Chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
Chia sẻ bởi Doãn Đình Tránh |
Ngày 18/03/2024 |
17
Chia sẻ tài liệu: Chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ thuộc GD QP-AN 10
Nội dung tài liệu:
Chào mừng các đồng chí
đến với bài học hôm nay!
Tây Nam Bộ là vùng đất có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, văn hóa, QPAN, đối ngoại của Việt Nam.
Từ xa xưa, vùng đất này đã thuộc chủ quyền của Việt Nam, đồng bào các dân tộc, tôn giáo ở đây là một bộ phận trong khối ĐĐK toàn Dtộc. Tuy nhiên, những năm gần đây, các thế lực thù địch, phản động ra sức phủ nhận chủ quyền của VN, kích động đồng bào Khơme ở VN và người dân CPC chống phá quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước, phá hoại hòa bình ổn định và ngăn cản tiến trình phân giới cắm mốc giữa VN và CPC. Xuyên tạc sự thật lịch sử vùng đất TNB, kích động ý thức dân tộc hẹp hòi, đòi “độc lập”, “tự trị”, xây dựng tổ chức phản động để tiến tới thành lập cái gọi là “Nhà nước Khơme CPC Crôm”, hoặc sáp nhập Miền TNB vào CPC, cản trở công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.
MIỀN TÂY NAM BỘ, một vùng đất máu thịt của non sông VIỆT NAM
Chuyên đề
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI VÙNG ĐẤT TÂY NAM BỘ
Thạc Sĩ DOÃN ĐÌNH TRÁNH
Giúp người học nắm được nội dung cơ bản lịch sử vùng đất Tây Nam Bộ, những bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ. Qua đó nâng cao ý thức trách nhiệm trong tham gia đấu tranh chống những quan điểm phản động, thù địch. Đồng thời tích cực đóng góp cho sự phát triển ngày càng phồn thịnh của vùng đất này.
MỤC ĐÍCH
1.
YÊU CẦU
2.
- Tập trung nghe, ghi chép tốt. Nắm được những nội dung cơ bản của bài học, biết vận dụng vào thực tiễn.
- Chấp hành tốt các quy định của lớp học...
NỘI DUNG
Giảng viên: sử dụng phương pháp thuyết trình, nêu vấn đề kết hợp với trình chiếu Power point.
Người học: Nghe, ghi chép đủ nội dung chính và ghi theo ý hiểu những nội dung giáo viên phân tích, dẫn chứng.
4. THỜI GIAN: 4 tiết
5. PHƯƠNG PHÁP
I. CƠ SỞ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ
KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI VÙNG ĐẤT TÂY NAM BỘ
1. Vị trí vùng đất Tây Nam Bộ
Vùng đất Tây Nam Bộ (Miền Tây Nam Bộ) là cách gọi vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm ở cực Nam của Tổ quốc, phía Đông Bắc giáp thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh, Đông và Nam giáp Biển Đông, Bắc giáp Campuchia, Tây giáp vịnh Thái Lan; là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu của khu vực ĐNÁ và thế giới.
Miền Tây Nam Bộ hiện có 12 tỉnh và 01 thành phố trực thuộc Trung ương gồm: thành phố Cần Thơ và các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2011, tổng diện tích Miền Tây Nam Bộ là 40.548,2 km2 dân số trên 17.330.900 người, chiếm 21% dân số cả nước.
Có đường biên giới với CPC dài 409km/1.137 km đi qua bốn tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang (từ Nam Tây Ninh đến mép biển Xà Xía, Kiên Giang); có vùng biển rộng lớn, bờ biển dài 743 km, có 2 huyện đảo là Phú Quốc, Kiên Hải (tỉnh Kiên Giang).
Dân cư sinh sống ở vùng đất Tây Nam Bộ bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, trong đó có 4 dân tộc chính là: Việt (Kinh), Hoa, Chăm và Khơme.
2. Cơ sở lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
a) Miền Tây Nam Bộ được hình thành gắn với quá trình khai hóa đất hoang của người Việt và việc xác lập chủ quyền của nhà nước phong kiến Việt Nam cách đây hơn 300 năm
- Trước khi trở thành lãnh thổ của Việt Nam, Miền Tây Nam Bộ thuộc Vương quốc Phù Nam là một quốc gia cổ, ở Đông Nam Á, xuất hiện vào đầu Công nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này khá rộng lớn, kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ của Việt Nam ngày nay, phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Mã Lai. Quốc gia này tồn tại đến thế kỷ VII (năm 627) thì bị nước Chân Lạp tiêu diệt.
Một số hình ảnh bản đồ của nước Phù Nam cổ
Nước Phù Nam gắn liền với văn hóa Óc Eo, khác với văn hóa Khơme.
Văn hóa Óc Eo là tên gọi di chỉ ở núi Ba Thê, hiện nay thuộc Thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang. Nơi này có thể đã từng là kinh đô, từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7..
- Từ thế kỷ VII (khoảng năm 627) đến thế kỷ XVI Miền Tây Nam Bộ bị Vương quốc Chân Lạp (nhà nước đầu tiên của người Khơme) thôn tính, Vương quốc Phù Nam cũng bị diệt vong.
Chân Lạp trước kia vốn là nước thuộc quốc (lệ thuộc) của Phù Nam, tồn tại trên phần phía Trung Nam của bán đảo Đông Dương. Chân Lạp có các vương quốc láng giềng xung quanh gồm Chăm Pa (Chiêm Thành) ở phía Đông, Phù Nam ở phía Nam và Dvaravati (thuộc Thái Lan ngày nay) ở về phía Tây Bắc. Đến thế kỷ VI (khoảng năm 550), họ giành được độc lập, lập ra nước Chân Lạp và dần dần xâm chiếm được miền Bắc của Phù Nam, trong thế kỷ VII, Chân Lạp đã thôn tính toàn bộ Phù Nam.
Chân Lạp
Các tư liệu cổ của Trung Quốc cũng phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp:
Sử ký của nhà Tùy (581-618) chép rằng: nước Chân Lạp ở về phía Tây nam ChămPa, nguyên là một chư hầu cùa Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam.
Sử ký nhà Đường (618-907) chép: “Trong nước (Phù Nam) bấy giờ có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về miền Nam, trú ở thị trấn Na Phất Na”, rồi bị Chân Lạp tiêu diệt.
(Những sự kiện trên được chép vào đầu thế kỷ thứ VII).
Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được gọi là Thủy Chân Lạp (vùng hạ, thấp, sông nước) cùng với vùng Lục Chân Lạp (vùng trên, cao, lục địa).
Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XVI, Nam Bộ (cả Phù Nam) thuộc về Chân Lạp nhưng vùng đất này chưa có sự quản lý về mặt hành chính của Nhà nước Chân Lạp (chưa có sự thiết lập hệ thống địa giới hành chính và cơ quan quản lý). Việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp hết sức khó khăn vì đây là vùng đồng bằng mới được phù sa bồi đắp, còn ngập nước và sình lầy, người Khơme với dân số rất ít, trình độ sản xuất manh mún, chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn.
Việc khai hoang trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp (vùng trên, cao, lục địa) đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Do vậy, nước Chân Lạp tập trung dồn sức phát triển ở Lục Chân Lạp, nhất là ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mê Kông và bành trướng sang phía Tây.
Từ thế kỷ XIV, khi vương quốc Ayuthaya (Xiêm) hình thành, Chân Lạp phải lo đối phó với sự bành trướng của Xiêm từ phía Tây, kinh thành Ăng Co đã có lúc bị quân Xiêm chiếm đóng. Mặt khác, nội bộ Chân Lạp mâu thuẫn, tranh giành quyền lực, nên Chân Lạp bước vào thời kỳ suy yếu.
Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở lục địa vùng cao, nên sau gần 10 thế kỷ thuộc Chân Lạp, Nam Bộ nói chung, nhất là Miền Tây Nam Bộ nói riêng vẫn là một vùng đất hoang sơ.
+ Từ năm 1698, chủ quyền thực tế của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ được xác lập. Năm 1759, toàn bộ lãnh thổ đồng bằng sông Cửu Long chính thức đặt dưới hệ thống chính quyền và thuộc lãnh thổ của nhà Nguyễn.
- Thế kỷ XVII - XVIII, Nhà Nguyễn tiếp tục thiết lập các đơn vị hành chính, bố trí quan lại, lập sổ sách quản lý dân cư, đất đai và định ra các loại thuế. Sau năm 1744, vùng đất Nam Bộ được chia thành 4 dinh (ở miền Đông có dinh Trấn Biên, Phiên Trân, ở miền Tây có dinh Long Hồ, Hà Tiên).
- Dưới triều Nguyễn, hệ thống hành chính tiếp tục được hoàn thiện và thống nhất quản lý trên quy mô cả nước. Năm 1836, vua Minh Mạng cho lập sổ địa bạ toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ (trong đó: 3 tỉnh miền Đông gồm Phiên An, Biên Hòa, Định Tường và 3 tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên; trong đó có 10 phủ, 25 huyện, 135 tổng với 1.637 xã, thôn, phường).
- Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đối với vùng đất phía Nam, triều Nguyễn đã lãnh đạo nhân dân đánh bại các cuộc tiến công của quân Xiêm vào các năm 1715, 1771... Năm 1785, anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ đã đánh tan cuộc xâm lược của quân Xiêm trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút (Tiền Giang). Triều Nguyễn cũng đã cho xây dựng hệ thống các đồn lũy để trấn thủ biên giới.
Quang Trung – Nguyễn Huệ
Trận Rạch Gầm - Xoài Mút (19/1/1785), là trận phục kích đường sông nổi tiếng của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, diệt quân Xiêm xâm lược Miền Tây Nam Bộ.
- Thời Pháp thuộc, 6 tỉnh Nam Bộ, trong đó có 3 tỉnh Miền Tây do thực dân Pháp cai quản (1867-1949).
Theo Hiệp ước Pháp - Tây Ban Nha và Nhà Nguyễn, ký tại Sài Gòn ngày 05/6/1862, triều đình Nhà Nguyễn đã nhượng 3 tình miền Đông (1862) và 3 tỉnh miền Tây (1874) cho Pháp (thực tế Pháp đã chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây từ năm 1867).
Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam, ngày 04/6/1949 Tổng thống Pháp đã ký Bộ luật số 49-733 trả lại Nam Kỳ lục tỉnh cho “Quốc gia Việt Nam”, đại diện là Bảo Đại.
Gia Định: tỉnh lỵ là Gia Định,
Biên Hòa: tỉnh lỵ là Biên Hòa,
Định Tường: tỉnh lỵ là Mỹ Tho,
Vĩnh Long: tỉnh lỵ là Vĩnh Long,
An Giang: tỉnh lỵ là Châu Đốc,
Hà Tiên: tỉnh lỵ là Hà Tiên.
- Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh của nhân dân Miền Tây Nam Bộ, trong đó có dân tộc Khơme tiếp tục phát triển, cùng cả nước làm nên cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
- Thắng lợi vẻ vang của hai cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc xâm lược (Pháp; Mỹ) và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam đã khẳng định quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, lòng dũng cảm, kiên định, sự hy sinh xương máu của nhân dân ta để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó có Miền Tây Nam Bộ.
b) Lịch sử hình thành cộng đồng cư dân trên vùng đất Tây Nam Bộ
- Miền Tây Nam Bộ hiện nay có nhiều tộc người sinh sống, trong đó có 4 dân tộc chiếm tỉ lệ dân số cao là: người Việt (Kinh); người Khơme, người Hoa, người Chăm. Ngoài ra còn một số tộc người có số lượng ít như Tày, Nùng, Ngái, Mnông, Striêng, Mường, Chơ ro, Châu mạ, K’ho...
- Người Khơme có mặt ở Miền Tây Nam Bộ từ rất sớm nhưng số lượng ít, sống rải rác, có tính biệt lập, chưa có quốc gia nào thiết lập quan hệ quản lý hành chính đối với họ.
Ban đầu chỉ là một số người Khơme nghèo muốn thoát khỏi áp bức, bóc lột của chế độ “Ăng Co”, họ từ từ di cư đến đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng càng về sau, nhất là từ thế kỷ XV trở đi, Campuchia rơi vào nội chiến và bị quân Xiêm đánh phá liên tục, nên người Khơme di cư xuống đồng bằng sông Cửu Long ngày càng đông.
Tuy nhiên, đến giữa thế kỷ XIX, người Khơme ở Nam Bộ cũng chỉ có 146.718 người. Hiện nay, có trên 1,2 triệu người Khơme sinh sống ở Miền Tây Nam Bộ, tập trung nhất là ở các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Người Khơme sinh sống tập trung nhiều ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang
- Người Hoa di cư đến Tây Nam Bộ vào thế kỷ XVII- XVIII: Năm 1671, Mạc Cửu cùng với 400 người Hoa lánh nạn sang khai phá vùng đất Hà Tiên, sau đó mở rộng ra Phú Quốc, Rạch Giá, Cà Mau. Sau khi Mạc Cửu xin thần phục, nhà Nguyễn phong Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, cho xây dựng thành lũy, mở mang phố xá, dân cư nhiều nơi khác đến, Hà Tiên trở thành đô thị sầm uất.
Năm 1769, khoảng 5000 quan, quân nhà Minh không chịu thần phục nhà Mãn Thanh đã vượt biển vào cảng Đà Nẵng xin theo chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần cho số này lập nghiệp tại Biên Hòa (Đồng Nai) và Mỹ Tho (Tiền Giang).
Hiện nay, người Hoa ở Miền Tây Nam Bộ có gần 200.000 người, chiếm khoảng 1,24% dân số toàn vùng Tây Nam Bộ và chiếm khoảng 23,2% số người Hoa trong toàn quốc. Họ sống tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Bạc Liêu, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long, Cà Mau...
Người Hoa tập trung nhiều ở các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng (sống chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ nơi giao thương nhộn nhịp với nghề thương mại là chủ yếu).
- Người Chăm ở Tây Nam Bộ còn gọi là người Chàm, người Chiêm, dân Chiêm Thành có nguồn gốc từ miền Trung Trung Bộ, nguyên là cư dân nước Chămpa.
Vào thế kỷ XIV - XV, một bộ phận người Chăm ở Ninh Thuận di cư đi nhiều nơi. Vào nửa đầu thế kỷ XIX về tụ cư thành từng làng dọc theo sông Hậu, trên các cù lao thuộc các huyện Phú Châu, Phú Tân, Châu Phú, tỉnh An Giang. Người Chăm theo đạo Hồi (Islam), một tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào Nam Bộ.
Trong vùng Tây Nam Bộ, đa số người Chăm sống ở An Giang, hiện có trên 14.200 người, hầu hết đều cư trú giáp biên giới Campuchia.
Người Chăm sống chủ yếu ở An Giang
- Người Việt có công lớn nhất trong quá trình khai phá Miền Tây Nam Bộ. Cũng như người Khơme, người Hoa, ban đầu người Việt đến đây cũng vì lánh nạn chiến tranh, trốn tránh áp bức bóc lột. Họ đi khai phá đất hoang và chung sống hòa bình với người Khơme.
Ngoài những cư dân Việt đã có mặt từ trước, từ cuối thế kỷ XVI, nhất là thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX người Việt ở phía Bắc đã di cư vào Nam Bộ. Ban đầu người Việt đến ngụ cư ở Bà Rịa, Biên Hòa sau đó phát triển đến các khu vực Bến Nghé, Sài Gòn, rồi Vĩnh Long, Hà Tiên... Từ năm 1665, một số người Việt ở Phnôm Pênh cũng đã chạy về Hà Tiên và Phú Quốc để lánh nạn và khai khẩn đất đai, tìm nơi cư trú.
Từ khi nhà Nguyễn thực thi chính sách khai phá đất đai, lập hệ thống chính quyền cai trị, làn sóng người Việt di cư vào Nam ngày càng đông, trở thành chủ nhân chính trong cộng đồng dân cư Miền Tây Nam Bộ. Hiện nay, người Việt chiếm 93% dân số Miền Tây Nam Bộ.
Trang phục truyền thống của người Việt ở Miền Tây Nam Bộ
3. Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
a) Chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ được khẳng định bằng các văn bản có giá trị pháp lý, được cộng đồng quốc tế, trong đó có chính phủ Campuchia thừa nhận (10 văn bản)
- Một: Hiệp ước giữa An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Cao Miên (Campuchia), ký tháng 12/1845 đã thừa nhận về mặt pháp lý, Nam Kỳ lục tỉnh thuộc về Việt Nam.
- Hai: Hiệp ước năm 1846 giữa An Nam và Xiêm tiếp tục xác nhận nội dung này: Sau đó, Cao Miên cũng đồng ý và tham gia Hiệp ước này.
- Ba: Hiệp ước Việt - Xiêm năm 1847 với sự chứng kiến của vua Cao Miên là Ang Dương, khẳng định vùng đất Nam Kỳ thuộc chủ quyền Việt Nam. Hiệp ước đã công nhận Ang Dương là vua Cao Miên, nhưng Cao Miên nhận là chư hầu của hai nước Việt và Xiêm; Cao Miên cũng xác nhận vùng đất Nam Kỳ thuộc về Việt Nam.
- Bốn: Hiệp ước Pháp - Tây Ban Nha và Nhà Nguyễn (Việt Nam), ký tại Sài Gòn ngày 05/6/1862 và trao đổi văn bản phê chuẩn tại Huế ngày 14/4/1863, đã khẳng định quyền lực của Việt Nam trên lãnh thổ Nam Kỳ. Nhưng triều đình Nhà Nguyễn bất lực, đã nhượng 3 tỉnh miền Đông (1862) và 3 tỉnh miền Tây (1874) cho Pháp. Chính phủ CPC lúc đó không có phản ứng gì.
- Năm: Hiệp ước Xiêm - Cao Miên ngày 01/12/1863 trong đó cả CPC và Xiêm đều công nhận Nam Kỳ là một vùng đất không phải là của CPC (“Campuchia nằm giữa các lãnh thổ Xiêm, Nam Kỳ”); điều đó cũng có nghĩa là vùng đất Nam Kỳ thuộc về Việt Nam.
- (7+8) Trong thời Pháp thuộc, ranh giới giữa hai nước Việt Nam và Campuchia được phân định bao gồm hai đoạn: đoạn biên giới giữa Nam Kỳ với Campuchia và đoạn biên giới giữa Trung Kỳ với Campuchia. Đoạn biên giới ở Nam Kỳ (từ Tây Ninh đến Hà Tiên) được hình thành trên cơ sở các thỏa ước được ký kết giữa Pháp với Campuchia:
+ Thỏa ước Pháp - Campuchia ngày 09/7/1870.
+ Thỏa ước Pháp - Campuchia ngày 15/7/1873.
Với hai Thỏa ước nói trên đường biên giới giữa Campuchia và Nam Kỳ đã được xác lập đầy đủ trong thời Pháp thuộc.
- Chín: Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 04/6/1949 Tổng thống Pháp Vincent Auriol đã ký Bộ luật số 49-733 trả lại Nam Kỳ lục tỉnh cho “Quốc gia Việt Nam”, đại diện là Bảo Đại.
Điều 2 của Luật quy định “Vùng đất Cochinchine được trao lại nhà nước thuộc địa Việt Nam theo Tuyên bố chung ngày 05/6/1948 và Tuyên bố của Chính phủ Pháp ngày 19/8/1948. Vùng đất Cochinchine không còn nằm trong quy chế lãnh thổ thuộc Pháp”.
Giai đoạn Thực dân Pháp chiếm đóng Nam Kỳ (1867-1949) người Pháp gọi Nam Kỳ là Cochinchine.
Trước khi Chính phủ Pháp chuẩn bị trao trả lại vùng đất Nam Bộ cho Việt Nam, Chính quyền Campuchia lúc đó đã đưa ra các yêu sách phản đối.
Ngày 25/6/1945, Quốc vương Norodom Sihanouk ra tuyên bố về quan điểm của Campuchia về vùng đất Nam Kỳ, ngày 20/01/1948 ông gửi thư cho Cao ủy Cộng hòa Pháp, ngày 02/4/1949, ông gửi thư cho Chủ tịch Liên hiệp Pháp để phản đối ý định của Pháp trả đất Nam Kỳ cho phía Việt Nam.
Chính phủ Pháp có đủ căn cứ để phản bác lập luận trên. Trong thư gửi Quốc vương Norodom Sihanouk, ngày 08/6/1949, Chính phủ Pháp đã khẳng định:
“… Ngoài những lý do thực tiễn, những lý do pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Campuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ. Quốc vương hẳn cũng biết rằng Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm 1862 và 1874...” và “Chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam”, trước lúc Pháp có mặt ở Đông Dương, miền Tây Nam Kỳ không thuộc triều đình Khơme.
- (10) Chủ quyền của Việt Nam đối với Miền Tây Nam Bộ tiếp tục được công nhận tại Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) và Hiệp định Pari (1973), được các nước có liên quan như Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc và Lào, Campuchia thừa nhận. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ (1954) khẳng định:
“11. Hội nghị ghi nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp theo hướng là để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc củng cố và thiết lập lại hoà bình ở Campuchia, Lào và Việt Nam, Chính phủ Pháp sẽ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng độc lập và chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, Lào và Việt Nam.
- Trong những năm 1954 – 1975 đất nước ta tạm thời bị chia cắt, đã nhiều lần xảy ra xung đột, tranh chấp biên giới giữa chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Campuchia. Trước tình hình đó, các chính quyền khác nhau của Nhà nước Campuchia và Quốc vương Norodom Sihanouk đã nhiều lần kêu gọi cộng đồng quốc tế thừa nhận đường biên giới hiện tại giữa Campuchia với Nam Việt Nam được thể hiện trên các bản đồ (hợp pháp) do Sở Địa dư Đông Dương ấn hành trước năm 1954.
12. Trong mối quan hệ của mình, CPC, Lào và Việt Nam, mỗi nước thành viên Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia nói trên và kiềm chế trong bất cứ việc nào can thiệp đến công việc nội bộ của họ”.
b) Những hiệp ước về biên giới, lãnh thổ được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia
- Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Hiệp ước này được chính phủ hai nước ký ngày 18/02/1979, tại Điều 4 đã thống nhất: "Hai bên cam kết sẽ giải quyết bằng thương lượng hoà bình tất cả những bất đồng có thể nảy sinh trong quan hệ hai nước. Hai bên sẽ đàm phán để ký một hiệp định hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước trên cơ sở đường biên giới hiện tại; quyết tâm xây dựng đường biên giới này thành biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước”.
- Ngày 20/7/1983, nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia đã ký Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia, trong đó đã thống nhất áp dụng hai nguyên tắc:
+ (1) Trên đất liền, hai bên coi đường biên giới hiện tại giữa hai nước được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (kèm theo 26 mảnh bản đồ đã được hai bên xác nhận) là đường biên giới quốc gia giữa hai nước;
- Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia.
Hiệp ước được chính phủ hai nước ký ngày 27/12/1985, được Hội đồng nhà nước nước CHXHCN Việt Nam phê chuẩn ngày 30/01/1986 và Quốc hội nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia phê chuẩn ngày 07/02/1986, hai bên trao đổi văn kiện phê chuẩn Hiệp ước ngày 22/02/1986. Nội dung Hiệp ước thể hiện rõ lập trường của hai nước tôn trọng và bảo vệ đường biên giới hiện tại.
+ (2) ở nơi nào đường biên giới chưa được vẽ trên bản đồ hoặc hai bên đều thấy chưa hợp lý thì sẽ cùng nhau bàn bạc, giải quyết trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Campuchia, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế.
- Hiệp ước giữa nước CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Campuchia bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985.
Với nỗ lực và quyết tâm cao của cả hai phía, ngày 10/10/2005, tại Hà Nội, Thủ tướng Hun Sen và Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký Hiệp ước bổ sung nhằm xác nhận những sửa đổi đã được hoạch định bởi Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia ký ngày 27/12/1985. Tái lập tiến trình đàm phán phân giới cắm mốc đường biên giới giữa hai nước. Hiệp ước bổ sung được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 29/11/2005.
c) Tính khách quan, khoa học, chính xác và đồng thuận trong quá trình phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia
- Thực hiện các hiệp định nêu trên, hai bên đã tiến hành khảo sát thực tế, vẽ bản đồ và phân định biên giới; đồng thời tổ chức xây dựng hệ thống cột mốc biên giới hoàn toàn dựa trên cơ sở kết quả vẽ bản đồ và phân định trên thực địa đã được hai bên thống nhất, những khu vực còn chưa thống nhất thì tiêp tục nghiên cứu, khảo sát để hoạch định trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng, tuân thủ luật pháp quốc tế và các thỏa thuận hai bên đã ký kết.
- Ngày 07/9/2006, đại diện Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia đã chứng kiến Lễ khởi công xây dựng cột mốc quốc tế đầu tiên tại cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh).
Đến nay, hai bên đã phân giới được khoảng 1000 km trong tổng số chiều dài đường biên giới khoảng 1.137 km, hoàn thành việc xây dựng 10 cột mốc đại có gắn quốc huy tại 10 cặp cửa khẩu quốc tế, 01 cột mốc ở điểm đầu, 01 cột mốc cuối cùng và 297 cột mốc chính, góp phần hoàn thành khoảng 90% công việc phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đi qua 9 tỉnh của Campuchia và 10 tỉnh của Việt Nam, trong đó có 4 tỉnh Miền Tây Nam Bộ.
- Tuy nhiên, vẫn còn 6 đoạn biên giới mà hai bên chưa thống nhất, trong đó, Miền Tây Nam Bộ có 3 đoạn là: đoạn biên giới từ cột mốc số 241 đến số 245 tiếp giáp An Giang (Việt Nam) và Kandal (Campuchia); đoạn biên giới dự kiến cắm cột mốc số 247 đến số 254 tiếp giáp An Giang (Việt Nam) và Kandal/Takeo (Campuchia); và đoạn biên giới từ cột mốc số 295 đến số 302 tiếp giáp Kiên Giang (Việt Nam) và Kampot (Campuchia).
4. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, chủ trương đoàn kết các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (trong đó có đồng bào Khơme ở Miền Tây Nam Bộ), phát huy sức mạnh toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội, phản động nhằm kích động ly khai dân tộc; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó có vùng đất Tây Nam Bộ; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa Việt Nam và Campuchia.
- Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã thống nhất lãnh đạo phong trào cách mạng trên cả ba miền đất nước đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong đó có Miền Tây Nam Bộ.
- Ngay sau khi được thành lập (8/1945), Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã khẳng định chủ quyền đối với vùng đất Tây Nam Bộ - một bộ phận không thể tách rời của toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
- Tháng 7/1946, Tại Pari, bên lề Hội nghị Phôngtenbơlô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “Nam Bộ là đất của Việt Nam. Nó là thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi”.
- Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 31/5/1946, Hồ Chủ tịch đã viết; “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
- Những năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Nhà nước ta đã tập hợp, động viên được đông đảo các tầng lớp nhân dân, trong đó đồng bào các dân tộc ở Miền Tây Nam Bộ tham gia kháng chiến, kề vai sát cánh cùng quân và dân Campuchia trong Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia; lực lượng cách mạng hai nước đã thường xuyên phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau, cùng đấu tranh chống xâm lược. Lúc đó, Chính quyền Campuchia luôn giữ quan hệ đoàn kết, hợp tác, thể hiện sự tôn trọng đường biên giới giữa hai nước.
- Trong lúc xảy ra tranh chấp biên giới giữa Chính quyền Việt Nam cộng hòa với Nhà nước Campuchia, Chính phủ Campuchia và Quốc vương Norodom Sihanouk kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận đường biên giới hiện tại, lúc đó, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng đã lần lượt ra tuyên bố thừa nhận và cam kết tôn trọng đường biên giới hiện tại của Campuchia.
- Những năm 1975-1979, Chính quyền Khơme đỏ ở Campuchia nhiều lần đưa quân sang xâm lược Việt Nam, tàn sát, giết hại dân thường ở các tỉnh biên giới. Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo quân và dân ta, trong đó có đồng bào Khơme ở Miền Tây Nam Bộ tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam thắng lợi, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia.
- Trước nạn diệt chủng ở Campuchia, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã không tiếc máu xương, tận tình giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ chính quyền Khơme đỏ, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, hồi sinh đất nước và xây dựng cuộc sống mới. Đến năm 1989, theo thỏa thuận giữa hai nước, Quân đội và chuyên gia Việt Nam đã rút về nước.
- Từ đó đến nay, Đảng,và Nhà nước ta chủ trương tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác Campuchia, ký kết các hiệp định hoạch định biên giới, tổ chức phân giới, cắm mốc trên nguyên tắc bình đẳng, tuân thủ luật pháp quốc tế.
- Về đối nội, Đảng, Nhà nước ta luôn thực thi chính sách bình đẳng, đoàn kết các dân tộc, thường xuyên quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng dân cư các dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào Khơme ở Miền Tây Nam Bộ; đã có nhiều chính sách, giải pháp cụ thể để phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn:
Ngày 18/4/1991, Ban Bí thư TW Đảng ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơme. Ngày 14/8/2012, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 28-KL/TW về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển KT-XH và bảo đảm ANQP vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020. Ngày 21/11/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2270/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 28-KL/TW của Bộ Chính trị.
Nhiều năm qua, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều đề án, kế hoạch về phát triển KT-XH, VH vùng đồng bằng sông Cửu Long, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các dân tộc thiểu số ở Miền Tây Nam Bộ, trong đó có đồng bào Khơme. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 35,66% năm 2011 xuống còn 28,11% năm 2014, hiện nay không còn hộ đói; 80% số hộ dân có phương tiện nghe, nhìn.
Hầu hết các tỉnh thành ở MTNB có chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng Khơme. Tín đồ, sư sãi có điều kiện sửa và xây dựng mới nhiều chùa, trường học. Các tỉnh, thành đều tổ chức dạy chữ Khơme, Pali cho sư, sãi. Một số tỉnh miễn 100% học phí và đóng góp xây dựng trường cho học sinh Khơme. Các xã có đông người Khơme đều có trạm y tế, toàn đồng bằng sông Cửu Long có 167 bác sĩ và 436 y sĩ là người dân tộc Khơme.
II. ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, CƠ HỘI, PHẢN ĐỘNG CHỐNG PHÁ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI VÙNG ĐẤT TÂY NAM BỘ
1. Một số tổ chức hoạt động chống phá chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
a) Tư tưởng ly khai dân tộc và tổ chức Khơme tự do (Khơme Serei)
- Tư tưởng ly khai người Khơme ra khỏi cộng đồng các dân tộc Việt Nam và vùng đất Nam Bộ ra khỏi đất nước Việt Nam đã xuất hiện trong một số người Khơme sống lưu vong, được hình thành và phát triển từ quan điểm “Khơme tự do” của Sơn Ngọc Thành; với chủ trương là giành quyền lãnh đạo CPC và phát triển lực lượng đấu tranh thành lập một đất nước của người Khơme (bao gồm CPC và Nam Bộ của Việt Nam).
b) “Liên đoàn Khơme Campuchia Crôm thế giới” (KKF)
- Thành lập năm 1985 bởi một số tàn quân của lực lượng “Khơme tự do” kết hợp với ngụy quân, ngụy quyền Việt Nam và người Khơme Crôm di tản sang Hoa Kỳ; tổ chức này có trụ sở tại Bang New Jersey, Hoa Kỳ.
- Đối tượng cầm đầu hiện nay: Thạch Ngọc Thạch - Chủ tịch.
- Khẩu hiệu đưa ra là “Con đường hướng về Tổ quốc”, được chia làm hai giai đoạn để thực hiện là đấu tranh đòi nhân quyền cho người Khơme Crôm và tiến tới đòi thành lập khu tự trị cho người Khơme Crôm trên vùng đất Nam Bộ của Việt Nam.
c) “Cộng đồng Khơme Campuchia Crôm” (KKKC)
- Sau một thời gian vận động và tranh thủ các nhân vật, đảng phái đối lập ở Campuchia và Liên hội Khơme Crôm ở Mỹ, tháng 10/2002, lực lượng này tổ chức đại hội, ra mắt “Cộng đồng Khơme Campuchia Crôm” tại Phnôm Pênh. Tổ chức này đã được Bộ Nội vụ Campuchia cho phép mở văn phòng và hoạt động trong khuôn khổ của một tổ chức trung lập.
- Đối tượng cầm đầu: Thạch Sê Tha; Sơn SuBe: Thạch Son;
Tổng thư ký: Thạch Ngọc Wath.
- Tôn chỉ, mục đích: đấu tranh với Việt Nam nhằm mục tiêu giành chủ quyền vùng đất Nam Bộ cho người Khơme Crôm và sáp nhập thành một bộ phận của Campuchia, với khẩu hiệu hành động: “Cùng một dân tộc, cùng một quốc kỳ và cùng một lịch sử là người Khơme”.
“Theo dõi sự vi phạm nhân quyền của Việt Nam đối với người Khơme Crôm, nhằm tập hợp tài liệu, nhân chứng, vật chứng kiện lên cơ quan Cao uỷ Liên Hợp quốc về quyền con người để có biện pháp đối với Việt Nam, buộc Việt Nam phải tôn trọng các quyền tự do của người Khơme Crôm”.
- Phương châm hành động: Chống Việt Nam theo khuynh hướng cực đoan là chủ yếu.
d) Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP)
- Đảng Cứu quốc Campuchia (Cứu nguy Dân tộc Campuchia) là một liên minh bầu cử giữa hai đảng đối lập chính ở Campuchia là đảng Sam Rainsy và Đảng Nhân quyền, được thành lập vào giữa năm 2012, do Sam Rainsy làm Chủ tịch là một trong các đảng đối lập lớn nhất ở Campuchia hiện nay.
- Họ chủ trương đòi vùng đất Nam Bộ về Campuchia, chống phá các Hiệp định biên giới và quá trình phân giới cắm mốc giữa hai nước Việt Nam - Campuchia; chống phá quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước. Kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vu cáo và kêu gọi chống Việt Nam.
Ngoài các tổ chức trên, ở Campuchia còn có các nhóm:
Hội người Khơme Campuchia Crôm do Lưu An (nguyên quán: Sóc Trăng) cầm đầu;
Hội hữu ái Khơme Crôm (AKKK) do Kiêm Phiên, Thạch Sang cầm đầu;
Hội cứu Khơme Campuchia Crôm do San Moni sáng lập, Lâm Suông làm Chủ tịch;
Hội bảo vệ nhân quyền Khơme Campuchia Crôm do Thạch Sa Môn làm chủ tịch;
Hội Sư sãi Campuchia Crôm do Hen Sa Đoan làm Hội trưởng...
Hầu hết thủ lĩnh của các hội đó đều là người Khơme gốc ở Việt Nam, chủ yếu là ở Trà Vinh.
2. Một số vấn đề rút ra từ việc tổ chức và hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch, phản động
- Các lực lượng chống phá thống nhất quan điểm cho rằng tộc người Khơme ở Miền Tây Nam Bộ là người Campuchia, vùng đất Tây Nam Bộ là của Campuchia. Chủ trương từ bỏ quốc tịch Việt Nam đối với người Khơme ở Tây Nam Bộ. Đòi chủ quyền của tộc người Khơme với vùng đất này. Đấu tranh để thay đổi chủ quyền quốc gia theo quan niệm về nguồn gốc tộc người do họ đề xướng...
- Những việc làm trên của chúng thể hiện ý đồ kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam và chia rẽ quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống giữa hai nước Việt Nam - Campuchia; hạ thấp uy tín, ảnh hưởng của Việt Nam; thu hút sự chú ý của dư luận, cộng đồng quốc tế, kêu gọi can thiệp, giúp đỡ cho “cuộc đấu tranh đòi ly khai, tự trị cho người Khơme ở Miền Tây Nam Bộ” hoặc đòi sáp nhập vùng đất Tây Nam Bộ vào Campuchia.
- Các hoạt động chống phá của các lực lượng này không chỉ nhằm chống Việt Nam mà còn nhằm hạ uy tín của Chính phủ Campuchia, Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) và Thủ tướng Hun Xen.
- Chúng tiến hành hoạt động chống phá theo hai mũi:
+ Cực đoan, bạo động - do Thạch Sê Tha, Chủ tịch “Cộng đồng Khơme Campuchia Crôm” cầm đầu;
+ Nghị trường, bất bạo động do Thạch Ngọc Thạch, Chủ tịch “Liên đoàn Khơme Campuchia Crôm thế giới” cầm đầu.
Cả hai mũi tấn công của chúng đều nhằm chung một mục đích là kêu gọi sự chú ý, can thiệp của dư luận, cộng đồng quốc tế; tập hợp lực lượng đấu tranh đòi “tự trị” cho người Khơme Crôm; tách các tỉnh Nam Bộ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam để thành lập “Nhà nước Khơme độc lập” hoặc sáp nhập vào Campuchia.
3. Trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
- Thường xuyên nắm chắc tình hình hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động,
- Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục làm cho các tầng lớp nhân dân nói chung, nhất là đồng bào Khơme Nam Bộ nói riêng nhận thức đầy đủ về thực tiễn lịch sử quá trình hình thành cộng đồng cư dân trên vùng đất Tây Nam Bộ, cơ sở pháp lý chủ quyền của Việt Nam với vùng đất Tây Nam Bộ.
- Học tập nắm vững quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng ta về đối tác, đối tượng của cách mạng.
- Tích cực tuyên truyền phản bác những luận điệu sai trái của bọn phản động “Khơme Campuchia Crôm” và các thế lực thù địch để nhân dân ta, đặc biệt là đồng bào, sư sãi, trí thức, sinh viên, học sinh người Khơme hiểu rõ tính chất nguy hiểm của bọn phản động, nâng cao giác ngộ chính trị, tinh thần yêu nước.
- Coi trọng tuyên truyền phát huy những kết quả thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, kịp thời động viên, cổ vũ, biểu dương gương người tốt, việc tốt, tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong đồng bào Khơme.
- Xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh; giúp đỡ nhân dân ổn định, phát triển sản xuất, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho bà con dân tộc Khơme, thực hiện tốt chính sách dân tộc, đền ơn, đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo. Xác định phát triển KT-XH, ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào là trọng tâm của công tác dân vận.
- Chủ động phát hiện, ngăn chặn, triệt tiêu từ sớm những âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và các tổ chức phản động “Khơme Campuchia Crôm”. Phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương, các lực lượng, cơ quan chức năng và nước bạn Campuchia làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân, đồng thời đấu tranh ngăn chặn, không để các tổ chức phản độ
đến với bài học hôm nay!
Tây Nam Bộ là vùng đất có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, văn hóa, QPAN, đối ngoại của Việt Nam.
Từ xa xưa, vùng đất này đã thuộc chủ quyền của Việt Nam, đồng bào các dân tộc, tôn giáo ở đây là một bộ phận trong khối ĐĐK toàn Dtộc. Tuy nhiên, những năm gần đây, các thế lực thù địch, phản động ra sức phủ nhận chủ quyền của VN, kích động đồng bào Khơme ở VN và người dân CPC chống phá quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước, phá hoại hòa bình ổn định và ngăn cản tiến trình phân giới cắm mốc giữa VN và CPC. Xuyên tạc sự thật lịch sử vùng đất TNB, kích động ý thức dân tộc hẹp hòi, đòi “độc lập”, “tự trị”, xây dựng tổ chức phản động để tiến tới thành lập cái gọi là “Nhà nước Khơme CPC Crôm”, hoặc sáp nhập Miền TNB vào CPC, cản trở công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.
MIỀN TÂY NAM BỘ, một vùng đất máu thịt của non sông VIỆT NAM
Chuyên đề
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI VÙNG ĐẤT TÂY NAM BỘ
Thạc Sĩ DOÃN ĐÌNH TRÁNH
Giúp người học nắm được nội dung cơ bản lịch sử vùng đất Tây Nam Bộ, những bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ. Qua đó nâng cao ý thức trách nhiệm trong tham gia đấu tranh chống những quan điểm phản động, thù địch. Đồng thời tích cực đóng góp cho sự phát triển ngày càng phồn thịnh của vùng đất này.
MỤC ĐÍCH
1.
YÊU CẦU
2.
- Tập trung nghe, ghi chép tốt. Nắm được những nội dung cơ bản của bài học, biết vận dụng vào thực tiễn.
- Chấp hành tốt các quy định của lớp học...
NỘI DUNG
Giảng viên: sử dụng phương pháp thuyết trình, nêu vấn đề kết hợp với trình chiếu Power point.
Người học: Nghe, ghi chép đủ nội dung chính và ghi theo ý hiểu những nội dung giáo viên phân tích, dẫn chứng.
4. THỜI GIAN: 4 tiết
5. PHƯƠNG PHÁP
I. CƠ SỞ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ
KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI VÙNG ĐẤT TÂY NAM BỘ
1. Vị trí vùng đất Tây Nam Bộ
Vùng đất Tây Nam Bộ (Miền Tây Nam Bộ) là cách gọi vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm ở cực Nam của Tổ quốc, phía Đông Bắc giáp thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh, Đông và Nam giáp Biển Đông, Bắc giáp Campuchia, Tây giáp vịnh Thái Lan; là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu của khu vực ĐNÁ và thế giới.
Miền Tây Nam Bộ hiện có 12 tỉnh và 01 thành phố trực thuộc Trung ương gồm: thành phố Cần Thơ và các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2011, tổng diện tích Miền Tây Nam Bộ là 40.548,2 km2 dân số trên 17.330.900 người, chiếm 21% dân số cả nước.
Có đường biên giới với CPC dài 409km/1.137 km đi qua bốn tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang (từ Nam Tây Ninh đến mép biển Xà Xía, Kiên Giang); có vùng biển rộng lớn, bờ biển dài 743 km, có 2 huyện đảo là Phú Quốc, Kiên Hải (tỉnh Kiên Giang).
Dân cư sinh sống ở vùng đất Tây Nam Bộ bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, trong đó có 4 dân tộc chính là: Việt (Kinh), Hoa, Chăm và Khơme.
2. Cơ sở lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
a) Miền Tây Nam Bộ được hình thành gắn với quá trình khai hóa đất hoang của người Việt và việc xác lập chủ quyền của nhà nước phong kiến Việt Nam cách đây hơn 300 năm
- Trước khi trở thành lãnh thổ của Việt Nam, Miền Tây Nam Bộ thuộc Vương quốc Phù Nam là một quốc gia cổ, ở Đông Nam Á, xuất hiện vào đầu Công nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này khá rộng lớn, kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ của Việt Nam ngày nay, phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Mã Lai. Quốc gia này tồn tại đến thế kỷ VII (năm 627) thì bị nước Chân Lạp tiêu diệt.
Một số hình ảnh bản đồ của nước Phù Nam cổ
Nước Phù Nam gắn liền với văn hóa Óc Eo, khác với văn hóa Khơme.
Văn hóa Óc Eo là tên gọi di chỉ ở núi Ba Thê, hiện nay thuộc Thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang. Nơi này có thể đã từng là kinh đô, từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7..
- Từ thế kỷ VII (khoảng năm 627) đến thế kỷ XVI Miền Tây Nam Bộ bị Vương quốc Chân Lạp (nhà nước đầu tiên của người Khơme) thôn tính, Vương quốc Phù Nam cũng bị diệt vong.
Chân Lạp trước kia vốn là nước thuộc quốc (lệ thuộc) của Phù Nam, tồn tại trên phần phía Trung Nam của bán đảo Đông Dương. Chân Lạp có các vương quốc láng giềng xung quanh gồm Chăm Pa (Chiêm Thành) ở phía Đông, Phù Nam ở phía Nam và Dvaravati (thuộc Thái Lan ngày nay) ở về phía Tây Bắc. Đến thế kỷ VI (khoảng năm 550), họ giành được độc lập, lập ra nước Chân Lạp và dần dần xâm chiếm được miền Bắc của Phù Nam, trong thế kỷ VII, Chân Lạp đã thôn tính toàn bộ Phù Nam.
Chân Lạp
Các tư liệu cổ của Trung Quốc cũng phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp:
Sử ký của nhà Tùy (581-618) chép rằng: nước Chân Lạp ở về phía Tây nam ChămPa, nguyên là một chư hầu cùa Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam.
Sử ký nhà Đường (618-907) chép: “Trong nước (Phù Nam) bấy giờ có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về miền Nam, trú ở thị trấn Na Phất Na”, rồi bị Chân Lạp tiêu diệt.
(Những sự kiện trên được chép vào đầu thế kỷ thứ VII).
Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được gọi là Thủy Chân Lạp (vùng hạ, thấp, sông nước) cùng với vùng Lục Chân Lạp (vùng trên, cao, lục địa).
Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XVI, Nam Bộ (cả Phù Nam) thuộc về Chân Lạp nhưng vùng đất này chưa có sự quản lý về mặt hành chính của Nhà nước Chân Lạp (chưa có sự thiết lập hệ thống địa giới hành chính và cơ quan quản lý). Việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp hết sức khó khăn vì đây là vùng đồng bằng mới được phù sa bồi đắp, còn ngập nước và sình lầy, người Khơme với dân số rất ít, trình độ sản xuất manh mún, chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn.
Việc khai hoang trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp (vùng trên, cao, lục địa) đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Do vậy, nước Chân Lạp tập trung dồn sức phát triển ở Lục Chân Lạp, nhất là ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mê Kông và bành trướng sang phía Tây.
Từ thế kỷ XIV, khi vương quốc Ayuthaya (Xiêm) hình thành, Chân Lạp phải lo đối phó với sự bành trướng của Xiêm từ phía Tây, kinh thành Ăng Co đã có lúc bị quân Xiêm chiếm đóng. Mặt khác, nội bộ Chân Lạp mâu thuẫn, tranh giành quyền lực, nên Chân Lạp bước vào thời kỳ suy yếu.
Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở lục địa vùng cao, nên sau gần 10 thế kỷ thuộc Chân Lạp, Nam Bộ nói chung, nhất là Miền Tây Nam Bộ nói riêng vẫn là một vùng đất hoang sơ.
+ Từ năm 1698, chủ quyền thực tế của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ được xác lập. Năm 1759, toàn bộ lãnh thổ đồng bằng sông Cửu Long chính thức đặt dưới hệ thống chính quyền và thuộc lãnh thổ của nhà Nguyễn.
- Thế kỷ XVII - XVIII, Nhà Nguyễn tiếp tục thiết lập các đơn vị hành chính, bố trí quan lại, lập sổ sách quản lý dân cư, đất đai và định ra các loại thuế. Sau năm 1744, vùng đất Nam Bộ được chia thành 4 dinh (ở miền Đông có dinh Trấn Biên, Phiên Trân, ở miền Tây có dinh Long Hồ, Hà Tiên).
- Dưới triều Nguyễn, hệ thống hành chính tiếp tục được hoàn thiện và thống nhất quản lý trên quy mô cả nước. Năm 1836, vua Minh Mạng cho lập sổ địa bạ toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ (trong đó: 3 tỉnh miền Đông gồm Phiên An, Biên Hòa, Định Tường và 3 tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên; trong đó có 10 phủ, 25 huyện, 135 tổng với 1.637 xã, thôn, phường).
- Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đối với vùng đất phía Nam, triều Nguyễn đã lãnh đạo nhân dân đánh bại các cuộc tiến công của quân Xiêm vào các năm 1715, 1771... Năm 1785, anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ đã đánh tan cuộc xâm lược của quân Xiêm trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút (Tiền Giang). Triều Nguyễn cũng đã cho xây dựng hệ thống các đồn lũy để trấn thủ biên giới.
Quang Trung – Nguyễn Huệ
Trận Rạch Gầm - Xoài Mút (19/1/1785), là trận phục kích đường sông nổi tiếng của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, diệt quân Xiêm xâm lược Miền Tây Nam Bộ.
- Thời Pháp thuộc, 6 tỉnh Nam Bộ, trong đó có 3 tỉnh Miền Tây do thực dân Pháp cai quản (1867-1949).
Theo Hiệp ước Pháp - Tây Ban Nha và Nhà Nguyễn, ký tại Sài Gòn ngày 05/6/1862, triều đình Nhà Nguyễn đã nhượng 3 tình miền Đông (1862) và 3 tỉnh miền Tây (1874) cho Pháp (thực tế Pháp đã chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây từ năm 1867).
Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam, ngày 04/6/1949 Tổng thống Pháp đã ký Bộ luật số 49-733 trả lại Nam Kỳ lục tỉnh cho “Quốc gia Việt Nam”, đại diện là Bảo Đại.
Gia Định: tỉnh lỵ là Gia Định,
Biên Hòa: tỉnh lỵ là Biên Hòa,
Định Tường: tỉnh lỵ là Mỹ Tho,
Vĩnh Long: tỉnh lỵ là Vĩnh Long,
An Giang: tỉnh lỵ là Châu Đốc,
Hà Tiên: tỉnh lỵ là Hà Tiên.
- Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh của nhân dân Miền Tây Nam Bộ, trong đó có dân tộc Khơme tiếp tục phát triển, cùng cả nước làm nên cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
- Thắng lợi vẻ vang của hai cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc xâm lược (Pháp; Mỹ) và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam đã khẳng định quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, lòng dũng cảm, kiên định, sự hy sinh xương máu của nhân dân ta để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó có Miền Tây Nam Bộ.
b) Lịch sử hình thành cộng đồng cư dân trên vùng đất Tây Nam Bộ
- Miền Tây Nam Bộ hiện nay có nhiều tộc người sinh sống, trong đó có 4 dân tộc chiếm tỉ lệ dân số cao là: người Việt (Kinh); người Khơme, người Hoa, người Chăm. Ngoài ra còn một số tộc người có số lượng ít như Tày, Nùng, Ngái, Mnông, Striêng, Mường, Chơ ro, Châu mạ, K’ho...
- Người Khơme có mặt ở Miền Tây Nam Bộ từ rất sớm nhưng số lượng ít, sống rải rác, có tính biệt lập, chưa có quốc gia nào thiết lập quan hệ quản lý hành chính đối với họ.
Ban đầu chỉ là một số người Khơme nghèo muốn thoát khỏi áp bức, bóc lột của chế độ “Ăng Co”, họ từ từ di cư đến đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng càng về sau, nhất là từ thế kỷ XV trở đi, Campuchia rơi vào nội chiến và bị quân Xiêm đánh phá liên tục, nên người Khơme di cư xuống đồng bằng sông Cửu Long ngày càng đông.
Tuy nhiên, đến giữa thế kỷ XIX, người Khơme ở Nam Bộ cũng chỉ có 146.718 người. Hiện nay, có trên 1,2 triệu người Khơme sinh sống ở Miền Tây Nam Bộ, tập trung nhất là ở các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Người Khơme sinh sống tập trung nhiều ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang
- Người Hoa di cư đến Tây Nam Bộ vào thế kỷ XVII- XVIII: Năm 1671, Mạc Cửu cùng với 400 người Hoa lánh nạn sang khai phá vùng đất Hà Tiên, sau đó mở rộng ra Phú Quốc, Rạch Giá, Cà Mau. Sau khi Mạc Cửu xin thần phục, nhà Nguyễn phong Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, cho xây dựng thành lũy, mở mang phố xá, dân cư nhiều nơi khác đến, Hà Tiên trở thành đô thị sầm uất.
Năm 1769, khoảng 5000 quan, quân nhà Minh không chịu thần phục nhà Mãn Thanh đã vượt biển vào cảng Đà Nẵng xin theo chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần cho số này lập nghiệp tại Biên Hòa (Đồng Nai) và Mỹ Tho (Tiền Giang).
Hiện nay, người Hoa ở Miền Tây Nam Bộ có gần 200.000 người, chiếm khoảng 1,24% dân số toàn vùng Tây Nam Bộ và chiếm khoảng 23,2% số người Hoa trong toàn quốc. Họ sống tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Bạc Liêu, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long, Cà Mau...
Người Hoa tập trung nhiều ở các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng (sống chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ nơi giao thương nhộn nhịp với nghề thương mại là chủ yếu).
- Người Chăm ở Tây Nam Bộ còn gọi là người Chàm, người Chiêm, dân Chiêm Thành có nguồn gốc từ miền Trung Trung Bộ, nguyên là cư dân nước Chămpa.
Vào thế kỷ XIV - XV, một bộ phận người Chăm ở Ninh Thuận di cư đi nhiều nơi. Vào nửa đầu thế kỷ XIX về tụ cư thành từng làng dọc theo sông Hậu, trên các cù lao thuộc các huyện Phú Châu, Phú Tân, Châu Phú, tỉnh An Giang. Người Chăm theo đạo Hồi (Islam), một tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào Nam Bộ.
Trong vùng Tây Nam Bộ, đa số người Chăm sống ở An Giang, hiện có trên 14.200 người, hầu hết đều cư trú giáp biên giới Campuchia.
Người Chăm sống chủ yếu ở An Giang
- Người Việt có công lớn nhất trong quá trình khai phá Miền Tây Nam Bộ. Cũng như người Khơme, người Hoa, ban đầu người Việt đến đây cũng vì lánh nạn chiến tranh, trốn tránh áp bức bóc lột. Họ đi khai phá đất hoang và chung sống hòa bình với người Khơme.
Ngoài những cư dân Việt đã có mặt từ trước, từ cuối thế kỷ XVI, nhất là thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX người Việt ở phía Bắc đã di cư vào Nam Bộ. Ban đầu người Việt đến ngụ cư ở Bà Rịa, Biên Hòa sau đó phát triển đến các khu vực Bến Nghé, Sài Gòn, rồi Vĩnh Long, Hà Tiên... Từ năm 1665, một số người Việt ở Phnôm Pênh cũng đã chạy về Hà Tiên và Phú Quốc để lánh nạn và khai khẩn đất đai, tìm nơi cư trú.
Từ khi nhà Nguyễn thực thi chính sách khai phá đất đai, lập hệ thống chính quyền cai trị, làn sóng người Việt di cư vào Nam ngày càng đông, trở thành chủ nhân chính trong cộng đồng dân cư Miền Tây Nam Bộ. Hiện nay, người Việt chiếm 93% dân số Miền Tây Nam Bộ.
Trang phục truyền thống của người Việt ở Miền Tây Nam Bộ
3. Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
a) Chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ được khẳng định bằng các văn bản có giá trị pháp lý, được cộng đồng quốc tế, trong đó có chính phủ Campuchia thừa nhận (10 văn bản)
- Một: Hiệp ước giữa An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Cao Miên (Campuchia), ký tháng 12/1845 đã thừa nhận về mặt pháp lý, Nam Kỳ lục tỉnh thuộc về Việt Nam.
- Hai: Hiệp ước năm 1846 giữa An Nam và Xiêm tiếp tục xác nhận nội dung này: Sau đó, Cao Miên cũng đồng ý và tham gia Hiệp ước này.
- Ba: Hiệp ước Việt - Xiêm năm 1847 với sự chứng kiến của vua Cao Miên là Ang Dương, khẳng định vùng đất Nam Kỳ thuộc chủ quyền Việt Nam. Hiệp ước đã công nhận Ang Dương là vua Cao Miên, nhưng Cao Miên nhận là chư hầu của hai nước Việt và Xiêm; Cao Miên cũng xác nhận vùng đất Nam Kỳ thuộc về Việt Nam.
- Bốn: Hiệp ước Pháp - Tây Ban Nha và Nhà Nguyễn (Việt Nam), ký tại Sài Gòn ngày 05/6/1862 và trao đổi văn bản phê chuẩn tại Huế ngày 14/4/1863, đã khẳng định quyền lực của Việt Nam trên lãnh thổ Nam Kỳ. Nhưng triều đình Nhà Nguyễn bất lực, đã nhượng 3 tỉnh miền Đông (1862) và 3 tỉnh miền Tây (1874) cho Pháp. Chính phủ CPC lúc đó không có phản ứng gì.
- Năm: Hiệp ước Xiêm - Cao Miên ngày 01/12/1863 trong đó cả CPC và Xiêm đều công nhận Nam Kỳ là một vùng đất không phải là của CPC (“Campuchia nằm giữa các lãnh thổ Xiêm, Nam Kỳ”); điều đó cũng có nghĩa là vùng đất Nam Kỳ thuộc về Việt Nam.
- (7+8) Trong thời Pháp thuộc, ranh giới giữa hai nước Việt Nam và Campuchia được phân định bao gồm hai đoạn: đoạn biên giới giữa Nam Kỳ với Campuchia và đoạn biên giới giữa Trung Kỳ với Campuchia. Đoạn biên giới ở Nam Kỳ (từ Tây Ninh đến Hà Tiên) được hình thành trên cơ sở các thỏa ước được ký kết giữa Pháp với Campuchia:
+ Thỏa ước Pháp - Campuchia ngày 09/7/1870.
+ Thỏa ước Pháp - Campuchia ngày 15/7/1873.
Với hai Thỏa ước nói trên đường biên giới giữa Campuchia và Nam Kỳ đã được xác lập đầy đủ trong thời Pháp thuộc.
- Chín: Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 04/6/1949 Tổng thống Pháp Vincent Auriol đã ký Bộ luật số 49-733 trả lại Nam Kỳ lục tỉnh cho “Quốc gia Việt Nam”, đại diện là Bảo Đại.
Điều 2 của Luật quy định “Vùng đất Cochinchine được trao lại nhà nước thuộc địa Việt Nam theo Tuyên bố chung ngày 05/6/1948 và Tuyên bố của Chính phủ Pháp ngày 19/8/1948. Vùng đất Cochinchine không còn nằm trong quy chế lãnh thổ thuộc Pháp”.
Giai đoạn Thực dân Pháp chiếm đóng Nam Kỳ (1867-1949) người Pháp gọi Nam Kỳ là Cochinchine.
Trước khi Chính phủ Pháp chuẩn bị trao trả lại vùng đất Nam Bộ cho Việt Nam, Chính quyền Campuchia lúc đó đã đưa ra các yêu sách phản đối.
Ngày 25/6/1945, Quốc vương Norodom Sihanouk ra tuyên bố về quan điểm của Campuchia về vùng đất Nam Kỳ, ngày 20/01/1948 ông gửi thư cho Cao ủy Cộng hòa Pháp, ngày 02/4/1949, ông gửi thư cho Chủ tịch Liên hiệp Pháp để phản đối ý định của Pháp trả đất Nam Kỳ cho phía Việt Nam.
Chính phủ Pháp có đủ căn cứ để phản bác lập luận trên. Trong thư gửi Quốc vương Norodom Sihanouk, ngày 08/6/1949, Chính phủ Pháp đã khẳng định:
“… Ngoài những lý do thực tiễn, những lý do pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Campuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ. Quốc vương hẳn cũng biết rằng Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm 1862 và 1874...” và “Chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam”, trước lúc Pháp có mặt ở Đông Dương, miền Tây Nam Kỳ không thuộc triều đình Khơme.
- (10) Chủ quyền của Việt Nam đối với Miền Tây Nam Bộ tiếp tục được công nhận tại Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) và Hiệp định Pari (1973), được các nước có liên quan như Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc và Lào, Campuchia thừa nhận. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ (1954) khẳng định:
“11. Hội nghị ghi nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp theo hướng là để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc củng cố và thiết lập lại hoà bình ở Campuchia, Lào và Việt Nam, Chính phủ Pháp sẽ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng độc lập và chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, Lào và Việt Nam.
- Trong những năm 1954 – 1975 đất nước ta tạm thời bị chia cắt, đã nhiều lần xảy ra xung đột, tranh chấp biên giới giữa chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Campuchia. Trước tình hình đó, các chính quyền khác nhau của Nhà nước Campuchia và Quốc vương Norodom Sihanouk đã nhiều lần kêu gọi cộng đồng quốc tế thừa nhận đường biên giới hiện tại giữa Campuchia với Nam Việt Nam được thể hiện trên các bản đồ (hợp pháp) do Sở Địa dư Đông Dương ấn hành trước năm 1954.
12. Trong mối quan hệ của mình, CPC, Lào và Việt Nam, mỗi nước thành viên Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia nói trên và kiềm chế trong bất cứ việc nào can thiệp đến công việc nội bộ của họ”.
b) Những hiệp ước về biên giới, lãnh thổ được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia
- Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Hiệp ước này được chính phủ hai nước ký ngày 18/02/1979, tại Điều 4 đã thống nhất: "Hai bên cam kết sẽ giải quyết bằng thương lượng hoà bình tất cả những bất đồng có thể nảy sinh trong quan hệ hai nước. Hai bên sẽ đàm phán để ký một hiệp định hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước trên cơ sở đường biên giới hiện tại; quyết tâm xây dựng đường biên giới này thành biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước”.
- Ngày 20/7/1983, nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia đã ký Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia, trong đó đã thống nhất áp dụng hai nguyên tắc:
+ (1) Trên đất liền, hai bên coi đường biên giới hiện tại giữa hai nước được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (kèm theo 26 mảnh bản đồ đã được hai bên xác nhận) là đường biên giới quốc gia giữa hai nước;
- Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia.
Hiệp ước được chính phủ hai nước ký ngày 27/12/1985, được Hội đồng nhà nước nước CHXHCN Việt Nam phê chuẩn ngày 30/01/1986 và Quốc hội nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia phê chuẩn ngày 07/02/1986, hai bên trao đổi văn kiện phê chuẩn Hiệp ước ngày 22/02/1986. Nội dung Hiệp ước thể hiện rõ lập trường của hai nước tôn trọng và bảo vệ đường biên giới hiện tại.
+ (2) ở nơi nào đường biên giới chưa được vẽ trên bản đồ hoặc hai bên đều thấy chưa hợp lý thì sẽ cùng nhau bàn bạc, giải quyết trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Campuchia, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế.
- Hiệp ước giữa nước CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Campuchia bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985.
Với nỗ lực và quyết tâm cao của cả hai phía, ngày 10/10/2005, tại Hà Nội, Thủ tướng Hun Sen và Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký Hiệp ước bổ sung nhằm xác nhận những sửa đổi đã được hoạch định bởi Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia ký ngày 27/12/1985. Tái lập tiến trình đàm phán phân giới cắm mốc đường biên giới giữa hai nước. Hiệp ước bổ sung được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 29/11/2005.
c) Tính khách quan, khoa học, chính xác và đồng thuận trong quá trình phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia
- Thực hiện các hiệp định nêu trên, hai bên đã tiến hành khảo sát thực tế, vẽ bản đồ và phân định biên giới; đồng thời tổ chức xây dựng hệ thống cột mốc biên giới hoàn toàn dựa trên cơ sở kết quả vẽ bản đồ và phân định trên thực địa đã được hai bên thống nhất, những khu vực còn chưa thống nhất thì tiêp tục nghiên cứu, khảo sát để hoạch định trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng, tuân thủ luật pháp quốc tế và các thỏa thuận hai bên đã ký kết.
- Ngày 07/9/2006, đại diện Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia đã chứng kiến Lễ khởi công xây dựng cột mốc quốc tế đầu tiên tại cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh).
Đến nay, hai bên đã phân giới được khoảng 1000 km trong tổng số chiều dài đường biên giới khoảng 1.137 km, hoàn thành việc xây dựng 10 cột mốc đại có gắn quốc huy tại 10 cặp cửa khẩu quốc tế, 01 cột mốc ở điểm đầu, 01 cột mốc cuối cùng và 297 cột mốc chính, góp phần hoàn thành khoảng 90% công việc phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đi qua 9 tỉnh của Campuchia và 10 tỉnh của Việt Nam, trong đó có 4 tỉnh Miền Tây Nam Bộ.
- Tuy nhiên, vẫn còn 6 đoạn biên giới mà hai bên chưa thống nhất, trong đó, Miền Tây Nam Bộ có 3 đoạn là: đoạn biên giới từ cột mốc số 241 đến số 245 tiếp giáp An Giang (Việt Nam) và Kandal (Campuchia); đoạn biên giới dự kiến cắm cột mốc số 247 đến số 254 tiếp giáp An Giang (Việt Nam) và Kandal/Takeo (Campuchia); và đoạn biên giới từ cột mốc số 295 đến số 302 tiếp giáp Kiên Giang (Việt Nam) và Kampot (Campuchia).
4. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, chủ trương đoàn kết các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (trong đó có đồng bào Khơme ở Miền Tây Nam Bộ), phát huy sức mạnh toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội, phản động nhằm kích động ly khai dân tộc; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó có vùng đất Tây Nam Bộ; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa Việt Nam và Campuchia.
- Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã thống nhất lãnh đạo phong trào cách mạng trên cả ba miền đất nước đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong đó có Miền Tây Nam Bộ.
- Ngay sau khi được thành lập (8/1945), Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã khẳng định chủ quyền đối với vùng đất Tây Nam Bộ - một bộ phận không thể tách rời của toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
- Tháng 7/1946, Tại Pari, bên lề Hội nghị Phôngtenbơlô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “Nam Bộ là đất của Việt Nam. Nó là thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi”.
- Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 31/5/1946, Hồ Chủ tịch đã viết; “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
- Những năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Nhà nước ta đã tập hợp, động viên được đông đảo các tầng lớp nhân dân, trong đó đồng bào các dân tộc ở Miền Tây Nam Bộ tham gia kháng chiến, kề vai sát cánh cùng quân và dân Campuchia trong Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia; lực lượng cách mạng hai nước đã thường xuyên phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau, cùng đấu tranh chống xâm lược. Lúc đó, Chính quyền Campuchia luôn giữ quan hệ đoàn kết, hợp tác, thể hiện sự tôn trọng đường biên giới giữa hai nước.
- Trong lúc xảy ra tranh chấp biên giới giữa Chính quyền Việt Nam cộng hòa với Nhà nước Campuchia, Chính phủ Campuchia và Quốc vương Norodom Sihanouk kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận đường biên giới hiện tại, lúc đó, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng đã lần lượt ra tuyên bố thừa nhận và cam kết tôn trọng đường biên giới hiện tại của Campuchia.
- Những năm 1975-1979, Chính quyền Khơme đỏ ở Campuchia nhiều lần đưa quân sang xâm lược Việt Nam, tàn sát, giết hại dân thường ở các tỉnh biên giới. Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo quân và dân ta, trong đó có đồng bào Khơme ở Miền Tây Nam Bộ tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam thắng lợi, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia.
- Trước nạn diệt chủng ở Campuchia, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã không tiếc máu xương, tận tình giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ chính quyền Khơme đỏ, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, hồi sinh đất nước và xây dựng cuộc sống mới. Đến năm 1989, theo thỏa thuận giữa hai nước, Quân đội và chuyên gia Việt Nam đã rút về nước.
- Từ đó đến nay, Đảng,và Nhà nước ta chủ trương tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác Campuchia, ký kết các hiệp định hoạch định biên giới, tổ chức phân giới, cắm mốc trên nguyên tắc bình đẳng, tuân thủ luật pháp quốc tế.
- Về đối nội, Đảng, Nhà nước ta luôn thực thi chính sách bình đẳng, đoàn kết các dân tộc, thường xuyên quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng dân cư các dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào Khơme ở Miền Tây Nam Bộ; đã có nhiều chính sách, giải pháp cụ thể để phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn:
Ngày 18/4/1991, Ban Bí thư TW Đảng ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơme. Ngày 14/8/2012, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 28-KL/TW về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển KT-XH và bảo đảm ANQP vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020. Ngày 21/11/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2270/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 28-KL/TW của Bộ Chính trị.
Nhiều năm qua, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều đề án, kế hoạch về phát triển KT-XH, VH vùng đồng bằng sông Cửu Long, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các dân tộc thiểu số ở Miền Tây Nam Bộ, trong đó có đồng bào Khơme. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 35,66% năm 2011 xuống còn 28,11% năm 2014, hiện nay không còn hộ đói; 80% số hộ dân có phương tiện nghe, nhìn.
Hầu hết các tỉnh thành ở MTNB có chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng Khơme. Tín đồ, sư sãi có điều kiện sửa và xây dựng mới nhiều chùa, trường học. Các tỉnh, thành đều tổ chức dạy chữ Khơme, Pali cho sư, sãi. Một số tỉnh miễn 100% học phí và đóng góp xây dựng trường cho học sinh Khơme. Các xã có đông người Khơme đều có trạm y tế, toàn đồng bằng sông Cửu Long có 167 bác sĩ và 436 y sĩ là người dân tộc Khơme.
II. ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, CƠ HỘI, PHẢN ĐỘNG CHỐNG PHÁ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI VÙNG ĐẤT TÂY NAM BỘ
1. Một số tổ chức hoạt động chống phá chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
a) Tư tưởng ly khai dân tộc và tổ chức Khơme tự do (Khơme Serei)
- Tư tưởng ly khai người Khơme ra khỏi cộng đồng các dân tộc Việt Nam và vùng đất Nam Bộ ra khỏi đất nước Việt Nam đã xuất hiện trong một số người Khơme sống lưu vong, được hình thành và phát triển từ quan điểm “Khơme tự do” của Sơn Ngọc Thành; với chủ trương là giành quyền lãnh đạo CPC và phát triển lực lượng đấu tranh thành lập một đất nước của người Khơme (bao gồm CPC và Nam Bộ của Việt Nam).
b) “Liên đoàn Khơme Campuchia Crôm thế giới” (KKF)
- Thành lập năm 1985 bởi một số tàn quân của lực lượng “Khơme tự do” kết hợp với ngụy quân, ngụy quyền Việt Nam và người Khơme Crôm di tản sang Hoa Kỳ; tổ chức này có trụ sở tại Bang New Jersey, Hoa Kỳ.
- Đối tượng cầm đầu hiện nay: Thạch Ngọc Thạch - Chủ tịch.
- Khẩu hiệu đưa ra là “Con đường hướng về Tổ quốc”, được chia làm hai giai đoạn để thực hiện là đấu tranh đòi nhân quyền cho người Khơme Crôm và tiến tới đòi thành lập khu tự trị cho người Khơme Crôm trên vùng đất Nam Bộ của Việt Nam.
c) “Cộng đồng Khơme Campuchia Crôm” (KKKC)
- Sau một thời gian vận động và tranh thủ các nhân vật, đảng phái đối lập ở Campuchia và Liên hội Khơme Crôm ở Mỹ, tháng 10/2002, lực lượng này tổ chức đại hội, ra mắt “Cộng đồng Khơme Campuchia Crôm” tại Phnôm Pênh. Tổ chức này đã được Bộ Nội vụ Campuchia cho phép mở văn phòng và hoạt động trong khuôn khổ của một tổ chức trung lập.
- Đối tượng cầm đầu: Thạch Sê Tha; Sơn SuBe: Thạch Son;
Tổng thư ký: Thạch Ngọc Wath.
- Tôn chỉ, mục đích: đấu tranh với Việt Nam nhằm mục tiêu giành chủ quyền vùng đất Nam Bộ cho người Khơme Crôm và sáp nhập thành một bộ phận của Campuchia, với khẩu hiệu hành động: “Cùng một dân tộc, cùng một quốc kỳ và cùng một lịch sử là người Khơme”.
“Theo dõi sự vi phạm nhân quyền của Việt Nam đối với người Khơme Crôm, nhằm tập hợp tài liệu, nhân chứng, vật chứng kiện lên cơ quan Cao uỷ Liên Hợp quốc về quyền con người để có biện pháp đối với Việt Nam, buộc Việt Nam phải tôn trọng các quyền tự do của người Khơme Crôm”.
- Phương châm hành động: Chống Việt Nam theo khuynh hướng cực đoan là chủ yếu.
d) Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP)
- Đảng Cứu quốc Campuchia (Cứu nguy Dân tộc Campuchia) là một liên minh bầu cử giữa hai đảng đối lập chính ở Campuchia là đảng Sam Rainsy và Đảng Nhân quyền, được thành lập vào giữa năm 2012, do Sam Rainsy làm Chủ tịch là một trong các đảng đối lập lớn nhất ở Campuchia hiện nay.
- Họ chủ trương đòi vùng đất Nam Bộ về Campuchia, chống phá các Hiệp định biên giới và quá trình phân giới cắm mốc giữa hai nước Việt Nam - Campuchia; chống phá quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước. Kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vu cáo và kêu gọi chống Việt Nam.
Ngoài các tổ chức trên, ở Campuchia còn có các nhóm:
Hội người Khơme Campuchia Crôm do Lưu An (nguyên quán: Sóc Trăng) cầm đầu;
Hội hữu ái Khơme Crôm (AKKK) do Kiêm Phiên, Thạch Sang cầm đầu;
Hội cứu Khơme Campuchia Crôm do San Moni sáng lập, Lâm Suông làm Chủ tịch;
Hội bảo vệ nhân quyền Khơme Campuchia Crôm do Thạch Sa Môn làm chủ tịch;
Hội Sư sãi Campuchia Crôm do Hen Sa Đoan làm Hội trưởng...
Hầu hết thủ lĩnh của các hội đó đều là người Khơme gốc ở Việt Nam, chủ yếu là ở Trà Vinh.
2. Một số vấn đề rút ra từ việc tổ chức và hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch, phản động
- Các lực lượng chống phá thống nhất quan điểm cho rằng tộc người Khơme ở Miền Tây Nam Bộ là người Campuchia, vùng đất Tây Nam Bộ là của Campuchia. Chủ trương từ bỏ quốc tịch Việt Nam đối với người Khơme ở Tây Nam Bộ. Đòi chủ quyền của tộc người Khơme với vùng đất này. Đấu tranh để thay đổi chủ quyền quốc gia theo quan niệm về nguồn gốc tộc người do họ đề xướng...
- Những việc làm trên của chúng thể hiện ý đồ kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam và chia rẽ quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống giữa hai nước Việt Nam - Campuchia; hạ thấp uy tín, ảnh hưởng của Việt Nam; thu hút sự chú ý của dư luận, cộng đồng quốc tế, kêu gọi can thiệp, giúp đỡ cho “cuộc đấu tranh đòi ly khai, tự trị cho người Khơme ở Miền Tây Nam Bộ” hoặc đòi sáp nhập vùng đất Tây Nam Bộ vào Campuchia.
- Các hoạt động chống phá của các lực lượng này không chỉ nhằm chống Việt Nam mà còn nhằm hạ uy tín của Chính phủ Campuchia, Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) và Thủ tướng Hun Xen.
- Chúng tiến hành hoạt động chống phá theo hai mũi:
+ Cực đoan, bạo động - do Thạch Sê Tha, Chủ tịch “Cộng đồng Khơme Campuchia Crôm” cầm đầu;
+ Nghị trường, bất bạo động do Thạch Ngọc Thạch, Chủ tịch “Liên đoàn Khơme Campuchia Crôm thế giới” cầm đầu.
Cả hai mũi tấn công của chúng đều nhằm chung một mục đích là kêu gọi sự chú ý, can thiệp của dư luận, cộng đồng quốc tế; tập hợp lực lượng đấu tranh đòi “tự trị” cho người Khơme Crôm; tách các tỉnh Nam Bộ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam để thành lập “Nhà nước Khơme độc lập” hoặc sáp nhập vào Campuchia.
3. Trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ
- Thường xuyên nắm chắc tình hình hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động,
- Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục làm cho các tầng lớp nhân dân nói chung, nhất là đồng bào Khơme Nam Bộ nói riêng nhận thức đầy đủ về thực tiễn lịch sử quá trình hình thành cộng đồng cư dân trên vùng đất Tây Nam Bộ, cơ sở pháp lý chủ quyền của Việt Nam với vùng đất Tây Nam Bộ.
- Học tập nắm vững quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng ta về đối tác, đối tượng của cách mạng.
- Tích cực tuyên truyền phản bác những luận điệu sai trái của bọn phản động “Khơme Campuchia Crôm” và các thế lực thù địch để nhân dân ta, đặc biệt là đồng bào, sư sãi, trí thức, sinh viên, học sinh người Khơme hiểu rõ tính chất nguy hiểm của bọn phản động, nâng cao giác ngộ chính trị, tinh thần yêu nước.
- Coi trọng tuyên truyền phát huy những kết quả thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, kịp thời động viên, cổ vũ, biểu dương gương người tốt, việc tốt, tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong đồng bào Khơme.
- Xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh; giúp đỡ nhân dân ổn định, phát triển sản xuất, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho bà con dân tộc Khơme, thực hiện tốt chính sách dân tộc, đền ơn, đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo. Xác định phát triển KT-XH, ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào là trọng tâm của công tác dân vận.
- Chủ động phát hiện, ngăn chặn, triệt tiêu từ sớm những âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và các tổ chức phản động “Khơme Campuchia Crôm”. Phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương, các lực lượng, cơ quan chức năng và nước bạn Campuchia làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân, đồng thời đấu tranh ngăn chặn, không để các tổ chức phản độ
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Doãn Đình Tránh
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)