CHUYEN DE CAY LUA

Chia sẻ bởi Nguyễn Ngọc Tài | Ngày 23/10/2018 | 77

Chia sẻ tài liệu: CHUYEN DE CAY LUA thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

Chương 8
CÁC THIỆT HẠI TRÊN RUỘNG LÚA
Có thể chia làm 2 nhóm: côn trùng và bệnh

Nhóm côn trùng: là nhóm các động vật có 3 đôi chân, trực tiếp phá hại lúa ở giai đoạn thành trùng (nhóm công trùng) hoặc chỉ phá hại lúa ở giai đoạn ấu trùng mà thôi (nhóm sâu).

Nhóm bệnh: bao gồm những thiệt hại mà các tác nhân không thấy được hoặc khó nhận thấy bằng mắt thường; ta chỉ có thể phát hiện thông qua trệiu chứng thiệt hại trên cây.
Ngoài ra, các rối loạn về sinh lý do dinh dưỡng bất thường, đặc biệt là các hiện tượng ngộ độc do môi trường đất, cũng được đề cập đến trong chương này.
8.1 CÔN TRÙNG HẠI LÚA
8.1.1 Nhóm côn trùng (phá hại lúa ở giai đoạn thành trùng):
8.1.1.1 Rầy nâu (Nilaparvata lugens Stal.):
- Rất nhỏ, con trưởng thành (thành trùng) chỉ to bằng hạt gạo, màu nâu.
- Có hai dạng rầy cánh ngắn và rầy cánh dài
Rầy cánh dài
Rầy nâu bám vào bẹ lá
- Chúng sống quanh gốc lúa ngay phần bẹ lá, phía trên mặt nước.

- Sinh sản và phát triển rất nhanh. Mỗi lứa rầy cái đẻ hàng trăm trứng trong bẹ lá. Trứng nở ra rầy con (ấu trùng) chỉ to bằng hạt tấm, hạt cám, màu trắng ngà nên được gọi là rầy cám hay mò cám.
Trứng rầy nâu
Rầy con phải trãi qua 5 lần lột xác để trở thành rầy trưởng thành (thành trùng).
Rầy nâu có thể xuất hiện vào bất cứ giai đoạn sinh trưởng nào của cây lúa. Nếu gặp điều kiện thuận lợi, thức ăn đầy đủ thì từ lúc trứng nở đến khi trưởng thành chỉ mất khoảng 15-20 ngày. Do đó, trong một vụ lúa 4 tháng, có thể có 3 lứa rầy nối tiếp nhau, lứa sau nhiều hơn lứa trước. Mật số rầy được tích lũy ngày càng cao, đến lúc có thể gây hại cho ruộng lúa.
Hình 8.1: Hình dạng và vòng đời của rầy nâu.
Tác hại trực tiếp của rầy nâu là chích hút nhựa, làm cho cây lúa suy yếu, phát triển kém, lá vàng úa rụi dần và khô héo đi gọi là “cháy rầy”.

Tác hại gián tiếp của rầy nâu là truyền các bệnh siêu vi khuẩn cho lúa như: bệnh lúa cỏ, lùn xoắn lá.

Cách phòng trị:
- Dùng các giống lúa kháng rầy nâu.
- Làm vệ sinh đồng ruộng để rầy không có chỗ ẩn nấp.
- Bố trí thời vụ sớm là tập trung cắt đứt nguồn lưu tồn lay lan của rầy.
- Thăm đồng thường xuyên để phát hiện và phòng trị kịp thời.
- Dùng bẫy đèn để theo dõi mật số trong vùng và diệt các con rầy có cánh từ các nơi khác mới tới.
Xịt thuốc trừ rầy nâu
Ruộng lúa bị cháy rầy nâu
Khi ruộng đã bị rầy, có thể dùng dầu gasoil hay nhớt cặn trộn với thuốc sát trùng rãi giữa các hàng lúa cho lan ra khắp ruộng, xong dùng sào tre gạt cây lúa cho rầy rơi xuống nước sẽ bị dính thuốc chết.
Dùng các loại thuốc đặc trị rầy nâu như Mipcin, Bassa hoặc Applaud với liều lượng 20-25 g thuốc bột hoặc 15-20 ml thuốc nước cho mỗi bình xịt 8 lít, xịt đều khắp ruộng ở phần gốc lúa. Nếu ruộng có nước 5-10 cm có thể dùng BAM rãi 2-3 kg/công hoặc thả vịt con 1 tháng tuổi cho ăn rầy.
8.1.1.2 Rầy lưng trắng (Sogatella furcifera):
Rất giống với rầy nâu về hình dạng, kích thước và tập quán sinh sống,
Chỉ khác ở chỗ rầy lưng trắng trưởng thành có cánh màu trắng đục và có một vệt trắng trên giữa lưng.
Cách phòng trị cũng giống như rầy nâu. Cần lưu ý là các giống lúa phổ biến hiện nay chưa có giống nào kháng được rầy lưng trắng.
Hình 8.2: Hình dạng và vòng đời của rầy lưng trắng.
Ruộng lúa bị cháy rầy lưng trắng
8.1.1.3 Rầy xanh (Nephotettix spp.):
Rầy xanh lớn hơn rầy nâu đôi chút, toàn thân và cánh có màu xanh, cuối cánh có vệt đen nên gọi là rầy xanh đuôi đen.
Ở con cái còn có một chấm đen to ở giữa cánh rất dễ nhận diện.
Có 3 loại rầy xanh thường gặp trong ruộng lúa ở vùng nhiệt đới là N. virescens, N. cincticeps và N. nigropictus.
Chúng sống trên lá lúa, cũng chích hút nhựa và gây cháy rầy.
Có thể dùng các loại thuốc trừ sâu thông thường cũng diệt được rầy xanh. Đối với rầy xanh chỉ xịt thuốc đều trên ruộng lúa. Rầy xah còn truyền bệnh siêu vi khuẩn: Tungro và vàng lùn.
N. virescens
N. cincticeps
N. nigropictus
Vòng đời của rầy xanh
8.1.1.4 Rầy bông (Recilia dorsalis):
Rầy bông cũng sống trên lá lúa, kích thước to hơn rầy nâu nhưng nhỏ hơn rầy xanh.
Toàn thân rầy bông có màu xám nhớt với vệt nâu đậm hình chữ Z trên cánh nên gọi là rầy zig-zag.
Cách phá hại và biện pháp phòng trừ cũng giống như đối với rầy xanh.
8.1.1.5 Bọ xít hôi (Bồ hút) (Leptocorisa oratorius):
Bọ xít có thân hình thon dài màu xanh hơi nâu, chân và râu đều dài, sống trên bông lúa, rất di động. Bọ xít chích hút trên ruộng lúa vào giai đoạn ngậm sữa làm hạt lúa bị lép hoặc lững, để lại vết nâu đen ở giữa màu xám trên vỏ trấu. Chúng đẻ trứng to và xếp thành từng hàng trên phiến lá. Đây là loại bọ xít quan trọng nhất trong nhóm bọ xít, hiện nay chưa có giống lúa nào kháng được.
Khi có 5-10 con bọ xít hôi trên 1 m2 thì trừ ngay bằng cách xịt thuốc Methyl Parathion-50ND (15-20 ml cho 1 bình 8 lít) hoặc các loại thuốc trừ sâu thông thường khác.
Điều lưu ý là bọ xít hôi rất di động vào ban ngày rất khó bọ trúng thuốc, do đó nên xít thuốc vào lúc chiều tối lúc chúng đã kém di động đi, thì mới có hiệu quả tốt.
8.1.1.6 Bù lạch (Baliothrips biformis):
Bù lạch là một loại côn trùng rất nhỏ, màu đen chỉ to bằng sợi chỉ, dài khoảng 1,5 mm.
Chúng sống thành đàn, thường xuất hiện trên mạ hoặc lúa mới sạ hoặc cấy từ 1 tháng tuổi trở lại. Bù lạch có thể phát triển thành dịch khi ruộng khô do hạn hán kéo dài nên thường lẫn với lúa bị phèn.
Bù lạch hại lúa
Vòng đời của bù lạch
Gđ nhộng con
Ấu trùng gđ nhỏ
Ấu trùng trưởng thành
Trứng
Trưởng thành
Triệu chứng ban đầu là chót lá xanh bị cuốn lại như héo, ngay cả lúc sáng sớm, có nhiều con bù lạch tập trung trong những chót lá bị cuốn này để cắn phá làm chót lá vàng và khô héo đi.
Các loại thuốc trừ sâu thông thường đều có thể trị được bù lạch. Thiệt hại của bù lạch gây ra ít nghiêm trọng. nhưng cũng làm cho lúa mất sức rất nhiều. Sâu khi xịt thuốc cần bón thêm phân đạm và kali để bồi dưỡng cho lúa.
Damaged leaves (IRRI)
Leaf curling caused by
Rice Thrips (IRRI)
8.1.2 Sâu hại lúa (phá hại lúa ở giai đoạn ấu trùng)
8.1.2.1 Sâu đục thân (sâu nách):
Ở ĐBSCL loại sâu quan trọng và phổ biến nhất là sâu đục thân màu vàng và sâu đục thân sọc nâu.
Sâu nhỏ màu vàng nhạt. Bướm có cánh màu vàng rơm với 2 chấm đen ở gần cuối cánh rất đặc biệt, nên còn được gọi là sâu đục thân 2 chấm. Bướm cái thuờng đẻ trứng ở gần chót phiến lá. Ổ trứng hình bầu dục có lông tơ che phủ. Đây là loại sâu đục thân quan trọng nhất ở ĐBSCL vì chúng có mật số cao và kiểu sống đơn lẻ, mỗi con chỉ ở trong một chồi lúa mà thôi, nên qui mô phá hại của chúng lớn hơn so với các loại sâu đục trái khác.
Sâu đục thân màu vàng (Scirpophaga incertular):
Sâu đục thân màu vàng
(Sâu đục thân hai chấm)
Thời điểm gây hại

Gây hại trong suốt thời kỳ sinh trưởng của lúa ( kể cả giai mạ).
Thích hợp trong điều kiện ấm, nóng và ẩm độ cao nên ở miền Nam và miền Trung sâu có thể gây hại trong tất cả các vụ lúa.
Tại các tỉnh phía Bắc, những năm mùa đông rét đậm kéo dài, vụ mùa khô hạn thường phát sịnh nặng. Một năm có 6 -7 lứa, quan trọng nhất là lứa 2 (tháng 5) và lứa 5 (tháng 9) gây bông bạc. Lúa xuân muộn và mùa chính vụ bị hại nặng hơn cả.
Phòng trừ
- Dùng giống chống chịu.
- Bố trí cơ cấu mùa vụ thích hợp.
- Cày lật gốc rạ phơi ải hoặc đưa nước vào ruộng sau thu hoạch diệt nhộng.
- Ngắt nhánh héo, ngắt ổ trứng, bẫy đèn đồng loạt bắt bướm.
- Mật độ ổ trứng từ 0,5-0,7 ổ/m2 (lúa đẻ nhánh) hoặc 0,2- 0,3 ổ trứng/m2 (lúa sắp trỗ) cần phòng trừ bằng thuốc hóa học.

Phun các loại thuốc:
Padan 95SP, Regent 800WP sau khi bướm độ 5-7 ngày.
Dùng thuốc Basudin 10G, Diaphos 10G trộn với đất bột, rắc khi có nhánh héo hoặc lúa sắp trỗ. Khi rắc thuốc chú ý ruộng phải có nước
Gồm 2 loại:
Sâu đục thân sọc nâu đầu nâu (Chilo suppressalis) và đầu đen (Chilo polychrysus).
Thân sâu màu vàng nhạt, có 5 sọc màu nâu chạy dọc từ đầu đến đuôi, đầu có màu nâu hoặc đen.
Sâu sọc nâu đầu nâu lớn và dài hơn sâu sọc nâu đầu đen.
Ổ trứng hình vảy các gắn vào phiến lá bởi một chất keo, không có lông che phủ.
Khi trứng nở, sâu non chui theo bẹ lá xuống dưới gốc rồi đục vào cắn phá đọt lúa.
Chúng thường sống thành nhóm nhiều con trong một chồi lúa nên gây thiệt hại ít nghiêm trọng hơn.
Sâu đục thân sọc nâu
Vòng đời của Chilo suppressalis Walker
Sâu đục thân thường tấn công cây lúa vào 02 giai đoạn:
- Gđ nở bụi tích cực gây hiện tượng chết đọt (tâm tuyệt)
Gđ lúa trổ gây hiện tượng bông bạc làm bông lúa bị lép hoàn toàn, trong khi các lá bên dưới của chồi vẫn còn xanh.
Chúng ta có thể rút các đọt chết và bông bạc này ra dễ dàng và có thể bắt gặp con sâu còn trong đó hoặc để lại lỗ đục.
Sâu chỉ phá hại ở giai đoạn ấu trùng, giai đoạn nhộng và bướm vô hại. Hiện chưa có giống lúa nào kháng mạnh với sâu đục thân. Nếu vụ trước bị sâu đục thân, nhộng của nó có thể ở trong gốc rạ, cần đốt rơm rạ và cày lật đất, sau đó cho nước ngập để giết chúng.
Bông bị bạc vào giai đoạn trổ
Khi phát hiện trong ruộng lúa có thiệt hại do sâu đục thân thì phải dùng các loại thuốc lưu dẫn như Basudin 10H hay Furadan 3H 20-30 kg/ha rãi vào ruộng với 3-5 cm nước.
Có thể dùng bẫy đèn để bắt bướm trước khi đẻ trứng, vì chúng rất thích ánh sáng. Cũng có thể ngừa sâu đục thân bằng cách xịt thuốc trừ bướm khi chúng chưa kịp đẻ trứng.
Hình 8.6: Sâu đục thân sọc nâu đầu nâu
Sâu nhỏ, màu xanh hơi vàng, khi gần hóa nhộng có màu hồng.
Bướm nhỏ có cánh màu trắng đục với 3 sọc ngang màu nâu đen. Bướm đẻ trứng rời rạc trên phiến lá.
8.1.2.2 Sâu cuốn lá nhỏ (Cnaphalocrosia nedinalis)
Sâu thường cuốn lá lại ở bên trong ăn phá phần nhu mô, để lại những vết trắng dài nằm dọc theo gân lá. Khi còn nhỏ sâu chỉ ăn phần nhu mô mà không cuốn lá lại.
Cây lúa bị tấn công sẽ cằn cỗi, diện tích lá để quang hợp giảm làm tỉ lệ lép cao, bông ít hạt. sâu thường phá hại nặng ở những nơi rậm rạp, thiếu ánh sáng.
Gây hại từ khi lúa đẻ nhánh tới khi lúa ngậm sữa. Quan trọng nhất là giai đoạn lúa đẻ nhánh làm đòng.

Những năm có khí hậu mát mẻ, ẩm độ cao, mưa nắng xen kẻ thường phát sinh nặng.
Phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ

- Vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ cỏ dại
- Cấy dày vừa phải. Chăm sóc bón phân hợp lý.
- Bẫy đèn diệt bướm. Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng. Khi sâu non có mật độ 9-12 con/m2 (giai đoạn lúa đẻ nhánh), 6-9 con/m2 (lúa làm đòng) cần phun thuốc.
- Dùng các loại thuốc Padan 95SP, Regent 800WP, Sumithion 50EC, Karate 2.5EC... phun khi sâu còn tuổi 1-2, sâu đã lớn cần phá bao lá trước khi phun mới có hiệu quả.
Sâu có màu xanh, đầu màu cam hơi nâu.
Bướm màu trắng ngà với những đốm vàng nâu nhỏ trên cánh. Bướm đẻ trứng rời rạc ở mặt dưới lá lúa.
Sâu phao thường tấn công cây lúa từ giai đoạn mạ đến 1 tháng sau khi cấy, đặc biệt ở những chỗ trũng nước ngập sâu trong ruộng.
8.1.2.3 Sâu phao (Sâu đeo) (Nymphula depunctalis)
Sâu cắn đứt ngang lá lúa thành những đoạn rồi cuốn lại thành ống, sâu ở trong đó đưa đấu ra ngoài đeo và cắn phá nhu mô của lá lúa (nên gọi là sâu đeo). Chúng để lại các vệt trắng như thiệt hại do sâu cuốn lá, đồng thời các lá bị cắn đứt ngang. Ống sâu thường nổi trên mặt nước như những cái phao ( nên gọi là sâu phao ) để di chuyển từ nơi này sang nơi khác hoặc dính vào gốc lúa. Đó là cách di chuyển và lan tràn của sâu. Khi ống lá bị héo khô chúng cắn lá khác để làm ống mới.
Cây lúa bị tấn công sẽ còi cọc, lùn thấp xuống và có thể chết hàng loạt do bị ngập nước.
Sâu phao thường phát triển mạnh vào tháng 8-9 dl trên trà lúa lấp vụ 2 mới cấy, trong điều kiện nước lũ bắt đầu dâng cao.
Phòng trị sâu phao cũng giống như sâu cuốn lá.

Sâu phao chỉ hại trên ruộng lúa nước, không hại trên lúa cạn.

Nếu trong ruộng lúa cùng có sự xuất hiện gây hại của ruồi và sâu đục thân thì tác hại của chúng gây ra sẽ làm năng suất lúa giảm đáng kể.

PHÒNG TRỪ

Rút nước để ruộng cạn vài giờ sâu có thể chết vì không thể bơi đi kiếm ăn được.

Khi sâu có mật độ cao phun các loại thuốc Regent 800WP, Padan 95SP, Actara 25WG để diệt sâu non.
8.1.2.4 Sâu keo (Spodoptera litura)
Sâu to màu xám có sọc nâu đậm ở hai bên hông chạy dọc từ đầu đến đuôi.
Sâu cắn lá dứt ngang và ăn phần phiến lá chỉ chừa gân chính ở giữa.
Bướm sâu keo
Sâu có thể tấn công từng đàn ban đêm gây thiệt hại rất lớn.
Ban ngày sâu thường ẩn dưới gốc lúa rất khó phát hiện.
Có thể dùng Methyl Parathion, Azodrin 50 ND xịt vào lúc trời mát đến tối hoặc rãi Basudin 10H hay Furadan 3H 20-30 kg/ha nếu có nước hay có mưa. Lưu ý là sâu keo thường phá hại nặng ở ruộng khô.
Vòng đời sâu keo
Dòi là giai đoạn ấu trùng của con ruồi đồng.
Ruồi màu xám đen, hơi nhỏ và sáng hơn ruồi nhà một chút. Ruồi đẻ trứng rời rạc trên lá, trứng nở ra dòi (ấu trùng) màu vàng nhạt, chui vào trong thân lúa đục ngang đọt lá non. Khi lá vươn ra khỏi thân sẽ mang những vết sẹo tưa trắng hoặc những lỗ tròn ngang nhau. Nếu bị nặng lá lúa bị gãy, lúa nở bụi kém.
Dòi thường tấn công ở giai đoạn mạ đến khi có chồi tối đa, nhất là lúa mới cấy được 1 tháng. Khi cây mạ còn nhỏ, nếu bị dòi đục cũng chết đọt như sâu đục thân. Để phòng trị nên rãi thuốc ngừa sau khi cấy hoặc ở giai đoạn lúa còn non trong vòng 1-1,5 tháng tuổi.
8.1.2.5 Dòi đục lá (ruồi đục lá) (Hydrellia philippina)
Vòng đời của ruồi đục lá
8.1.2.6 Muỗi gây lá hành (Orseolis oryzae)
Con muỗi trưởng thành to bằng muỗi thường nhưng bụng có màu hồng lợt.
Chúng đẻ trứng ở mặt dưới lá.
Muỗi hoạt động mạnh vào mùa mưa, nên dịch muôi hành thường xảy ra vào vụ lúa hè thu, thu đông hoặc vụ lúa mùa. Trứng nở thành ấu trùng chui vào đọt non của lúa làm lá non không mở ra được, cuốn tròn như cọng hành hay cọng năng nên còn gọi là muỗi năng hay sâu năng. Nó hóa nhộng luôn trong đó và khi lột xác thành muỗi nó đục lổ phía trên đọt tròn đó mà chui ra, chồi bị chết. Chúng có thể sống trên cỏ dại và lây lan rất nhanh gây thiệt hại nặng trên các trá lúa muộn. Phòng trị muỗi gây lá hành như đối với sâu đục thân.
Hình 8.10: Muỗi gây lá hành
8.2 BỆNH HẠI LÚA
8.2.1 Bệnh do nấm
8.2.1.1 Bệnh cháy lá (đạo ôn)
Do nấm Pyricularia oryzae gây ra. Bệnh có thể gây hại rất sớm từ nương mạ nhưng thường bị nặng nhất là giai đoạn làm đòng đến sau trổ một thời gian, nấm có thể tấn công ở mọi bộ phận của cây lúa nhưng nhiều nhất là ở phiến lá.
Trên lá, vết bệnh lúc đầu nhỏ màu nâu, sau phát triển thành vệt bệnh điển hình có dạng hình mắt én, hai đầu hẹp, giữa phình ra có màu xám tro. Chung quanh vết bệnh có viền nâu rõ rệt, ngoài viền nâu thường có một quầng vàng.
Nhiều vết bệnh liên kết lại làm cả lá lúa bị cháy khô.
Vết bệnh trên phiến lá
Bệnh cũng xuất hiện trên các đốt thân làm gãy ngang thân lúa hoặc trên cổ bông (bệnh khô cổ bông) làm tắt nghẽn mạch dẫn nhựa nuôi hạt, bông lúa bị gãy, hạt bị lép và lững.
Bệnh xuất hiện và phát triển mạnh trong điều kiện ẩm độ cao, sương mù nhiều, ruộng thiếu nước và bón nhiều phân đạm, sạ cấy quá dày.
Vết bệnh trên đốt thân
NGỪA BỆNH

diệt sạch cỏ dại, rơm rạ có chứa mầm bệnh trước khi canh tác
xử lý hạt giống bằng cách ngâm trong nước ấm (3 sôi + 2 lạnh) 15 phút hoặc dung dịch thuốc Arasan, Ceresan (4g/4lít nước/2kg hạt) trong 24 giờ.
Gieo sạ với mật độ vừa phải, bón cân đối N, P, K; đặc biệt là phân Kali để tăng cường tính kháng của tế bào cây đối với sự xâm nhập của nấm bệnh.

Khi cây lúa chớm bệnh có thể dùng Kitazin 10H 20-30 kg/ha rãi hoặc xịt Kitazin nước (15-20 ml/ 8 lít nước), Copper Zine, Copper B hoặc dùng dung dịch thanh phàn vôi (1 kg vôi + 1 kg phèn xanh + 100 lít nước) xịt lên lá lúa.
Ruộng lúa bị cháy lá do bệnh đạo ôn
Lá lúa bị cháy do bệnh đạo ôn
Do nấm Helminthosporium oryza khi hạt đang nảy mầm làm cây lúa non còi cọc không phát triển được.
Trên lá, đốm bệnh có hình tròn hay bầu dục, màu nâu lợt có viền nâu sậm với các vòng đồng tâm trong vết bệnh.
Trên hạt, vết bệnh có màu nâu đen (thường gọi là bệnh lem hạt).
Bệnh phát triển mạnh ở đất trầm thuỷ (ngập nước quanh năm), nhiều chất hữu cơ chưa hoai mụt, đất mặn, phèn, thiếu dinh dưỡng và đặc biệt là thiếu kali.
Để ngừa bệnh đốm nâu cần cải thiện điều kiện môi trường, cây lúa phát triển khoẻ thì ít bị nhiễm bệnh.
8.2.1.2 Bệnh đốm nâu
Vết bệnh trên lá do nhiễm nấm Helminthosporium oryza
Cây lúa non bị nhiễm nấm Helminthosporium oryza
Còn gọi là khô vằn hay ung thư, do nấm Thanatephorus cucummeris gây ra.
Nấm bệnh có 2 cách lan tràn:
- bằng hạch nấm
- bằng bào tử
Lây bệnh bằng hạch nấm
Những hạch nấm tròn nhỏ bằng hạt cát trôi trên mặt nước bám vào bẹ lá và từ đó tấn công cây lúa.
Bằng cách này, bệnh xuất hiện đầu tiên ở bẹ lá, rồi từ đó lan dần lên phiến lá.
8.2.1.3 Bệnh đốm vằn
Trên bẹ lá, vết bệnh lúc đầu tròn hay bầu dục, màu xám có viền nâu, sau lan ra không đều thành những vết loang lỗ vằn bệnh như da hổ, bẹ lá khô tóp lại làm lá bị chết khô, bông lúa trổ bị nghẹn hoặc trổ được cũng bị lép nhiều.
Vết bệnh trên bẹ lá
Rhizoctonia solani Kuhn
Lây bệnh bằng bào tử nấm

Bào tử nấm bay trong không khí, di chuyển nhờ gió. Bằng cách này, bệnh đầu tiên sẽ xuất hiện trên phiến lá do bào tử nấm trong không khí rơi xuống trên lá.

Bệnh thường xuất hiện nhất vào thời kỳ làm đòng đến chín. Bệnh thường xuất hiện thành từng chòm và phát triển mạnh trong điều kiện ẩm độ cao, ruộng ngập nước sâu, bón nhiều phân đạm, sạ cấy quá dày và giống dễ nhiễm.

Để ngừa bệnh này nên sạ cấy vừa phải, bón ít đạm, tăng cường phân lân và kali, giữ nước thích hợp. Khi bệnh chớm phát có thể dùng các loại thuốc trừ nấm như Zineb, Maneb, Kitazin, Copper Zine, Copper B để trị như đối với bệnh cháy lá.
PHÒNG TRỪ
Cấy dày vừa phải, bón phân cân đối.
- Phân chuồng phải được ủ kỹ.
- Khi lúa bị bệnh có thể dọn sạch tàn dư bệnh trên ruộng kết hợp phun thuốc trừ bệnh.
- Sử dụng các lọai thuốc trừ bệnh như Validacin 3SL, 5L, 5SP; Vacocin 3SL; Anlicin 5WP, 5SL....

Chú ý: Nếu bệnh xuất hiện muộn vào thời kỳ lúa trỗ chín có thể leo lên lá đòng thì cần phun, không leo lên lá đòng là an toàn.
Do nấm Ustilaginoidea virens (Cooke) Taka

Bệnh phát sinh gây hại từ lúc lúa phơi màu cho tới khi chín.

Thời tiết nắng nóng, mưa nhiều, ẩm độ cao, bón đạm nhiều nặng về cuối thuận lợi cho bệnh phát triển.
Bệnh gây hại trên nhiều giống lúa và hại nặng trên các giống lúa Trung Quốc.
Bệnh hoa cúc
* PHÒNG TRỪ

Không sử dụng hạt giống ở những ruộng bị bệnh. Xử lí hạt giống bằng nước nóng 540C.

Chăm sóc hợp lý làm cho cây khoẻ, tăng cường khả năng chống bệnh.

Vệ sinh đồng ruộng, phơi ải, ngâm dầm để tiêu diệt bào tử và hạch nấm.

Không gieo cấy những giống lúa mẫn cảm với bệnh.
8.2.1.4 Bệnh thối bẹ
Do nấm Sarocladium oryzae thường tấn công trên bẹ lá cờ.
Vết bệnh có màu nâu tới xám lan ra đều khắp bẹ lá làm bông lúa bị nghẹn, hạt lép và lem.
Bệnh thường xảy ra trong điều kiện ẩm độ cao, bón nhiều phân N, sạ cấy dày.
Cũng có thể trị bằng các loại thuốc trừ nấm như Zineb, Maneb, Kitazin, …
8.2.1.5 Bệnh thối thân
Do nấm Helminthosporium sigmoideum gây ra.
Nấm thường xâm nhập qua các vết thương trên thân lúa gần mặt nước.
Vết bệnh màu đen và lan dần ra, lá bị vàng và khô héo dần. Sau đó, nấm chui sâu vào các bẹ lá bên trong thân lúa khiến cả chồi lúa và các bẹ lúa đều bị thối, cây lúa bị chết rụi từng chồi rồi cả bụi.
Các lá rụi dần từ lá ngoài vào lá trong, cây lúa suy yếu, chiều cao thấp dần cuối cùng bị lụi đi, nên gọi là bệnh tiêm lụn.
Bệnh thường xảy ra lúc lúa làm đòng, sắp trổ và xuất hiện thành từng chòm ở những chỗ trũng, từ đó lan dần ra cả đám ruộng.

Tách bẹ lá ra có thể thấy nhiều tơ nấm màu trắng và các hạch nấm màu đen nhỏ li ti.

Nấm phát triển mạnh trong điều kiện ngập nước sâu và ứ đọng, sạ cấy dày, đất nhiều hữu cơ, lúa có tàn lá sum suê, thừa đạm. Bệnh thường gây thiệt hại nặng trên các trà lúa muộn.
NGỪA BỆNH

Nên sạ cấy sớm với mật độ vừa phải

Hạn chế bón phân đạm, bón thêm lân và kali,

Tạo điều kiện thoát bớt nước trong ruộng.

Khi bệnh mới xuất hiện từng chỏm nhỏ trong ruộng, có thể dùng Kitazin (15-20 ml/8 lít) xịt đều vào gốc lúa bị bệnh và xịt lan rộng ra chung quanh khoảng 2 mét để tránh sự lây lan. Có thể dùng các loại nấm trừ thuốc khác như Zineb, Maneb, Copper Zine, Copper B hay thanh phàn vôi.
8.2.2 Bệnh do vi khuẩn
8.2.2.1 Bệnh cháy bìa lá (bạc lá):
Do vi khuẩn Xanthomonas campestris pv. oryzae gây ra.

Trên lá, vết bệnh ban đầu là những sọc vàng nhỏ ở chóp lá và bìa lá, sau đó lan rộng ra dọc theo các gân lá và từ bìa lá vào trong.
Vết bệnh dần dần khô lại có màu xám trắng, viền ngoài vết bệnh có hình dợn sóng.
Vào lúc sáng sớm có thể thấy các giọt vi khuẩn màu vàng đỏ ứa ra ở chót lá hoặc dọc theo rìa lá. Bệnh nặng vết bệnh có thể lan dần đến bẹ lá và toàn thân bị cháy khô gọi là bệnh “Kresek”.
Cắt lá bệnh nhúng vào nước trong, nước bị đục vì có chứa vi khuẩn.
Vi khuẩn thường xâm nhập qua vết thương trên lá hoặc từ các khí khổng dọc theo bìa lá, từ đó lan ra.
Bệnh phát triển mạnh trên đất giàu hữu cơ, bón nhiều phân đạm, mưa nhiều, ẩm độ cao và mức độ nhiễm khác nhau tùy giống.
Để ngừa bệnh này, cần tích cực phòng trừ côn trùng và tránh gây thương tích cho cây lúa, hạn chế bón đạm, tăng cường bón phân kali cho lúa và dùng giống lúa ít nhiễm bệnh.
* PHÒNG TRỪ

Chăm sóc bón phân hợp lý, khi lúa bị bệnh rút bớt để xăm xắp nước và không được bón đạm.

Phun các loại thuốc Bactocide 12WP, Sasa 20WP, Xanthomix 20WP. Phun vào lúc sáng sớm hay chiều mát.
8.2.2.2 Bệnh sọc trong (hay lá trong):
Do vi khuẩn Xanthomonas campestris pv. oryzae gây ra.

Bệnh thường xuất hiện trong điều kiện mưa nhiều, ẩm độ cao, bón nhiều phân đạm.

Triệu chứng bệnh chỉ hiện diện trên phiến lá. Đốm bệnh ban đầu là những vạch trắng, mộng nước giữa những gân lá, dần dần trở nên vàng hay màu cam.
Vết bệnh lan dần giữa các gân lá tạo thành những sọc gần như trong suốt.

Các sọc này liên kết nhau làm cả lá bị đỏ và cháy khô.

Khi gặp điều kiện thời tiết thuận lợi, bệnh phát triển mạnh, những giống lúa dễ bị nhiễm bệnh thường bị vàng khắp ruộng.

Tuy nhiên, nếu điều kiện thời tiết thay đổi trở nên thuận lợi hơn, thì có thể những lá non mới ra sẽ không bị nhiễm bệnh.

Cách phòng ngừa cũng giống như bệnh cháy bìa lá.
8.2.3 Bệnh do siêu vi khuẩn (virus)
Bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá
Hai bệnh này không lây qua hạt giống, nước, không khí, đất và các tác nhân cơ giới mà chủ yếu là do rầy nâu truyền bệnh.

Khoảng 1 tiếng sau khi rầy nâu chích hút ở cây lúa bị bệnh thì chúng đã có khả năng truyền bệnh.

Thời gian rầy nâu chích hút ở cây lúa bị bệnh càng lâu thì khả năng rầy truyền bệnh càng cao.
* Cơ chế truyền bệnh
* Triệu chứng bệnh vàng lùn

- Cây lúa bị lùn:
Mức độ lùn của cây tuỳ thuộc vào giai đoạn cây lúa bị nhiễm bệnh.
Nhiễm bệnh sớm, cây bị lùn nhiều và nhiễm muộn thì cây lúa ít lùn hơn.

- Lá lúa bị ngã màu vàng cam.
Trên một chồi, các lá bên dưới ngả vàng trước rồi lan dần lên các lá trên.
Trên một lá, sự ngã màu vàng đi từ chóp lá và hai bên mép lá đi vào.
Trong một bụi lúa có thể có chồi bệnh và chồi khoẻ.
Khi bệnh nặng, cây lúa hoặc cả bụi lúa bị chết rụi.
Trong một bụi lúa có thể có chồi bệnh và chồi khoẻ
* Triệu chứng lùn xoắn lá

Cây bị lùn: cây bị lùn hơn so với cây lúa bình thường nhưng bộ rễ không bị hư.

Lá bị xoắn, mép lá có thể bị rách, hay gân lá bị sưng to giống như những u bướu.

Bụi lúa có chồi đâm ra từ đốt thân bên trên mặt đất (nếu bị bệnh lâu ngày).

Lá lúa vẫn xanh đậm, lá không bị ngã vàng, cây lúa không chết nhưng không trỗ hay trỗ không thoát (nghẹn đòng) và cho nhiều hạt lép.
- Rầy nâu có thể lấy được cả hai loại virus gây bệnh vàng lùn và bệnh lùn xoắn lá vào cơ thể và có thể truyền được đồng thời cả hai bệnh trên vào một cây lúa, vì vậy trong một bụi lúa có thể đồng thời thấy được cả hai triệu chứng của bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá.

Trong trường hợp cây lúa bị nhiễm đồng thời cả hai bệnh vàng lùn và bệnh lùn xoắn lá thì bụi lúa bị lùn. Trong bụi lúa vừa có lá vàng từ chóp lá vào vừa có lá xanh đậm và vặn xoắn. Số tép lúa trong bụi không tăng, không giảm.
Quản lý bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá

Cần quản lý thật tốt rầy nâu vì rầy nâu chính là nguồn lây lan bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá.

- Thăm đồng thường xuyên để phát hiện rầy thật sớm.

- Khi phát hiện có rầy nâu cánh dài ở giai đoạn mạ với mật độ từ 7-10con/tép thì phải phun thuốc trừ rầy ngay vì đây là rầy mới di chuyển đến và khả năng rầy mang mầm bệnh là rất cao.

- Khi cây lúa còn ở giai đoạn mạ đến đẻ nhánh, nếu phát hiện cây bị bệnh thì phải nhổ bỏ ngay hay cày vùi huỷ bỏ toàn bộ ruộng lúa để tránh lây lan vì cây lúa không thể phục hồi cho dù tiếp tục được đầu tư thêm phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, hay bơm nước vào…
* Lịch sử phát triển bệnh

Bệnh được phát hiện đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1977 tại Tiền Giang. Năm 2006, bệnh đã gây hại nghiêm trọng trên các vụ lúa hè thu, lúa mùa, lúa đông xuân ở nhiều tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ, Nam Trung bộ và Tây Nguyên..
Môi giới truyền bệnh là rầy nâu (Nilaparvata lugens), một cá thể rầy nâu mang virus gây bệnh chích hút trên cây lúa một vài giờ là khiến cho cây lúa bị bệnh. Do đó, thường hay thấy ở thời gian nào, ở một nơi nào có nhiều rầy nâu gây hại thì ở nơi đó xuất hiện bệnh lúa lùn xoắn lá.
Cỏ lồng vực (Echinochloa Crus-galli) và cỏ đuôi phượng (Leptochloa chinensis) là 2 loại ký chủ trung gian quan trọng của bệnh. Do đó trừ các loài cỏ này cũng góp phần hạn chế nguồn bệnh lùn xoắn lá trên đồng ruộng.
Những kết quả nghiên cứu cũng ghi nhận vi rút lùn xoắn lá lúa không truyền lan qua hạt giống, đất, tiếp xúc cơ giới dịch cây, và không truyền bệnh qua trứng rầy nâu.

Cây lúa bị bệnh lùn xoắn lá sinh trưởng cằn cọc, cây thấp lùn, chiều cao cây, chiều dài lá, rễ, cổ áo đều bị giảm sút, co ngắn lại khoảng 40-60% so cây khoẻ.

Số chồi/khóm tuy có nhiều song hầu hết không có bông hoặc trỗ bông muộn, trỗ bông không thoát. Bông lúa ngắn, ít hạt, lép lửng, dẫn đến thất thu hoặc giảm năng suất nghiêm trọng.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ BỆNH VIRUS HẠI LÚA

- Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ, dọn sạch tàn dư và ký chủ trung gian của bệnh.

- Cày bừa, làm đất kỹ, vùi lấp tàn dư và nguồn bệnh

- Sử dụng giống lúa kháng bệnh, giống lúa cứng cây có khả năng chống chịu bệnh.

- Chăm sóc hợp lý tạo điều kiện cho cây lúa khoẻ tăng cường khả năng chống chịu bệnh.

- Thường xuyên theo dõi đồng ruộng, phát hiện các loại rầy là môi giới truyền bệnh, phòng trừ sớm, kịp thời bằng các loại thuốc Bassa 50EC, Trebon 20ND, Admire 50EC, Actara 25 WG...
Sử dụng thuốc hóa học theo nguyên tắc 4 đúng để hạn chế tối đa mật độ rầy nâu và rầy nâu mang mầm bệnh.
Nguyên tắc 4 đúng:
Đúng thuốc ( thuốc trừ rầy)
Đúng liều lượng
Đúng lúc (rầy cám ở tuổi 2-3, rầy trưởng thành chiếm đa số)
Đúng cách ( phun vào gốc lúa nơi rầy đang cư trú)
8.2.4 Bệnh do tuyến trùng
8.2.4.1 Bệnh tiêm đọt sần:
Bệnh do một loại tuyến trùng thân gây ra (Ditylenchus angustus) chúng có thể tấn công vào bất cứ giai đoạn nào của cây lúa.
Bệnh xuất hiện nặng và hầu như thường xuyên ở những vùng lúa nổi, những chân ruộng trủng nước ngập sâu và rút chậm hoặc nước trầm thuỷ quanh năm.
Các vùng Trà Ôn, Tam Bình, Bình Minh (Vĩnh Long), Thốt Nốt, Ô Môn, Phụng Hiệp (Cần Thơ) là những vùng bị nhiễm thường xuyên và bị thiệt hại nặng, đặc biệt trên diện lúa mùa dài ngày.
Tuyến trùng tấn công đầu tiên ở tại cổ của các lá non để lại chấm trắng ở vùng cổ lá, nên nông dân còn gọi là bệnh khoang cổ.
Bệnh nặng cả lá bị trắng, lá non mới ra quăn queo, khô héo và chết.
Một số nơi nông dân còn gọi là bệnh “tiêm đọt nhiễu”.
Lúc lúa trổ, bông lúa bị nghẹn, lá cờ quăn queo, hạt lép trắng, chồi con mọc ra bất thường. Lúa có thể bị thất thu hoàn toàn.
Phòng ngừa bệnh

- Phải vệ sinh đồng ruộng thật tốt, đốt bỏ rơm rạ mùa trước,
- Cày ải phơi đất ít nhất 1 tháng rồi cho ngập nước liên tục 3-4 tuần trước khi gieo cấy để diệt tuyến trùng trong đất hoặc khử đất trước khi cấy với Furadan 3H hoặc Basudin 10H 20-30 kg.ha.
- Xử lý rễ mạ trước khi cấy bằng cách ngâm 24 giờ trong dung dịch thuốc Furadan 3H hoặc Basudin 10H.
8.2.4.2 Bệnh bướu rễ
Do một loại tuyến trùng rễ Meloidogyne graminicola gây ra.

Bệnh chỉ xuất hiện ở ruộng khô, đất thoáng khí. Bệnh thường xảy ra ở nương mạ hoặc lúa non.

Tuyến trùng trong đất xâm nhập vào rễ lúa làm rễ phù lên như cái bướu đuờng kính từ 1-5 mm.

Rễ ngắn, đầu rễ trơ trụi không phát triển.

Lá lúa vàng đỏ và khô héo, cây lúa lùn xuống không nở bụi được và rất dễ bị héo lúc trưa nắng, cây lúa cũng dễ bị bệnh đốm nâu hơn.
* Phòng trị

Nên làm mạ ướt để cấy, giữ nước thường xuyên không để ruộng khô, đất cần được cày ải và cho ngập nước 2-3 tuần trước khi gieo cấy.

Nếu lúa bị bướu rễ cần bơm nước ngập ruộng và giữ liên tục 3-5cm, rãi 20-30 kg Basudin 10H hoặc Furadan 3H/ha. Vài ngày sau có thể bón 1 ít phân đạm và lân để giúp lúa mau hồi phục.
* Mức độ xuất hiện trên đồng ruộng

Bệnh này bắt đầu xuất hiện sớm, khoảng 15 – 20 ngày sau khi sạ. Trên ruộng có những lõm lúa bị lùn và có vàng cam

* Tình trạng ruộng lúa

Ruộng thiếu nước, đất khô ráo, đi không ướt chân.
Có thể đang có nước trong ruộng, nhưng trước đó có lúc ruộng bị thiếu nước.

Bệnh thường xảy ra trong 30 ngày đầu của ruộng lúa
Bệnh truyền qua hạt giống
Triệu chứng điển hình và dễ nhận biết là cây bệnh phát triển chiều cao bất bình thường, cây yếu và có màu xanh nhạt.
Mức độ bị bệnh của cây được thể hiện rõ bằng sự sinh trưởng cao vọt của cây, nhưng đôi khi do ảnh hưởng của điều kiện thời tiết mà khả năng tiết ra độc tố của nấm bệnh khác nhau dẫn đến xuất hiện một vài triệu chứng khác như làm cho cây bị bệnh lùn đi, đa số chết trên nương mạ, hoặc có dạng bệnh không làm thay đổi chiều cao của cây
1. Bệnh lúa von: do nấm Fusarium moniliforme gây ra
Cây nhiễm bệnh nặng thường bị chết trước khi cấy hoặc sau khi cấy.
Những cây nhiễm bệnh trung bình hoặc nhẹ hơn hầu như cũng chết ở giai đoạn ruộng lúa đang làm đòng.
Một số ít cây lúa bị bệnh sống sót đến giai đoạn làm đòng- trỗ bông, lóng vươn dài, mọc rễ bất định ở các đốt phía dưới gần gốc lúa, có thể quan sát thấy lớp nấm màu trắng hoặc phớt hồng bao quanh. Trên đốt thân và vỏ hạt có nhiều chấm nhỏ li ti màu xám đen, đó là quả thể nấm.
Triệu chứng bệnh lúa von Giai đoạn cuối đẻ nhánh-Giống Jasmine Ở AnGiang.
Biện pháp phòng trừ bệnh truyền qua hạt giống
8.3 Bệnh sinh lý hay các triệu chứng dinh dưỡng bất thường
8.3.1 Độc do mặn
Thường gặp ở các vùng ven biển vào đầu và cuối mùa mưa.

Cây lúa bị độc do mặn thì chót lá non bị trắng, uốn lại và khô đi, cây sinh trưởng kém, nở bụi ít và có thể chết.

Dùng các giống lúa chịu mặn khá, cải tạo mặt bằng và làm mương thoát mặn để lợi dụng nước rửa mặn.

Kinh nghiệm “kê đất đào mương phèn” ở Minh Hải là một biện pháp cải tạo đất mặn phèn rất tốt.
8.3.2 Độc do phèn
Là triệu chứng kết hợp giữa sự độc do sắt (Fe2+), nhôm (Al3+), sự thiếu lân và pH thấp đã trình bày ở phần dinh dưỡng khoáng
Mức độ xuất hiện trên đồng ruộng
Xuất hiện đều khắp ruộng
Cây lúa bị ngộ độc phèn
* Tình trạng ruộng lúa
Ruộng có nước hoặc thiếu nước, có váng vàng trên mặt đất hoặc trên mặt nước, bám vào gốc lúa.
Chóp lá lúa bị vàng và cháy khô
Rễ lúa bị vàng nâu do nhiễm phèn
* Cách phòng chống

- Lúc làm đất tước khi sạ cần đánh rãnh phèn để tháo xả phèn khi cần thiết.

- Nếu nằm trong vùng đất nhiều phèn, phải mương phèn chung quanh ruộng để ém phèn lúc tháo nước cho khô đất giữa vụ.

- Sau khi tháo khô giữa vụ và cho nước vào xong, cần theo dỏi rễ lúa xem có bị phèn hay không. Nếu có, thì rải 100 - 200 kg vôi bột /ha
* Cách trị

Ngưng bón phân đạm (NPK, DAP hoặc urê)

Tháo nước phèn ra khỏi ruộng (xả phèn)

Rải vôi bột cho ruộng, 200 kg /ha.

Cho nước ngoài kinh rạch vào (thay nước)

Phun phân bón lá Hydrophos (giàu P).

3 ngày sau, quan sát rễ lúa. Nếu có đâm rễ trắng ra là lúa đã phục hồi. Có thể bón phân bình thường.
Lưu ý:

- Nên dùng loại vôi tốt (vôi rải đáy ao nuôi cá hoặc vôi dùng quét vách tường.

- Có thể tôi vôi trước khi rải: chiều hôm trước trải vôi trên sân xi măng, trộn thêm với 1 thúng tro trấu ẩm cho mỗi 20 Kg vôi. Trộn đều. Nếu tro khô, sau khi trộn dùng thùng tưới tưới nhẹ nước lên cho vôi hơi ẩm nhưng không dư thừa nước. Để qua đêm rồi đem rải.
8.3.3 Độc do chất hữu cơ
Chủ yếu do nồng độ các acid hữu cơ sản sinh trong quá trình phân giải xác bã thực vật trong điều kiện yếm khí.

Ở vùng nhiệt dới, nồng độ acid hữu cơ và H2S (do sự khử hoá sulfate) trong đất, gia tăng cao nhất vào khoảng 2 tuần sau khi ngập nước, gây trở ngại cho sự hấp thu dinh dưỡng của bộ rễ làm rễ bị thối đen, cây lúa không phát triển được, lá bị vàng úa dễ bị nhiễm bệnh đốm nâu (Helminthosporium oryzae) và có thể chết.

Cần thay nước sạch 2 – 3 lần, sục bùn, bón thêm phân lân và kali cho cây lúa mau hồi phục.
Rễ thúi đen do ngộ độc axit hữu cơ
* Mức độ xuất hiện trên đồng ruộng

Buội lúa rải rác hoặc theo từng đám
Thường xuất hiện từ 20 đến 40 ngày sau khi sạ

* Tình trạng ruộng lúa

Ngập nước
Đất còn lẫn rơm rạ chưa phân hủy
Ngửi đất có mùi hôi thúi
Ruộng lúa bị ngộ độc axit hữu cơ
* Cách phòng chống

- Làm đất sớm trước khi sạ 10-15 ngày (cày vùi gốc rạ ngay sau khi thu hoạch).

Nếu phơi ải được càng tốt.

Trục đánh bùn trước khi sạ. Kéo rãnh dọc trên ruộng để xả nước khi cần.

Vào 10 và 20 ngày sau khi sạ, nhổ lúa để quan sát rễ. Nếu thấy rễ thúi đen thì phải áp dụng theo “Cách trị”
* Cách trị
Ngưng bón phân đạm (NPK, urê hoặc DAP)
- Tháo cạn nước trong ruộng ra, đánh rãnh để tháo thật hết nước nơi trũng. Cho nước mới ngoài kinh rạch vào.
- Rải vôi bột, 20 Kg /1000m2.
- Có thể phun thêm phân bón lá Hydrophos
- 3 ngày sau xem lại rễ lúa. Nếu đã đâm rễ non thì có thể bón phân bình thường.
Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây lúa
* ĐỊNH NGHĨA, NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG
QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP.

Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) là gì?

Theo nhóm chuyên gia của tổ chức nông lương thế giới (FAO), “Quản lý dịch hại tổng hợp” là một hệ thống quản lý dịch hại mà trong khung cảnh cụ thể của môi trường và những biến động quần thể của các loài gây hại, sử dụng tất cả các kỹ thuật và biện pháp thích hợp có thể được, nhằm duy trì mật độ của các loài gây hại ở dưới mức gây ra những thiệt hại kinh tế.
2. Năm nguyên tắc cơ bản trong quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)

a. Trồng và chăm cây khoẻ:
- Chọn giống tốt, phù hợp với điều kiện địa phương.
- Chọn cây khoẻ, đủ tiêu chuẩn.
- Trồng, chăm sóc đúng kỹ thuật để cây sinh trưởng tốt có sức chống chịu và cho năng suất cao.

b. Thăm đồng thường xuyên
- Kiểm tra đồng ruộng thường xuyên, nắm được diễn biến về sinh trưởng phát triển của cây trồng; dịch hại; thời tiết, đất, nước... để có biện pháp xử lý kịp thời.
c. Nông dân trở thành chuyên gia đồng ruộng
- Nông dân hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng quản lý đồng ruộng cần tuyên truyền cho nhiều nông dân khác.

d. Phòng trừ dịch hại
- Sử dụng các biện pháp phòng trừ thích hợp tuỳ theo mức độ sâu bệnh, thiên địch ký sinh ở từng giai đoạn.
- Sử dụng thuốc ho�
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Ngọc Tài
Dung lượng: | Lượt tài: 2
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)