40 km/h ).
- Hãy so sánh thời gian chuyển động của động tử thứ 3 với thời gian chuyển động của động tử thứ 1 và 2 từ khi xuất phát đến khi gặp nhau.( Đây là mấu chốt của lời giải bài toán )
-Tính thời gian của động tử thứ 3 ta làm thế nào? ( Tính thời gian chuyển động động tử 1 và 2 từ khi xuất phát đến khi gặp nhau ).
?Từ đó ta đưa bài toán về dạng toán chuyển động có bản đã học là tính thời gian của hai chuyển động ngược chiều gặp nhau.

4. Đối với học sinh khá giỏi:
Cần chú ý khai thác phát triển bài toàn theo hướng "mở". Hoặc phát triển bài toán tổng quát (nếu có thể).
Ví dụ 1: Cho tam giác ABC có diện tích bằng 30 cm2. Trên cạnh BC kéo dài về phía C một đoạn sao cho BC = CM.
Tính SABM?


V. Giải pháp:

4. Đối với học sinh khá giỏi:
Ví dụ 2: : Cho tam giác ABC có diện tích bằng 30cm2. Trên cạnh BC kéo dài về phía C một đoạn sao cho BC = CM, trên cạnh AC kéo dài về phía A một đoạn CA =AN. Tính SBNM?
V. Giải pháp:
A
B
C
M
N

4. Đối với học sinh khá giỏi:
Ví dụ 3: : Cho tam giác ABC có diện tích bằng 30 cm2. Trên cạnh BC kéo dài về phía C một đoạn sao cho BC = CM, trên cạnh AC kéo dài về phía A một đoạn CA =AN, trên cạnh AB kéo dài về phía B một đoạn AB = BK.
Tính SKNM?
K
N
M
B
C
A
Chuyên đề nâng cao hiệu quả dạy luyện tập toán
tiểu học

* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Lê Trọng Châu
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)