CHUYEN DE
Chia sẻ bởi Dương Thị Nguyệt Nga |
Ngày 21/10/2018 |
32
Chia sẻ tài liệu: CHUYEN DE thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
PHÒNG GD & ĐT LẬP THẠCH
TRƯỜNG THCS TỬ DU
TỔ : KHOA HỌC XÃ HỘI
Chuyên đề:
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
I/ Vai trò:Môn Ngữ văn thuộc nhóm khoa học xã hội, có vai trò quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho HS và là môn công cụ không chỉ trong giao tiếp, nhận thức mà còn là công cụ tư duy của học sinh.
A/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
II/ Vị trí: Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường THCS; là hình thành những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, biết tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, căm ghét cái xấu, cái ác.
Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật; trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Mục tiêu tổng quát trên được cụ thể hóa thành ba phương diện:
thái độ
kĩ năng
kiến thức
1/ Kiến thức:
Một số khái niệm và thao tác phân tích tác phẩm văn học.
Nắm được những đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của các loại đơn vị tiêu biểu cho từng bộ phận cấu thành tiếng Việt
Các kiến thức về các kiểu văn bản thường dùng và các kiến thức thuộc cách thức lĩnh hội và tạo lập các kiểu văn bản đó
2/ Kĩ năng:
Rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học.
Bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học.
3/ Thái độ, tình cảm:
Nâng cao ý thức gìn giữ sự giàu đẹp của tiếng Việt; tạo hứng thú và thái độ nghiêm túc, khoa học trong học tập tiếng Việt và văn học.
Có ý thức và biết cách ứng xử, giao tiếp trong gia đình, trường học, ngoài xã hội một cách có văn hóa. Biết yêu quí cái đẹp, lên án cái xấu.
III/ Về phương pháp:
Rèn luyện kỹ năng vận dụng vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, tạo được hứng thú học tập cho HS.
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; môn học.
Bồi dưỡng phương pháp tự học,khả năng làm việc theo nhóm
B/ TÌNH HÌNH DẠY - HỌC MÔN NGỮ VĂN:
Sau nhiều năm thực hiện chương trình thay sách, đội ngũ giáo viên từng bước nắm chắc nội dung, chương trình; chất lượng ổn định, được nâng lên. Nhìn chung giáo viên có tinh thần trách nhiệm, vận dụng đổi mới phương pháp dạy học; học sinh có nền nếp trong việc học tập bộ môn Ngữ văn, tuy nhiên tỉ lệ học sinh ham thích học tập bộ môn còn thấp, còn mang tính “đối phó” khá cao. Trong dạy – học vẫn có một số hạn chế nhất định:
1/ Về phía giáo viên:
Chưa thực sự đầu tư, việc tự học tự rèn, chưa chú trọng nghiên cứu chuyên sâu, mở rộng chương trình toàn cấp. Kiến thức truyền thụ khô khan, thiếu liên hệ, mở rộng.
Việc vận dụng đổi mới phương pháp vào các tiết dạy chưa linh hoạt, sinh động, hấp dẫn, chưa tạo được hứng thú học tập cho học sinh.
Lối dạy truyền thụ một chiều có giảm nhưng vẫn còn. Vì vậy chưa phát huy năng lực độc lập suy nghĩ, tính chủ động, sáng tạo trong việc tìm tòi, khám phá những hiểu biết mới mẻ qua mỗi giờ học Ngữ văn.
Việc tính toán thời gian, tạo cơ hội cho học sinh ôn, luyện (rèn kỹ năng thực hành, vận dụng) thường xuyên sau một bài, một nhóm bài… chưa được thực hiện liên tục và có hiệu quả. Mặt khác, việc sử dụng thiết bị dạy học chưa được chú trọng nên ở một số tiết còn dạy chay.
Việc sử dụng các thiết bị dạy học giúp học sinh có một cái nhìn toàn diện về nội dung chương trình góp phần củng cố, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức còn ít, nhất là đối với các tiết Tiếng Viêt, Tập làm văn.
2. Về phía học sinh:
Một số học sinh chưa xác định được nhu cầu học tập học còn mang tính đối phó, chưa hứng thú, chưa nỗ lực phấn đấu vươn lên thông qua việc đọc thêm sách, tìm hiểu, khám phá mở rộng, bài học.
Kiến thức về thực tế cuộc sống còn nghèo nàn nên khi thực hành viết văn thuyết minh và nghị luận về một số vấn đề tư tưởng và đạo lí hay sự việc, hiện tượng trong đời sống học sinh làm bài sơ sài, qua loa.
Học sinh chưa nắm chắc kiến thức, còn nhiều lỗ hổng; kĩ năng vận dụng chậm, phương pháp học tập chưa tốt.
Một số học sinh phát âm chưa chuẩn, khả năng diễn đạt còn chưa rõ ràng, mạch lạc; chữ viết cẩu thả, sai chính tả, dấu câu. Kĩ năng đọc, viết còn yếu. Nhiều em đọc chưa lưu loát, diễn cảm; có em còn e ngại khi giáo viên cho đọc bài, phát biều ý kiến trước lớp.
Nhiều học sinh còn thụ động, ngại “động não”; chủ yếu ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên giảng.
Khi viết bài, học sinh còn mắc nhiều lỗi về chính tả, dùng từ, dấu câu, dựng đoạn. Thậm chí còn hiểu sai, làm sai yêu cầu đề ra.
-Sai chính tả là lỗi phổ biến nhất.Có nhiều bài văn từ đầu đến cuối không có một dấu chấm câu nào, nhiều từ đơn giản cũng không viết đúng.
-Lỗi dùng từ, diễn đạt, dựng đoạn; liên kết câu, đoạn, không tách đoạn; việc xây dựng, liên kết các đoạn văn còn lúng túng; viết câu sai cấu trúc, sai lô gíc. Dùng từ sai nghĩa.
Qua kết quả bài làm học sinh ở những lần thi khảo sát cho thấy:
Nhiều bài văn của học sinh khiến người chấm dở khóc dở cười vì những sai sót quá cơ bản suy diễn theo cảm tính, viết mà không hiểu những gì mình đã viết…
Ngoài những lỗi trên thì tình trạng học sinh làm bài sai kiến thức cơ bản vẫn chiếm tỷ lệ lớn.
Đó là tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, viết sai tên tác giả, tác phẩm, nhầm tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khác…
Điều đó cho thấy một số học sinh chưa nắm chắc về kiến thức kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống còn hạn chế.
Một vấn đề được đặt ra ở đây “Một bộ phận học sinh không thích học môn Ngữ văn” Học sinh không có nhu cầu học văn nhất là trong tình hình khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay?
C.GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
I. Một số yêu cầu cơ bản đối với giáo viên
1. Tình yêu bộ môn, tâm huyết, tinh thần ham tìm tòi, khám phá của người thầy truyền đến học sinh trong quá trình giảng dạy, giao tiếp. Luôn tự mình rút kinh nghiệm, tìm giải pháp khắc phục những hạn chế để nâng cao chất lượng dạy học.
2. Nắm chắc chương trình, nội dung kiến thức từ cơ bản đến sâu, rộng
3. Sự quan tâm, tận tình, thân thiện, không gắt gỏng… khiến học sinh cảm thấy dễ gần, tạo sự tự tin của học sinh trong học tập, khuyến khích học sinh mạnh dạn bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể.
4. Ngôn ngữ trong sáng, phù hợp đặc trưng bộ môn.
Khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm học sinh sẵn có để học sinh xây dựng, hoàn thiện kiến thức mới, qua đó giúp học sinh dễ nhớ, dễ vận dụng. Sử dụng các thiết bị dạy học như: tranh, ảnh, sơ đồ, dụng cụ nghe, nhìn để minh họa cho bài giảng.
5. Chuẩn bị mỗi bài học chu đáo, lường trước những nội dung khó để lựa chọn phương pháp phù hợp, “Phương pháp tốt là làm đơn giản những phức tạp, phương pháp tồi là làm phức tạp những đơn giản”.
6/ Luôn tạo hứng thú học tập cho học sinh và thực hiện những biện pháp, thủ thuật thích hợp, tác động đến học sinh như: phù hợp năng khiếu; học sinh học “được”, học có kết quả; chỉ ra được tính độc đáo, mới lạ của kiến thức truyền thụ; tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn; sự khuyến khích, động viên của giáo viên…
7/ Nắm chắc trình độ học tập, những lỗi sai của từng học sinh để có thể giúp học sinh khắc phục, giúp giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy.
II/ Tổ chức dạy và học môn Ngữ văn THCS:
1/ Đối với giáo viên:
1.1/ Chú trọng rèn kỹ năng cho học sinh một cách toàn diện, thường xuyên. Tạo cơ hội cho học sinh được rèn luyện kỹ năng, khắc phục những hạn chế cơ bản từ lỗi chính tả, đến dùng từ, đặt câu, diễn đạt... Kinh nghiệm cho thấy những trẻ sống trong gia đình cha mẹ có trình độ thì khả năng dùng từ, diễn đạt tốt hơn, thậm chí có em mới vào lớp 1 đã có khả năng này do các em được “tắm trong ngôn ngữ” gia đình từ phát âm đến dùng từ, diễn đạt.
1.2/ Thực hiện yêu cầu phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động cho học sinh.
Giáo viên phải từng bước chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thụ một chiều sang phương pháp dạy học mới, chống lối dạy đọc – chép, trong đó học sinh dưới sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh bài văn, tự rút ra những kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa. Làm cho “Học” là một quá trình kiến tạo; học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý thông tin, …muốn vậy cần có những biện pháp yêu cầu học sinh “động não”.
a/ Cần phân tích hiệu quả tác động của từng loại câu hỏi để lựa chọn phù hợp:
- Câu hỏi hẹp ( kín )Chỉ có một cách trả lời thoả đáng thương là rất ngắn
- Câu hỏi rộng: Loại câu hỏi này buộc học sinh phải suy nghĩ nhiều và giúp giáo viên thu thập được nhiều thông tin về mức độ tiếp thu của học sinh.
+Câu hỏi tái hiện: tái hiện lại một giai đoạn trong cuộc đời một nhân vật, tái hiện lại bức tranh thiên nhiên trong một đoạn thơ…
+ Câu hỏi tái tạo: Đối với GV dạy văn, rèn luyện được năng lực tưởng tượng của học sinh là rất quan trọng, là biện pháp tích cực để phát huy trí lực, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong mỗi giờ học văn, thể hiện được sự cảm thụ, rung động tinh tế của người học trước những khám phá mới lạ, bất ngờ.
b/ Khi xây dựng hệ thống câu hỏi đảm bảo các yêu cầu:
Phù hợp với đặc trưng thể loại, đối tượng học sinh
-Câu hỏi hiểu biết nội dung và hình thức tác phẩm:
+ Đọc một đoạn thơ (văn), tóm tắt một đoạn, kể về một nhân vật…
+ Phân tích: một chi tiết, một hình ảnh, tên tác phẩm, một biện pháp tu từ…
+ Phát biểu cảm nghĩ: về một nhân vật, một câu thơ, một đoạn thơ…Muốn trả lời câu hỏi này, đòi hỏi HS phải nhớ, phải thuộc kiến thức; bước đầu có sự khám phá về những nét đặc sắc về nghệ thuật, nội dung tác phẩm; thấy được mối liên quan về những sự việc, sự kiện, chi tiết…
c/Tận dụng được công nghệ mới nhất - Ứng dụng CNTT trong dạy học.
Cần chú ý khai thác tốt thế mạnh của ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Việc sử dụng bài giảng điện tử với những hình ảnh, âm thanh sinh động, hấp dẫn làm cho người học dễ dàng tiếp thu, khắc sâu kiến thức và tăng hứng thú học tập của học sinh.
-Chú ý vai trò “thao tác mẫu của giáo viên” vẫn là rất cần thiết và khó có thể thay thế được.
Cần chú ý sử dụng với liều lượng hợp lý, tránh ôm đồm gây quá tải cho học sinh; tính thời gian lướt qua một trang hợp lý, đảm bảo học sinh kịp theo dõi, nắm bắt vấn đề.
Song cần lưu ý khắc phục những hạn chế như
- Giúp giáo viên tiết kiệm được một số thời gian trong dạy – học ở các khâu: ghi bảng, trình bày hình ảnh, giới thiệu thêm tư liệu, ghi sơ đồ, bảng biểu…giáo viên cần biết tính toán khai thác thế mạnh này để tăng thời gian hoạt động cho học sinh.
Tuy nhiên cần tránh tình trạng học sinh chỉ “nhìn”, “nghe” là chính dẫn đến sau một tiết học học sinh nắm lờ mờ, không chắc, không sâu kiến thức mới, không rèn luyện, củng cố kỹ năng nào, thậm chí đối với học sinh yếu không đọng lại được chút gì sau tiết học.
1.3/ Mở rộng kiến thức phù hợp làm phong phú nội dung từng bài:
Tuy nhiên giáo viên cần chọn nội dung mở rộng kiến thức phù hợp, không gây quá tải mà chỉ mang tính chất làm rõ, minh họa, kích thích hứng thú, nhu cầu tìm hiểu của học sinh. Trên cơ sở đó những học sinh có nhu cầu có thể tự tìm hiểu thêm ở nhà …
Mở rộng kiến thức trong giờ dạy văn là một trong những cách đem đến cho học sinh những rung động, những khám phá riêng về một tác phẩm văn chương tốt nhất.
Mặt khác việc mở rộng kiến thức trong giờ dạy văn còn giúp cho giáo viên tự làm giàu vốn kiến thức cho bản thân, tạo cho học sinh có thói quen tìm tòi, sáng tạo; hứng thú.
1.4/ Tổ chức tốt việc ôn tập cho HS:
Học – quên là hiện tượng thông thường, phổ biến. Do đó giáo viên cần tranh thủ mọi cơ hội giúp học sinh phải “động não” huy động vốn kiến thức, kỹ năng cũ thực hiện tốt các khâu liên hoàn “Học – Luyện – Ôn” trong quá trình học tập.
Học sinh có điều kiện được gặp đi, gặp lại nhiều lần và sẽ nhớ sâu, nhớ lâu. Việc ôn tập có thể thực hiện : yêu cầu học sinh nhắc lại, vận dụng kiến thức cũ giải quyết tình huống mới; so sánh, nêu nhận xét về sự phát triển của mạch kiến thức, làm bài tập tổng hợp … Nhằm khuyến khích học sinh “Học bài – Làm bài – Ôn bài ” nên tổ chức cho học sinh làm bài khảo sát chất lượng dưới dạng trắc nghiệm khách quan gắn với kiến thức, kỹ năng cần bổ trợ cho học sinh.
Đối với ôn tập một chủ đề, một giai đoạn văn học, một chương … giáo viên có thể sử dụng dạng sơ đồ mạng hệ thống bảng biểu ( dùng để so sánh, ôn tập nội dung cơ bản của kiến thức). Giáo viên nên hướng dẫn học sinh tự chủ động xây dựng bảng hệ thống hóa, bảng biểu, nội dung kiến thức cơ bản .. trước, qua đó cũng góp phần phát triển sự sáng tạo đối với từng học sinh.
Tác dụng giúp học sinh xác định được kiến thức cơ bản, trọng tâm, nắm chương trình một cách cô đọng, mạch lạc, rèn kỹ năng diễn đạt, trình bày theo cách riêng của mình, không cần học vẹt từng câu, từng đoạn theo sách giáo khoa
Ví dụ 1: Lớp 6: Học xong truyện truyền thuyết, cổ tích Việt Nam, chuẩn bị kiểm tra 1 tiết Văn.
*Lý thuyết: ( HS soạn theo bảng mẫu)
* Luyện tập:
Kể tóm tắt, nêu nội dung ý nghĩa các truyện?
Truyện yêu thích nhất? Nhân vật yêu thích nhất?
Chi tiết kì lạ thích nhất trong truyện? Ý nghĩa?
Đọc, kể diễn cảm truyện em thích nhất.
- Học sinh hoàn thành các bài tập ở phần luyện tập sau mỗi bài.
Tổ chức tiết ôn tập theo quy định của phân phối chương trình:
Giáo viên có thể tổ chức dưới nhiều hình thức ôn tập phong phú, sinh động và nhẹ nhàng. Bám sát vào mục tiêu cần đạt của tiết ôn tập, dựa vào nội dung hướng dẫn ôn ở SGK, chọn lọc và sắp xếp lại kiến thức sao cho phù hợp mà vẫn nổi bật trọng tâm. Dành 2/3 thời gian của tiết học để HS thực hành.
Các hình thức ôn có thể là: Đố vui ôn luyện, Thi đọc, kể chuyện diễn cảm, Thi hái hoa dân chủ. HS có thể tham gia ra đề thi, làm giám khảo, dẫn chương trình… giáo viên tổ chức ôn tập như vậy sau khi đã hướng dẫn, kiểm tra, sửa bài khó cho HS và HS đã hoàn thành các yêu cầu giáo viên đề ra.
Cũng ở tiết ôn tập này giáo viên có thể tổng kết được một phần kết quả ôn tập thường xuyên, định kỳ của HS, nhận ra những thành công và hạn chế trong quá trình ôn tập của các em để tiếp tục có kế hoach phụ đạo ngay trong giờ học chính khóa giúp các em làm bài kiểm tra học kỳ, cuối năm thành công. Đồng thời nắm được hệ thống kiến thức cùng các kỹ năng cơ bản của chương trình đang học để lên lớp trên học được tốt.
1.5/ Phát huy tính sáng tạo của học sinh:
Sáng tạo là một hành động làm nên những cái mới. Điều quan trọng nhất đối với sáng tạo là phải có các ý tưởng. Tính sáng tạo chính là kết quả ở mức độ cao của tư duy tích cực, chủ động, độc lập. Tuy nhiên mức độ sáng tạo của học sinh có hạn nhưng đó là những cơ sở ban đầu để phát triển trí sáng tạo về sau này.
Về phía học sinh, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn. Giáo viên có thể dùng biện pháp yêu cầu mỗi học sinh lần lượt trình bày ý tưởng, ý kiến sau đó tổ chức nhận xét, đánh giá (phương pháp động não).
Giáo dục ý thức, khuyến khích tinh thần sáng tạo ngay từ những việc nhỏ, khen khi học sinh có những ý tưởng mới, độc đáo, dùng phương pháp nêu gương để hình thành dần ở học sinh ý thức, thói quen, tạo tiền đề cho khả năng sáng tạo sau này. Việc này có thể thực hiện nhiều lúc, nhiều nơi.
1.6/ Giáo dục tinh thần ham hiểu biết, có thói quen đọc sách.
1.7/ Hướng dẫn học sinh phương pháp đọc hiểu tốt, phát triển sức đọc
2/ Đối với học sinh:
a/ Từng bước giáo dục học sinh xác định đúng đắn nhu cầu học tâp bộ môn
b/ Bồi dưỡng và phát huy năng lực tự học cho học sinh
*./ Biết xếp thời gian biểu tự học ở nhà một cách khoa học, bao gồm các công đoạn chính: học bài, ôn bài cũ; luyện tập qua làm bài tập; chuẩn bị bài mới.
*/ Hướng dẫn học sinh thực hiện tốt việc học bài, ôn bài cũ; luyện tập qua làm bài tập; chuẩn bị bài mới và học ở lớp.
KẾT LUẬN:
Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn là yêu cầu quan trọng đòi hỏi mỗi giáo viên cần nhận thức đúng và thực hiện tốt để nâng cao chất lượng học tập, đáp ứng được mục tiêu đào tạo bộ môn, giúp học sinh yêu thích học bộ môn hơn. Bên cạnh đó việc nâng cao chất lượng dạy học phải được thực hiện đồng bộ bằng nhiều giải pháp ở cả phía thầy và trò.
Trên đây là một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trường trung học cơ sở. Bản thân tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp để tiếp tục bổ sung giải pháp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy học bộ môn nói riêng và các môn học trong nhà trường nói chung góp phần đào tạo những con người và thế hệ vừa hồng vừa chuyên như lòng mong mỏi của Bác Hồ kính yêu.
Trân trọng cảm ơn sự chú ý của các đồng chí!
TRƯỜNG THCS TỬ DU
TỔ : KHOA HỌC XÃ HỘI
Chuyên đề:
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
I/ Vai trò:Môn Ngữ văn thuộc nhóm khoa học xã hội, có vai trò quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho HS và là môn công cụ không chỉ trong giao tiếp, nhận thức mà còn là công cụ tư duy của học sinh.
A/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
II/ Vị trí: Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường THCS; là hình thành những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, biết tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, căm ghét cái xấu, cái ác.
Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật; trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Mục tiêu tổng quát trên được cụ thể hóa thành ba phương diện:
thái độ
kĩ năng
kiến thức
1/ Kiến thức:
Một số khái niệm và thao tác phân tích tác phẩm văn học.
Nắm được những đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của các loại đơn vị tiêu biểu cho từng bộ phận cấu thành tiếng Việt
Các kiến thức về các kiểu văn bản thường dùng và các kiến thức thuộc cách thức lĩnh hội và tạo lập các kiểu văn bản đó
2/ Kĩ năng:
Rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học.
Bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học.
3/ Thái độ, tình cảm:
Nâng cao ý thức gìn giữ sự giàu đẹp của tiếng Việt; tạo hứng thú và thái độ nghiêm túc, khoa học trong học tập tiếng Việt và văn học.
Có ý thức và biết cách ứng xử, giao tiếp trong gia đình, trường học, ngoài xã hội một cách có văn hóa. Biết yêu quí cái đẹp, lên án cái xấu.
III/ Về phương pháp:
Rèn luyện kỹ năng vận dụng vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, tạo được hứng thú học tập cho HS.
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; môn học.
Bồi dưỡng phương pháp tự học,khả năng làm việc theo nhóm
B/ TÌNH HÌNH DẠY - HỌC MÔN NGỮ VĂN:
Sau nhiều năm thực hiện chương trình thay sách, đội ngũ giáo viên từng bước nắm chắc nội dung, chương trình; chất lượng ổn định, được nâng lên. Nhìn chung giáo viên có tinh thần trách nhiệm, vận dụng đổi mới phương pháp dạy học; học sinh có nền nếp trong việc học tập bộ môn Ngữ văn, tuy nhiên tỉ lệ học sinh ham thích học tập bộ môn còn thấp, còn mang tính “đối phó” khá cao. Trong dạy – học vẫn có một số hạn chế nhất định:
1/ Về phía giáo viên:
Chưa thực sự đầu tư, việc tự học tự rèn, chưa chú trọng nghiên cứu chuyên sâu, mở rộng chương trình toàn cấp. Kiến thức truyền thụ khô khan, thiếu liên hệ, mở rộng.
Việc vận dụng đổi mới phương pháp vào các tiết dạy chưa linh hoạt, sinh động, hấp dẫn, chưa tạo được hứng thú học tập cho học sinh.
Lối dạy truyền thụ một chiều có giảm nhưng vẫn còn. Vì vậy chưa phát huy năng lực độc lập suy nghĩ, tính chủ động, sáng tạo trong việc tìm tòi, khám phá những hiểu biết mới mẻ qua mỗi giờ học Ngữ văn.
Việc tính toán thời gian, tạo cơ hội cho học sinh ôn, luyện (rèn kỹ năng thực hành, vận dụng) thường xuyên sau một bài, một nhóm bài… chưa được thực hiện liên tục và có hiệu quả. Mặt khác, việc sử dụng thiết bị dạy học chưa được chú trọng nên ở một số tiết còn dạy chay.
Việc sử dụng các thiết bị dạy học giúp học sinh có một cái nhìn toàn diện về nội dung chương trình góp phần củng cố, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức còn ít, nhất là đối với các tiết Tiếng Viêt, Tập làm văn.
2. Về phía học sinh:
Một số học sinh chưa xác định được nhu cầu học tập học còn mang tính đối phó, chưa hứng thú, chưa nỗ lực phấn đấu vươn lên thông qua việc đọc thêm sách, tìm hiểu, khám phá mở rộng, bài học.
Kiến thức về thực tế cuộc sống còn nghèo nàn nên khi thực hành viết văn thuyết minh và nghị luận về một số vấn đề tư tưởng và đạo lí hay sự việc, hiện tượng trong đời sống học sinh làm bài sơ sài, qua loa.
Học sinh chưa nắm chắc kiến thức, còn nhiều lỗ hổng; kĩ năng vận dụng chậm, phương pháp học tập chưa tốt.
Một số học sinh phát âm chưa chuẩn, khả năng diễn đạt còn chưa rõ ràng, mạch lạc; chữ viết cẩu thả, sai chính tả, dấu câu. Kĩ năng đọc, viết còn yếu. Nhiều em đọc chưa lưu loát, diễn cảm; có em còn e ngại khi giáo viên cho đọc bài, phát biều ý kiến trước lớp.
Nhiều học sinh còn thụ động, ngại “động não”; chủ yếu ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên giảng.
Khi viết bài, học sinh còn mắc nhiều lỗi về chính tả, dùng từ, dấu câu, dựng đoạn. Thậm chí còn hiểu sai, làm sai yêu cầu đề ra.
-Sai chính tả là lỗi phổ biến nhất.Có nhiều bài văn từ đầu đến cuối không có một dấu chấm câu nào, nhiều từ đơn giản cũng không viết đúng.
-Lỗi dùng từ, diễn đạt, dựng đoạn; liên kết câu, đoạn, không tách đoạn; việc xây dựng, liên kết các đoạn văn còn lúng túng; viết câu sai cấu trúc, sai lô gíc. Dùng từ sai nghĩa.
Qua kết quả bài làm học sinh ở những lần thi khảo sát cho thấy:
Nhiều bài văn của học sinh khiến người chấm dở khóc dở cười vì những sai sót quá cơ bản suy diễn theo cảm tính, viết mà không hiểu những gì mình đã viết…
Ngoài những lỗi trên thì tình trạng học sinh làm bài sai kiến thức cơ bản vẫn chiếm tỷ lệ lớn.
Đó là tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, viết sai tên tác giả, tác phẩm, nhầm tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khác…
Điều đó cho thấy một số học sinh chưa nắm chắc về kiến thức kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống còn hạn chế.
Một vấn đề được đặt ra ở đây “Một bộ phận học sinh không thích học môn Ngữ văn” Học sinh không có nhu cầu học văn nhất là trong tình hình khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay?
C.GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
I. Một số yêu cầu cơ bản đối với giáo viên
1. Tình yêu bộ môn, tâm huyết, tinh thần ham tìm tòi, khám phá của người thầy truyền đến học sinh trong quá trình giảng dạy, giao tiếp. Luôn tự mình rút kinh nghiệm, tìm giải pháp khắc phục những hạn chế để nâng cao chất lượng dạy học.
2. Nắm chắc chương trình, nội dung kiến thức từ cơ bản đến sâu, rộng
3. Sự quan tâm, tận tình, thân thiện, không gắt gỏng… khiến học sinh cảm thấy dễ gần, tạo sự tự tin của học sinh trong học tập, khuyến khích học sinh mạnh dạn bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể.
4. Ngôn ngữ trong sáng, phù hợp đặc trưng bộ môn.
Khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm học sinh sẵn có để học sinh xây dựng, hoàn thiện kiến thức mới, qua đó giúp học sinh dễ nhớ, dễ vận dụng. Sử dụng các thiết bị dạy học như: tranh, ảnh, sơ đồ, dụng cụ nghe, nhìn để minh họa cho bài giảng.
5. Chuẩn bị mỗi bài học chu đáo, lường trước những nội dung khó để lựa chọn phương pháp phù hợp, “Phương pháp tốt là làm đơn giản những phức tạp, phương pháp tồi là làm phức tạp những đơn giản”.
6/ Luôn tạo hứng thú học tập cho học sinh và thực hiện những biện pháp, thủ thuật thích hợp, tác động đến học sinh như: phù hợp năng khiếu; học sinh học “được”, học có kết quả; chỉ ra được tính độc đáo, mới lạ của kiến thức truyền thụ; tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn; sự khuyến khích, động viên của giáo viên…
7/ Nắm chắc trình độ học tập, những lỗi sai của từng học sinh để có thể giúp học sinh khắc phục, giúp giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy.
II/ Tổ chức dạy và học môn Ngữ văn THCS:
1/ Đối với giáo viên:
1.1/ Chú trọng rèn kỹ năng cho học sinh một cách toàn diện, thường xuyên. Tạo cơ hội cho học sinh được rèn luyện kỹ năng, khắc phục những hạn chế cơ bản từ lỗi chính tả, đến dùng từ, đặt câu, diễn đạt... Kinh nghiệm cho thấy những trẻ sống trong gia đình cha mẹ có trình độ thì khả năng dùng từ, diễn đạt tốt hơn, thậm chí có em mới vào lớp 1 đã có khả năng này do các em được “tắm trong ngôn ngữ” gia đình từ phát âm đến dùng từ, diễn đạt.
1.2/ Thực hiện yêu cầu phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động cho học sinh.
Giáo viên phải từng bước chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thụ một chiều sang phương pháp dạy học mới, chống lối dạy đọc – chép, trong đó học sinh dưới sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh bài văn, tự rút ra những kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa. Làm cho “Học” là một quá trình kiến tạo; học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý thông tin, …muốn vậy cần có những biện pháp yêu cầu học sinh “động não”.
a/ Cần phân tích hiệu quả tác động của từng loại câu hỏi để lựa chọn phù hợp:
- Câu hỏi hẹp ( kín )Chỉ có một cách trả lời thoả đáng thương là rất ngắn
- Câu hỏi rộng: Loại câu hỏi này buộc học sinh phải suy nghĩ nhiều và giúp giáo viên thu thập được nhiều thông tin về mức độ tiếp thu của học sinh.
+Câu hỏi tái hiện: tái hiện lại một giai đoạn trong cuộc đời một nhân vật, tái hiện lại bức tranh thiên nhiên trong một đoạn thơ…
+ Câu hỏi tái tạo: Đối với GV dạy văn, rèn luyện được năng lực tưởng tượng của học sinh là rất quan trọng, là biện pháp tích cực để phát huy trí lực, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong mỗi giờ học văn, thể hiện được sự cảm thụ, rung động tinh tế của người học trước những khám phá mới lạ, bất ngờ.
b/ Khi xây dựng hệ thống câu hỏi đảm bảo các yêu cầu:
Phù hợp với đặc trưng thể loại, đối tượng học sinh
-Câu hỏi hiểu biết nội dung và hình thức tác phẩm:
+ Đọc một đoạn thơ (văn), tóm tắt một đoạn, kể về một nhân vật…
+ Phân tích: một chi tiết, một hình ảnh, tên tác phẩm, một biện pháp tu từ…
+ Phát biểu cảm nghĩ: về một nhân vật, một câu thơ, một đoạn thơ…Muốn trả lời câu hỏi này, đòi hỏi HS phải nhớ, phải thuộc kiến thức; bước đầu có sự khám phá về những nét đặc sắc về nghệ thuật, nội dung tác phẩm; thấy được mối liên quan về những sự việc, sự kiện, chi tiết…
c/Tận dụng được công nghệ mới nhất - Ứng dụng CNTT trong dạy học.
Cần chú ý khai thác tốt thế mạnh của ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Việc sử dụng bài giảng điện tử với những hình ảnh, âm thanh sinh động, hấp dẫn làm cho người học dễ dàng tiếp thu, khắc sâu kiến thức và tăng hứng thú học tập của học sinh.
-Chú ý vai trò “thao tác mẫu của giáo viên” vẫn là rất cần thiết và khó có thể thay thế được.
Cần chú ý sử dụng với liều lượng hợp lý, tránh ôm đồm gây quá tải cho học sinh; tính thời gian lướt qua một trang hợp lý, đảm bảo học sinh kịp theo dõi, nắm bắt vấn đề.
Song cần lưu ý khắc phục những hạn chế như
- Giúp giáo viên tiết kiệm được một số thời gian trong dạy – học ở các khâu: ghi bảng, trình bày hình ảnh, giới thiệu thêm tư liệu, ghi sơ đồ, bảng biểu…giáo viên cần biết tính toán khai thác thế mạnh này để tăng thời gian hoạt động cho học sinh.
Tuy nhiên cần tránh tình trạng học sinh chỉ “nhìn”, “nghe” là chính dẫn đến sau một tiết học học sinh nắm lờ mờ, không chắc, không sâu kiến thức mới, không rèn luyện, củng cố kỹ năng nào, thậm chí đối với học sinh yếu không đọng lại được chút gì sau tiết học.
1.3/ Mở rộng kiến thức phù hợp làm phong phú nội dung từng bài:
Tuy nhiên giáo viên cần chọn nội dung mở rộng kiến thức phù hợp, không gây quá tải mà chỉ mang tính chất làm rõ, minh họa, kích thích hứng thú, nhu cầu tìm hiểu của học sinh. Trên cơ sở đó những học sinh có nhu cầu có thể tự tìm hiểu thêm ở nhà …
Mở rộng kiến thức trong giờ dạy văn là một trong những cách đem đến cho học sinh những rung động, những khám phá riêng về một tác phẩm văn chương tốt nhất.
Mặt khác việc mở rộng kiến thức trong giờ dạy văn còn giúp cho giáo viên tự làm giàu vốn kiến thức cho bản thân, tạo cho học sinh có thói quen tìm tòi, sáng tạo; hứng thú.
1.4/ Tổ chức tốt việc ôn tập cho HS:
Học – quên là hiện tượng thông thường, phổ biến. Do đó giáo viên cần tranh thủ mọi cơ hội giúp học sinh phải “động não” huy động vốn kiến thức, kỹ năng cũ thực hiện tốt các khâu liên hoàn “Học – Luyện – Ôn” trong quá trình học tập.
Học sinh có điều kiện được gặp đi, gặp lại nhiều lần và sẽ nhớ sâu, nhớ lâu. Việc ôn tập có thể thực hiện : yêu cầu học sinh nhắc lại, vận dụng kiến thức cũ giải quyết tình huống mới; so sánh, nêu nhận xét về sự phát triển của mạch kiến thức, làm bài tập tổng hợp … Nhằm khuyến khích học sinh “Học bài – Làm bài – Ôn bài ” nên tổ chức cho học sinh làm bài khảo sát chất lượng dưới dạng trắc nghiệm khách quan gắn với kiến thức, kỹ năng cần bổ trợ cho học sinh.
Đối với ôn tập một chủ đề, một giai đoạn văn học, một chương … giáo viên có thể sử dụng dạng sơ đồ mạng hệ thống bảng biểu ( dùng để so sánh, ôn tập nội dung cơ bản của kiến thức). Giáo viên nên hướng dẫn học sinh tự chủ động xây dựng bảng hệ thống hóa, bảng biểu, nội dung kiến thức cơ bản .. trước, qua đó cũng góp phần phát triển sự sáng tạo đối với từng học sinh.
Tác dụng giúp học sinh xác định được kiến thức cơ bản, trọng tâm, nắm chương trình một cách cô đọng, mạch lạc, rèn kỹ năng diễn đạt, trình bày theo cách riêng của mình, không cần học vẹt từng câu, từng đoạn theo sách giáo khoa
Ví dụ 1: Lớp 6: Học xong truyện truyền thuyết, cổ tích Việt Nam, chuẩn bị kiểm tra 1 tiết Văn.
*Lý thuyết: ( HS soạn theo bảng mẫu)
* Luyện tập:
Kể tóm tắt, nêu nội dung ý nghĩa các truyện?
Truyện yêu thích nhất? Nhân vật yêu thích nhất?
Chi tiết kì lạ thích nhất trong truyện? Ý nghĩa?
Đọc, kể diễn cảm truyện em thích nhất.
- Học sinh hoàn thành các bài tập ở phần luyện tập sau mỗi bài.
Tổ chức tiết ôn tập theo quy định của phân phối chương trình:
Giáo viên có thể tổ chức dưới nhiều hình thức ôn tập phong phú, sinh động và nhẹ nhàng. Bám sát vào mục tiêu cần đạt của tiết ôn tập, dựa vào nội dung hướng dẫn ôn ở SGK, chọn lọc và sắp xếp lại kiến thức sao cho phù hợp mà vẫn nổi bật trọng tâm. Dành 2/3 thời gian của tiết học để HS thực hành.
Các hình thức ôn có thể là: Đố vui ôn luyện, Thi đọc, kể chuyện diễn cảm, Thi hái hoa dân chủ. HS có thể tham gia ra đề thi, làm giám khảo, dẫn chương trình… giáo viên tổ chức ôn tập như vậy sau khi đã hướng dẫn, kiểm tra, sửa bài khó cho HS và HS đã hoàn thành các yêu cầu giáo viên đề ra.
Cũng ở tiết ôn tập này giáo viên có thể tổng kết được một phần kết quả ôn tập thường xuyên, định kỳ của HS, nhận ra những thành công và hạn chế trong quá trình ôn tập của các em để tiếp tục có kế hoach phụ đạo ngay trong giờ học chính khóa giúp các em làm bài kiểm tra học kỳ, cuối năm thành công. Đồng thời nắm được hệ thống kiến thức cùng các kỹ năng cơ bản của chương trình đang học để lên lớp trên học được tốt.
1.5/ Phát huy tính sáng tạo của học sinh:
Sáng tạo là một hành động làm nên những cái mới. Điều quan trọng nhất đối với sáng tạo là phải có các ý tưởng. Tính sáng tạo chính là kết quả ở mức độ cao của tư duy tích cực, chủ động, độc lập. Tuy nhiên mức độ sáng tạo của học sinh có hạn nhưng đó là những cơ sở ban đầu để phát triển trí sáng tạo về sau này.
Về phía học sinh, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn. Giáo viên có thể dùng biện pháp yêu cầu mỗi học sinh lần lượt trình bày ý tưởng, ý kiến sau đó tổ chức nhận xét, đánh giá (phương pháp động não).
Giáo dục ý thức, khuyến khích tinh thần sáng tạo ngay từ những việc nhỏ, khen khi học sinh có những ý tưởng mới, độc đáo, dùng phương pháp nêu gương để hình thành dần ở học sinh ý thức, thói quen, tạo tiền đề cho khả năng sáng tạo sau này. Việc này có thể thực hiện nhiều lúc, nhiều nơi.
1.6/ Giáo dục tinh thần ham hiểu biết, có thói quen đọc sách.
1.7/ Hướng dẫn học sinh phương pháp đọc hiểu tốt, phát triển sức đọc
2/ Đối với học sinh:
a/ Từng bước giáo dục học sinh xác định đúng đắn nhu cầu học tâp bộ môn
b/ Bồi dưỡng và phát huy năng lực tự học cho học sinh
*./ Biết xếp thời gian biểu tự học ở nhà một cách khoa học, bao gồm các công đoạn chính: học bài, ôn bài cũ; luyện tập qua làm bài tập; chuẩn bị bài mới.
*/ Hướng dẫn học sinh thực hiện tốt việc học bài, ôn bài cũ; luyện tập qua làm bài tập; chuẩn bị bài mới và học ở lớp.
KẾT LUẬN:
Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn là yêu cầu quan trọng đòi hỏi mỗi giáo viên cần nhận thức đúng và thực hiện tốt để nâng cao chất lượng học tập, đáp ứng được mục tiêu đào tạo bộ môn, giúp học sinh yêu thích học bộ môn hơn. Bên cạnh đó việc nâng cao chất lượng dạy học phải được thực hiện đồng bộ bằng nhiều giải pháp ở cả phía thầy và trò.
Trên đây là một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trường trung học cơ sở. Bản thân tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp để tiếp tục bổ sung giải pháp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy học bộ môn nói riêng và các môn học trong nhà trường nói chung góp phần đào tạo những con người và thế hệ vừa hồng vừa chuyên như lòng mong mỏi của Bác Hồ kính yêu.
Trân trọng cảm ơn sự chú ý của các đồng chí!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Dương Thị Nguyệt Nga
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)