Chu kỳ hoạt động của tim.
Chia sẻ bởi Khương Thị Hằng |
Ngày 23/10/2018 |
58
Chia sẻ tài liệu: chu kỳ hoạt động của tim. thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Chào các bạn
Bài thảo luận nhóm
Thành viên tổ 1:
Vũ Thị Chinh A-
Lê Thị Hồng A
Lê Thị Nhàn A
Cao Viết Xuân
Hồ Thị Hương A-
Hồ Thị Mai A
7. Trịnh Thị Thành A
8. Ngô Thị Trang A
9. Vi Văn Anh B
10. Khương Thị Hằng A
11. Nguyễn Văn Trường A-
Nội dung thảo luận
Chu kì hoạt động của tim
Cơ chế điều hòa hoạt động của tim
Giải thích tại sao tim hoạt động suốt đời mà không mỏi
Vấn đề 1: Chu kì hoạt động của tim
1. Chu kì hoạt động của tim
- Là hoạt động của tim gồm nhiều giai đoạn lặp đi lặp lại đều đặn nhịp nhàng, theo một trật tự nhất định.
Khi tim co gọi là tâm thu, khi tim giãn gọi là tâm trương.
Trong điều kiện sinh lý bình thường, một người trưởng thành có tần số co bóp khoảng 70 – 75 lần/phút, thời gian của một chu kì tim thường là 0,8 giây.
Ở trẻ em có nhịp tim khoảng 120 – 140 lần/phút, nhịp tim giảm dần theo sự phát triển của cơ thể. Ở nữ giới có nhịp tim nhanh hơn nam giới khoảng 5 – 10 nhịp/phút.
Thời gian trong một chu kì tim như sau:
+ Tâm nhĩ co: 0,1 giây
+ Tâm nhĩ giãn: 0,7 giây.
+ Tâm thất co: 0,3 giây.
+ Tâm thất giãn: 0,5 giây.
+ Tim nghỉ ngơi: 0,4 giây.
Các giai đoạn chính của một chu kì tim:
Hình 1- Chu kì hoạt động của tim
1.1. Giai đoạn tâm nhĩ thu:
- Giai đoạn này kéo dài 0,1 giây.
- Khi tâm nhĩ co bóp thì áp suất trong tâm nhĩ sẽ tăng lên. Lúc này van nhĩ thất đang mở, tâm nhĩ co bóp đẩy nốt lượng máu còn lại xuống tâm thất (khoảng 1/4 lượng máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất) và làm cho áp suất ở tâm thất tăng lên. Sau đó tâm nhĩ giãn ra trong suốt thời gian còn lại của chu kì tim.
Tâm nhĩ thu là kết quả của sự lan truyền sóng điện thế dẫn nhịp từ hạch xoang ra toàn bộ hai tâm nhĩ phải, trái.
1.2. Giai đoạn tâm thất thu:
- Khi tâm nhĩ giãn ra, tâm thất bắt đầu co bóp, quá trình này kéo dài 0,3 giây. Gồm 2 giai đoạn chính:
- Giai đọan tăng áp suất: kéo dài khoảng 0,05giây, tâm thất co bóp làm cho áp suất tăng lên cao hơn áp suất của tâm nhĩ, van nhĩ thất đóng lại, nhưng áp suất vẫn chưa đủ để mở van bán nguyệt. Tâm thất co nhưng thể tích không thay đổi gọi là co đẳng tích.
Giai đoạn tống máu nhanh: kéo dài khoảng 0,25 giây. Ở giai đoạn này áp suất ở tâm thất lớn hơn hẳn so với áp suất ở động mạch chủ, làm cho van bán nguyệt mở ra, máu được đẩy vào động mạch chủ. Tâm thất vẫn co bóp, thể tích máu của tâm thất giảm xuống nhưng áp suất của tâm thất vẫn cao để tống hết máu vào động mạch.
1.3 Giai đoạn tâm trương toàn bộ:
Sau khi đẩy hết máu vào động mạch, tâm thất giãn ra, áp suất giảm xuống thấp hơn áp suất trong động mạch chủ làm van bán nguyệt đóng lại. Tâm thất giãn nhưng thể tích vẫn không thay đổi (gọi là giãn đẳng tích), van nhĩ thất mở. Giai đoạn này kéo dài 0,4 giây, sau đó tâm thất tiếp tục giãn thêm 0,1 giây.
2. Một số biểu hiện bên ngoài của chu kì tim
2.1. Tiếng tim:
Là loại âm thanh được phát ra khi tim hoạt động, gồm hai tiếng tâm thu và tâm trương
Tiếng tâm thu:
+ Xuất hiện ở giai đoạn đầu của của giai đoạn tâm thu do van hai lá và van ba lá đóng cùng một lúc.
+ Mạnh, trầm, kèo dài ( khoảng 0,08 – 0,12 giây) và nghe rõ nhất ở vùng mỏm tim.
Tiếng tâm trương:
+ Xuất hiện ở giai đoạn đầu của giai đoạn tâm trương do van động mạch chủ và van động mạch phổi đóng cùng một lúc.
+ Nhẹ, thanh, ngắn (0,05 – 0,08 giây) và nghe rõ nhất ở khoảng gian sườn II cách bờ phải và trái của xương ức khoảng 1cm. Nghe tiếng tim có ý nghĩa sinh lý trong việc chuẩn đoán lâm sàng.
2.2. Điện tim.
Cũng như các loại tế bào khác trong cơ thể, tế bào cơ tim có điện thế nghỉ và điện thế hoạt động.Tổng các điện thế hoạt động của các tế bào cơ tim đã tạo ra điện tim. Đường ghi của điện tim được gọi là điện tâm đồ.
- Dòng điện tim được lan truyền ra khắp cơ thể và có thể ghi được bằng máy điện tim.
Điện tim là một chỉ tiêu sinh lý quan trọng trong việc tìm hiểu các chức năng sinh lý của cơ tim và cả quả tim, đặc biệt là chỉ tiêu sinh lý có liên quan đến các bệnh về tim.
Điện tâm đồ của một chu kì tim đập gồm 5 sóng và được kí hiệu bằng các chữ cái P, Q, R, S, T theo quy luật như sau:
- Khi hưng phấn bắt đầu, đã có sự chênh lệch về điện thế giữa vùng yên tĩnh và vùng hưng phấn nên sóng có đoạn đi lên.
Khi hưng phấn được lan tỏa thì sự chênh lệch về điện thế đã giảm xuống, sóng đi xuống.
Khi toàn bộ tâm nhĩ hoặc tâm thất hưng phấn thì không còn có sự chênh lệch về điện thế nên sóng nằm ngang
Điện tâm đồ
Phân tích các sóng như sau:
1/ Sóng P phản ánh quá trình hưng phấn của tâm nhĩ trước khi tâm nhĩ co.
Tâm nhĩ phải nằm gần hạch Keith – Flack hơn nên đã hưng phấn trước và tích điện âm còn tâm nhĩ trái đang yên tĩnh và tích điện dương, do đó đã có sự chênh lệch điện thế =>Sóng P có đoạn đi lên.
Sau đó sóng hưng phấn lan truyền sang tâm nhĩ trái nên sự chênh lệch điện thế giảm dần => Sóng P có đoạn đi xuống.
Khi không còn sự chênh lệch về điện thế => Sóng P có đoạn nằm ngang và kết thúc.
2- Đoạn P-Q: biểu thị hưng phấn được truyền từ tâm nhĩ sang tâm thất.
3- Sóng Q: biểu thị tâm thất bắt đầu hưng phấn, thời gian 0,03 giây.
4- Nhóm sóng QRS: biểu thị trạng thái hưng phấn của tâm thất trước lúc tâm thất co. Nhóm sóng này dốc là vì hưng phấn được truyền nhanh trong tâm thất với thời gian là 0,07 giây.
5- Đoạn S-T nằm ngang biểu thị toàn bộ tâm thất đã hưng phấn nên không còn sự chênh lệch về điện thế. Sóng T biểu thị sự khôi phục tính hưng phấn trong tâm thất.
Điện tâm đồ ở người
Vấn đề 2: Cơ chế điều hoà hoạt động của tim
Điều hoà hoạt động của tim được thực hiện theo 2 cơ chế chủ yếu:
- Cơ chế tự điều hoà lực co bóp của cơ tim theo lượng máu về tim (hiện tượng Frank-Starling).
- Cơ chế điều hoà do các yếu tố ngoài tim (cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch).
1. Cơ chế tự điều hoà theo Frank-starling
Lượng máu từ các tĩnh mạch ngoại vi khi trở về tim là yếu tố đã làm thay đổi lực co bóp của tâm thất, sao cho máu của tĩnh mạch đã về được bao nhiêu, thì tâm thất sẽ đẩy máu ra động mạch được bấy nhiêu. Tim thực hiện được là do lượng máu đổ về tâm thất đã làm cho cơ tim giãn ra, các sợi cơ tim càng bị kéo dài, thì chúng càng co lại nhanh hơn. Đó là hiện tượng Frank-starling. Như vậy sự tự điều hoà các hoạt động của tim là sự thay đổi độ co, giãn của các sợi cơ tim ở tâm thất và vách tâm nhĩ dưới ảnh hưởng của lượng máu đã chảy về tim.
2. Cơ chế điều hoà do các yếu tố ngoài tim
Gồm: cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch
2.1 Điều hoà bằng cơ chế thần kinh
a/ Điều hoà bằng các dây thần kinh
Điều hoà bằng dây thần kinh giao cảm:
Dây này xuất phát từ sừng xám của tuỷ sống chạy đến hạch cổ dưới và hạch sao rồi đi đến tim (nút xoang, nút nhĩ thất, bó Hiss) kích thích sợi giao cảm gây tác dụng ngược lại với dây thần kinh số X (dây thần kinh phế vị) làm cho tim đập nhanh, mạnh, tăng tính hưng phấn, tăng tốc độ dẫn truyền và tăng trương lực cơ tim.
- Điều hoà bằng dây thần kinh phó giao cảm:
Trung tâm phó giao cảm ở hành tuỷ, từ đó xuất phát dây thần kinh X. Sợi trước hạch dây X tới hạch phó giao cảm nằm ngay trong cơ tâm nhĩ, các sợi sau hạch tới nút nhĩ thất. Kích thích dây thần kinh số X làm tim đập chậm và yếu, giảm tốc độ dẫn truyền và tính hưng phấn.
b/ Điều hoà bằng các phản xạ với các hoạt động của tim
- Phản xạ gốc tim (px tăng áp): các thụ cảm thể về áp lực được phân bố trong tâm nhĩ (giữa 2 lỗ của tĩnh mạch chủ trên và dưới) sẽ bị kích thích khi máu trong tâm nhĩ tăng lên phát ra xung động sẽ theo các sợi thần kinh hướng tâm truyền về tuỷ sống và lên hành tuỷ làm cơ tim trương lực trung khu dây thần kinh X và dây thần kinh giao cảm, gây ra các phản xạ làm tăng co bóp của tim.
- Phản xạ qua các thụ cảm thể áp lực (phản xạ hạ áp): được thực hiện ở quai động mạch chủ và xoang động mạch cảnh.
+ Khi áp lực tăng lên ở quai động mạch chủ, các thụ cảm sẽ bị kích thích sinh ra xung động truyền theo dây thần kinh Cyon về hành tuỷ (đến gần hành tuỷ sẽ nhập với dây X) kích thích trung khu giảm áp, làm cho tim đập chậm và giảm huyết áp.
+ Khi áp lực trong xoang động mạch cảnh tăng lên, các thụ cảm thể bị kích thích sinh ra xung động và được truyền về dây thần kinh Hering (tới hành tuỷ nhập với dây IX) kích thích trung khu giảm áp làm giảm sự co bóp của tim và giảm huyết áp.
+ Phản xạ qua các thụ cảm thể hóa học:
Ở vùng động mạch chủ và xoang động mạch chủ có các thụ cảm thể hoá học rất nhạy cảm với sự thay đổi nồng độ của khí O2 và CO2 trong máu. Khi nồng độ khí O2 giảm hoặc nồng độ khí CO2 trong máu tăng lên sẽ kích thích các thụ cảm thể hoá học, xung động sinh ra sẽ được truyền về hành tuỷ gây ra các phản xạ làm tăng cường hoạt động của tim.
+ Phản xạ Goltz: sẽ phát sinh ra khi kích thích cơ học vào vùng thượng vị hay co kéo các tạng ở vùng bụng. Tác động này có tác dụng hoạt hoá đám rối thái dương sinh ra xung động truyền về hành tuỷ kích thích dây thần kinh số X làm cho tim đập chậm lại hoặc ngừng đập.
+ Phản xạ mắt tim: phát sinh khi ta dùng ngón tay tác động lên nhãn cầu kích thích dây thần kinh số V phát sinh xung động truyền về hành tuỷ hoạt hóa dây thần kinh X làm cho tim đập chậm lại.
2.2 Điều hoà bằng cơ chế thể dịch
Điều hoà bằng cơ chế thể dịch nhờ các chất sau đây:
Ảnh hưởng của hoocmon các tuyến nội tiết:
+ Hoocmon Adrenalin và Noandrenalin do tuyến thượng thận tiết ra làm tim đập nhanh, mạnh hơn, tăng huyết áp. Vì vậy Adrenalin thường được dùng làm thuốc trợ tim.
+ Hoocmon Thyroxin do tuyến giáp trạng tiết ra có tác dụng làm tim đập nhanh, gây co mạch, tăng huyết áp. Tim đập nhanh liên tục có thể bị suy tim.
+ Hoocmon Glucagon của tuyến tụy nội tiết tiết ra làm cho tim đập nhanh.
- Xinap của thần kinh giao cảm tiết ra Sympatin có tác dụng làm tim đập nhanh.
Nồng độ O2 và CO2 trong máu: nồng độ O2 trong máu giảm và nồng độ CO2 tăng làm tim đập nhanh, ngược lại thì tim đập chậm.
- Nồng độ của các ion:
+ Nồng độ Ca2+ trong máu cao làm tim đập nhanh, mạnh và tăng khả năng dẫn truyền hưng phấn, tăng trương lực cơ tim.
+ Nồng độ K+ trong máu cao sẽ ức chế hoạt động của tim trên mọi phương diện như: tần số, lực co, hưng tính giảm. Do đó thiếu hay thừa K trong máu cũng đều gây nguy hiểm cho hoạt động của tim.
- Khi pH trong máu giảm làm tim đập nhanh.
- Nhiệt độ môi trường tăng làm tim đập nhanh.
Tại sao tim hoạt động suốt đời mà không mỏi ?
Tim hoạt động như một cái bơm: Hút máu từ các tĩnh mạch về hai tâm nhĩ, đẩy máu từ hai tâm thất vào động mạch chủ và động mạch phổi. Đem máu đến các tế bào để cung cấp các chất dinh dưỡng đồng thời nhận chất thừa đào thải ra ngoài.
Ngay từ ngày thứ 18 khi phôi thai hình thành đã xuất hiện một mầm tim và bắt đầu đập. Rồi cứ thế tiếp tục đập mãi cho đến khi ta chết.
Tim làm việc không biết mỏi, lúc người ta đang là phôi ở tuần thứ 3 cứ mỗi giây tim đã co bóp một lần. Đến khi trẻ sinh ra mạch đập của tim nhanh hơn, đến 140 lần co bóp trong một phút, đây là giai đoạn tim co bóp cao nhất, về sau số lần co bóp thưa dần đến khi người trưởng thành mọi sinh lý bình thường thì tần số mạch đập của tim trung bình là 76 lần trong một phút. Khi lao động nặng số lần co bóp có thể tăng gấp 2 lần rưỡi. Qua tính toán nhận thấy người sống 100 tuổi số lần tim co bóp gần 5 tỷ lần.
Khi nghe đến con số trên, chúng ta lại càng ngạc nhiên rằng tim làm việc liên tục thế thì làm sao mà tồn tại được. Đúng vậy, tim không một phút ngừng đập, vì tim mà ngừng đập thì sự sống của con người không còn nữa. Nhưng ngộ nhận là tim làm việc liên tục mà không nghỉ ngơi là không đúng.
Điểm qua về chu kỳ của tim ta sẽ thấy:
Tim bắt đầu co tâm nhĩ, cùng thời gian này thì tâm thất nghỉ ngơi. Khi tâm thất co thì tâm nhĩ lại nghỉ, tâm nhĩ co mất 0,1 giây và mỗi lần co lại nghỉ 0,7 giây. Trong một ngày đêm (24 giờ) tâm nhĩ co bóp mất 3,5-4 giờ và nghỉ gần 20 giờ.
Tâm thất làm việc từ 0,3 giây và nghỉ 0,5 giây. Như vậy trong một ngày đêm tâm thất co bóp 8,5-10,5 giờ và nghỉ 13,5-15,5 giờ.
Như vậy, rõ ràng là tim làm việc nhưng vẫn thu xếp để nghỉ hợp lý và nhờ có sự nghỉ ngơi này nên tim mới có thể làm việc mà không biết mệt mỏi chứ không thì nghỉ làm luôn!
Với cấu trúc theo kiểu hợp bào đặc biệt (tức là giữa các tế bào cơ tim có cầu nguyên sinh chất nối giữa các sợi với nhau), toàn bộ quả tim gồm 2 hợp bào: hợp bào thất và hợp bào nhĩ.
Không co cứng như cơ vân, cơ tim chỉ co bóp đơn cùng với nguyên tắc hoạt động “không hoặc tất cả” đã giúp cho cơ tim luôn luôn hoạt động một cách nhịp nhàng, bền bỉ và kéo dài.
Chúc các bạn có một trái tim khoẻ mạnh đồng hành trong suốt 100 năm có dư nhé !
Bài thảo luận nhóm
Thành viên tổ 1:
Vũ Thị Chinh A-
Lê Thị Hồng A
Lê Thị Nhàn A
Cao Viết Xuân
Hồ Thị Hương A-
Hồ Thị Mai A
7. Trịnh Thị Thành A
8. Ngô Thị Trang A
9. Vi Văn Anh B
10. Khương Thị Hằng A
11. Nguyễn Văn Trường A-
Nội dung thảo luận
Chu kì hoạt động của tim
Cơ chế điều hòa hoạt động của tim
Giải thích tại sao tim hoạt động suốt đời mà không mỏi
Vấn đề 1: Chu kì hoạt động của tim
1. Chu kì hoạt động của tim
- Là hoạt động của tim gồm nhiều giai đoạn lặp đi lặp lại đều đặn nhịp nhàng, theo một trật tự nhất định.
Khi tim co gọi là tâm thu, khi tim giãn gọi là tâm trương.
Trong điều kiện sinh lý bình thường, một người trưởng thành có tần số co bóp khoảng 70 – 75 lần/phút, thời gian của một chu kì tim thường là 0,8 giây.
Ở trẻ em có nhịp tim khoảng 120 – 140 lần/phút, nhịp tim giảm dần theo sự phát triển của cơ thể. Ở nữ giới có nhịp tim nhanh hơn nam giới khoảng 5 – 10 nhịp/phút.
Thời gian trong một chu kì tim như sau:
+ Tâm nhĩ co: 0,1 giây
+ Tâm nhĩ giãn: 0,7 giây.
+ Tâm thất co: 0,3 giây.
+ Tâm thất giãn: 0,5 giây.
+ Tim nghỉ ngơi: 0,4 giây.
Các giai đoạn chính của một chu kì tim:
Hình 1- Chu kì hoạt động của tim
1.1. Giai đoạn tâm nhĩ thu:
- Giai đoạn này kéo dài 0,1 giây.
- Khi tâm nhĩ co bóp thì áp suất trong tâm nhĩ sẽ tăng lên. Lúc này van nhĩ thất đang mở, tâm nhĩ co bóp đẩy nốt lượng máu còn lại xuống tâm thất (khoảng 1/4 lượng máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất) và làm cho áp suất ở tâm thất tăng lên. Sau đó tâm nhĩ giãn ra trong suốt thời gian còn lại của chu kì tim.
Tâm nhĩ thu là kết quả của sự lan truyền sóng điện thế dẫn nhịp từ hạch xoang ra toàn bộ hai tâm nhĩ phải, trái.
1.2. Giai đoạn tâm thất thu:
- Khi tâm nhĩ giãn ra, tâm thất bắt đầu co bóp, quá trình này kéo dài 0,3 giây. Gồm 2 giai đoạn chính:
- Giai đọan tăng áp suất: kéo dài khoảng 0,05giây, tâm thất co bóp làm cho áp suất tăng lên cao hơn áp suất của tâm nhĩ, van nhĩ thất đóng lại, nhưng áp suất vẫn chưa đủ để mở van bán nguyệt. Tâm thất co nhưng thể tích không thay đổi gọi là co đẳng tích.
Giai đoạn tống máu nhanh: kéo dài khoảng 0,25 giây. Ở giai đoạn này áp suất ở tâm thất lớn hơn hẳn so với áp suất ở động mạch chủ, làm cho van bán nguyệt mở ra, máu được đẩy vào động mạch chủ. Tâm thất vẫn co bóp, thể tích máu của tâm thất giảm xuống nhưng áp suất của tâm thất vẫn cao để tống hết máu vào động mạch.
1.3 Giai đoạn tâm trương toàn bộ:
Sau khi đẩy hết máu vào động mạch, tâm thất giãn ra, áp suất giảm xuống thấp hơn áp suất trong động mạch chủ làm van bán nguyệt đóng lại. Tâm thất giãn nhưng thể tích vẫn không thay đổi (gọi là giãn đẳng tích), van nhĩ thất mở. Giai đoạn này kéo dài 0,4 giây, sau đó tâm thất tiếp tục giãn thêm 0,1 giây.
2. Một số biểu hiện bên ngoài của chu kì tim
2.1. Tiếng tim:
Là loại âm thanh được phát ra khi tim hoạt động, gồm hai tiếng tâm thu và tâm trương
Tiếng tâm thu:
+ Xuất hiện ở giai đoạn đầu của của giai đoạn tâm thu do van hai lá và van ba lá đóng cùng một lúc.
+ Mạnh, trầm, kèo dài ( khoảng 0,08 – 0,12 giây) và nghe rõ nhất ở vùng mỏm tim.
Tiếng tâm trương:
+ Xuất hiện ở giai đoạn đầu của giai đoạn tâm trương do van động mạch chủ và van động mạch phổi đóng cùng một lúc.
+ Nhẹ, thanh, ngắn (0,05 – 0,08 giây) và nghe rõ nhất ở khoảng gian sườn II cách bờ phải và trái của xương ức khoảng 1cm. Nghe tiếng tim có ý nghĩa sinh lý trong việc chuẩn đoán lâm sàng.
2.2. Điện tim.
Cũng như các loại tế bào khác trong cơ thể, tế bào cơ tim có điện thế nghỉ và điện thế hoạt động.Tổng các điện thế hoạt động của các tế bào cơ tim đã tạo ra điện tim. Đường ghi của điện tim được gọi là điện tâm đồ.
- Dòng điện tim được lan truyền ra khắp cơ thể và có thể ghi được bằng máy điện tim.
Điện tim là một chỉ tiêu sinh lý quan trọng trong việc tìm hiểu các chức năng sinh lý của cơ tim và cả quả tim, đặc biệt là chỉ tiêu sinh lý có liên quan đến các bệnh về tim.
Điện tâm đồ của một chu kì tim đập gồm 5 sóng và được kí hiệu bằng các chữ cái P, Q, R, S, T theo quy luật như sau:
- Khi hưng phấn bắt đầu, đã có sự chênh lệch về điện thế giữa vùng yên tĩnh và vùng hưng phấn nên sóng có đoạn đi lên.
Khi hưng phấn được lan tỏa thì sự chênh lệch về điện thế đã giảm xuống, sóng đi xuống.
Khi toàn bộ tâm nhĩ hoặc tâm thất hưng phấn thì không còn có sự chênh lệch về điện thế nên sóng nằm ngang
Điện tâm đồ
Phân tích các sóng như sau:
1/ Sóng P phản ánh quá trình hưng phấn của tâm nhĩ trước khi tâm nhĩ co.
Tâm nhĩ phải nằm gần hạch Keith – Flack hơn nên đã hưng phấn trước và tích điện âm còn tâm nhĩ trái đang yên tĩnh và tích điện dương, do đó đã có sự chênh lệch điện thế =>Sóng P có đoạn đi lên.
Sau đó sóng hưng phấn lan truyền sang tâm nhĩ trái nên sự chênh lệch điện thế giảm dần => Sóng P có đoạn đi xuống.
Khi không còn sự chênh lệch về điện thế => Sóng P có đoạn nằm ngang và kết thúc.
2- Đoạn P-Q: biểu thị hưng phấn được truyền từ tâm nhĩ sang tâm thất.
3- Sóng Q: biểu thị tâm thất bắt đầu hưng phấn, thời gian 0,03 giây.
4- Nhóm sóng QRS: biểu thị trạng thái hưng phấn của tâm thất trước lúc tâm thất co. Nhóm sóng này dốc là vì hưng phấn được truyền nhanh trong tâm thất với thời gian là 0,07 giây.
5- Đoạn S-T nằm ngang biểu thị toàn bộ tâm thất đã hưng phấn nên không còn sự chênh lệch về điện thế. Sóng T biểu thị sự khôi phục tính hưng phấn trong tâm thất.
Điện tâm đồ ở người
Vấn đề 2: Cơ chế điều hoà hoạt động của tim
Điều hoà hoạt động của tim được thực hiện theo 2 cơ chế chủ yếu:
- Cơ chế tự điều hoà lực co bóp của cơ tim theo lượng máu về tim (hiện tượng Frank-Starling).
- Cơ chế điều hoà do các yếu tố ngoài tim (cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch).
1. Cơ chế tự điều hoà theo Frank-starling
Lượng máu từ các tĩnh mạch ngoại vi khi trở về tim là yếu tố đã làm thay đổi lực co bóp của tâm thất, sao cho máu của tĩnh mạch đã về được bao nhiêu, thì tâm thất sẽ đẩy máu ra động mạch được bấy nhiêu. Tim thực hiện được là do lượng máu đổ về tâm thất đã làm cho cơ tim giãn ra, các sợi cơ tim càng bị kéo dài, thì chúng càng co lại nhanh hơn. Đó là hiện tượng Frank-starling. Như vậy sự tự điều hoà các hoạt động của tim là sự thay đổi độ co, giãn của các sợi cơ tim ở tâm thất và vách tâm nhĩ dưới ảnh hưởng của lượng máu đã chảy về tim.
2. Cơ chế điều hoà do các yếu tố ngoài tim
Gồm: cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch
2.1 Điều hoà bằng cơ chế thần kinh
a/ Điều hoà bằng các dây thần kinh
Điều hoà bằng dây thần kinh giao cảm:
Dây này xuất phát từ sừng xám của tuỷ sống chạy đến hạch cổ dưới và hạch sao rồi đi đến tim (nút xoang, nút nhĩ thất, bó Hiss) kích thích sợi giao cảm gây tác dụng ngược lại với dây thần kinh số X (dây thần kinh phế vị) làm cho tim đập nhanh, mạnh, tăng tính hưng phấn, tăng tốc độ dẫn truyền và tăng trương lực cơ tim.
- Điều hoà bằng dây thần kinh phó giao cảm:
Trung tâm phó giao cảm ở hành tuỷ, từ đó xuất phát dây thần kinh X. Sợi trước hạch dây X tới hạch phó giao cảm nằm ngay trong cơ tâm nhĩ, các sợi sau hạch tới nút nhĩ thất. Kích thích dây thần kinh số X làm tim đập chậm và yếu, giảm tốc độ dẫn truyền và tính hưng phấn.
b/ Điều hoà bằng các phản xạ với các hoạt động của tim
- Phản xạ gốc tim (px tăng áp): các thụ cảm thể về áp lực được phân bố trong tâm nhĩ (giữa 2 lỗ của tĩnh mạch chủ trên và dưới) sẽ bị kích thích khi máu trong tâm nhĩ tăng lên phát ra xung động sẽ theo các sợi thần kinh hướng tâm truyền về tuỷ sống và lên hành tuỷ làm cơ tim trương lực trung khu dây thần kinh X và dây thần kinh giao cảm, gây ra các phản xạ làm tăng co bóp của tim.
- Phản xạ qua các thụ cảm thể áp lực (phản xạ hạ áp): được thực hiện ở quai động mạch chủ và xoang động mạch cảnh.
+ Khi áp lực tăng lên ở quai động mạch chủ, các thụ cảm sẽ bị kích thích sinh ra xung động truyền theo dây thần kinh Cyon về hành tuỷ (đến gần hành tuỷ sẽ nhập với dây X) kích thích trung khu giảm áp, làm cho tim đập chậm và giảm huyết áp.
+ Khi áp lực trong xoang động mạch cảnh tăng lên, các thụ cảm thể bị kích thích sinh ra xung động và được truyền về dây thần kinh Hering (tới hành tuỷ nhập với dây IX) kích thích trung khu giảm áp làm giảm sự co bóp của tim và giảm huyết áp.
+ Phản xạ qua các thụ cảm thể hóa học:
Ở vùng động mạch chủ và xoang động mạch chủ có các thụ cảm thể hoá học rất nhạy cảm với sự thay đổi nồng độ của khí O2 và CO2 trong máu. Khi nồng độ khí O2 giảm hoặc nồng độ khí CO2 trong máu tăng lên sẽ kích thích các thụ cảm thể hoá học, xung động sinh ra sẽ được truyền về hành tuỷ gây ra các phản xạ làm tăng cường hoạt động của tim.
+ Phản xạ Goltz: sẽ phát sinh ra khi kích thích cơ học vào vùng thượng vị hay co kéo các tạng ở vùng bụng. Tác động này có tác dụng hoạt hoá đám rối thái dương sinh ra xung động truyền về hành tuỷ kích thích dây thần kinh số X làm cho tim đập chậm lại hoặc ngừng đập.
+ Phản xạ mắt tim: phát sinh khi ta dùng ngón tay tác động lên nhãn cầu kích thích dây thần kinh số V phát sinh xung động truyền về hành tuỷ hoạt hóa dây thần kinh X làm cho tim đập chậm lại.
2.2 Điều hoà bằng cơ chế thể dịch
Điều hoà bằng cơ chế thể dịch nhờ các chất sau đây:
Ảnh hưởng của hoocmon các tuyến nội tiết:
+ Hoocmon Adrenalin và Noandrenalin do tuyến thượng thận tiết ra làm tim đập nhanh, mạnh hơn, tăng huyết áp. Vì vậy Adrenalin thường được dùng làm thuốc trợ tim.
+ Hoocmon Thyroxin do tuyến giáp trạng tiết ra có tác dụng làm tim đập nhanh, gây co mạch, tăng huyết áp. Tim đập nhanh liên tục có thể bị suy tim.
+ Hoocmon Glucagon của tuyến tụy nội tiết tiết ra làm cho tim đập nhanh.
- Xinap của thần kinh giao cảm tiết ra Sympatin có tác dụng làm tim đập nhanh.
Nồng độ O2 và CO2 trong máu: nồng độ O2 trong máu giảm và nồng độ CO2 tăng làm tim đập nhanh, ngược lại thì tim đập chậm.
- Nồng độ của các ion:
+ Nồng độ Ca2+ trong máu cao làm tim đập nhanh, mạnh và tăng khả năng dẫn truyền hưng phấn, tăng trương lực cơ tim.
+ Nồng độ K+ trong máu cao sẽ ức chế hoạt động của tim trên mọi phương diện như: tần số, lực co, hưng tính giảm. Do đó thiếu hay thừa K trong máu cũng đều gây nguy hiểm cho hoạt động của tim.
- Khi pH trong máu giảm làm tim đập nhanh.
- Nhiệt độ môi trường tăng làm tim đập nhanh.
Tại sao tim hoạt động suốt đời mà không mỏi ?
Tim hoạt động như một cái bơm: Hút máu từ các tĩnh mạch về hai tâm nhĩ, đẩy máu từ hai tâm thất vào động mạch chủ và động mạch phổi. Đem máu đến các tế bào để cung cấp các chất dinh dưỡng đồng thời nhận chất thừa đào thải ra ngoài.
Ngay từ ngày thứ 18 khi phôi thai hình thành đã xuất hiện một mầm tim và bắt đầu đập. Rồi cứ thế tiếp tục đập mãi cho đến khi ta chết.
Tim làm việc không biết mỏi, lúc người ta đang là phôi ở tuần thứ 3 cứ mỗi giây tim đã co bóp một lần. Đến khi trẻ sinh ra mạch đập của tim nhanh hơn, đến 140 lần co bóp trong một phút, đây là giai đoạn tim co bóp cao nhất, về sau số lần co bóp thưa dần đến khi người trưởng thành mọi sinh lý bình thường thì tần số mạch đập của tim trung bình là 76 lần trong một phút. Khi lao động nặng số lần co bóp có thể tăng gấp 2 lần rưỡi. Qua tính toán nhận thấy người sống 100 tuổi số lần tim co bóp gần 5 tỷ lần.
Khi nghe đến con số trên, chúng ta lại càng ngạc nhiên rằng tim làm việc liên tục thế thì làm sao mà tồn tại được. Đúng vậy, tim không một phút ngừng đập, vì tim mà ngừng đập thì sự sống của con người không còn nữa. Nhưng ngộ nhận là tim làm việc liên tục mà không nghỉ ngơi là không đúng.
Điểm qua về chu kỳ của tim ta sẽ thấy:
Tim bắt đầu co tâm nhĩ, cùng thời gian này thì tâm thất nghỉ ngơi. Khi tâm thất co thì tâm nhĩ lại nghỉ, tâm nhĩ co mất 0,1 giây và mỗi lần co lại nghỉ 0,7 giây. Trong một ngày đêm (24 giờ) tâm nhĩ co bóp mất 3,5-4 giờ và nghỉ gần 20 giờ.
Tâm thất làm việc từ 0,3 giây và nghỉ 0,5 giây. Như vậy trong một ngày đêm tâm thất co bóp 8,5-10,5 giờ và nghỉ 13,5-15,5 giờ.
Như vậy, rõ ràng là tim làm việc nhưng vẫn thu xếp để nghỉ hợp lý và nhờ có sự nghỉ ngơi này nên tim mới có thể làm việc mà không biết mệt mỏi chứ không thì nghỉ làm luôn!
Với cấu trúc theo kiểu hợp bào đặc biệt (tức là giữa các tế bào cơ tim có cầu nguyên sinh chất nối giữa các sợi với nhau), toàn bộ quả tim gồm 2 hợp bào: hợp bào thất và hợp bào nhĩ.
Không co cứng như cơ vân, cơ tim chỉ co bóp đơn cùng với nguyên tắc hoạt động “không hoặc tất cả” đã giúp cho cơ tim luôn luôn hoạt động một cách nhịp nhàng, bền bỉ và kéo dài.
Chúc các bạn có một trái tim khoẻ mạnh đồng hành trong suốt 100 năm có dư nhé !
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Khương Thị Hằng
Dung lượng: |
Lượt tài: 2
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)