Cay canh va hoa canh
Chia sẻ bởi Mai Dinh Phuc |
Ngày 09/05/2019 |
47
Chia sẻ tài liệu: cay canh va hoa canh thuộc Sinh học 11
Nội dung tài liệu:
Bài thuyết trình:
Cây và hoa cảnh
Thực hiện: MAI ĐÌNH PHÚC
Nội dung:
Bông xanh
Ngà voi
Cúc vạn thọ
Hoa phấn
Liễu tường hoa đỏ
Phượng vĩ tím
Bông xanh
Cây bông xanh có tên khoa học là Petrea volubilis
Một số tên tiếng Anh khác của hoa này là hoa Chim Xanh, hoa Giấy Nhám.
Là một loài cây leo hay sống dựa, cành nhánh nhiều, dài mềm và cong xuống. Cây có thể leo cao đến 6 - 7 m. Cây dễ trồng, cho hoa nở gần như quanh năm.
Hoa Bông Xanh có phần xanh nhiều hơn phần đỏ, pha trộn lại có màu lam tím, không phải màu xanh.
Chùm hoa dài, hoa nở dần nên chùm hoa lâu tàn. Hoa có năm cánh tròn màu lam tím. Đài hoa rất đẹp, có 5 cánh hẹp dài, màu nhạt hơn. Cây có thể trồng bằng hạt hay giâm cành. Có một ít cây này hiện được trồng tại Đà Lạt.
Ngà voi (hay còn gọi là cây nanh heo)
Cây có lá tạo thành thân tròn, thân nhọn đâu như ngà voi hay nanh heo rừng, trên thân lá cũng có vằn ngang thưa hay mau tùy trồng ở nơi ít hay nhiều nắng. Trồng vào chậu hoặc bồn. Nhân giống bằng tách thân từ gốc hay cắm một đoạn thân.
Cúc vạn thọ
Cúc vạn thọ - Tagetes erecta L., thuộc họ cúc - Asteraceae. Cây thảo mọc đứng cao 0,6 - 1 m, phân nhánh thành bụi. Lá xẻ sâu hình lông chim, các thùy hẹp, dài nhọn, khía răng cưa. Cụm hoa đầu rộng 3 - 4 cm, mọc đơn độc hay tụ hợp thành ngù; lá bắc của bao chung liền với nhau. Hoa màu vàng hay vàng cam, các hoa ở phía ngoài hình lưỡi nhỏ xòe ra, các hoa ở phía trong hình ống và nhỏ. Quả bế có 1 - 2 vảy ngắn.
Cúc vạn thọ có nguồn gốc từ nước ngoài, được nhập trồng làm cây cảnh từ lâu và đã thuần hóa ở những nơi có khí hậu nóng, ẩm và sáng. Trồng bằng mầm nách hoặc bằng cách gieo hạt. Cây ra hoa vào mùa đông cho tới mùa hè.
Cúc vạn thọ nở hoa vào dịp Tết nên thường được trồng trong chậu để trang trí trong nhà và bày trên bàn thờ cúng tổ tiên.
Người ta đã biết thành phần hóa học của hoa, lá, thân của cúc vạn thọ. Hoa chứa nhiều sắc tố, các flavonoid và flavonoid-glucosid, tinh dầu dễ bay hơi mà thành phần chính là d-limonen.
Người ta thường dùng hoa cúc vạn thọ chữa bệnh đường hô hấp, đau mắt (viêm kết mạc), ho gà, viêm khí quản, viêm miệng, viêm hầu, đau răng. Hoa giã tươi nghiền với giấm hoặc lá, rễ giã đắp chữa các bệnh ngoài da.
Ở Campuchia, người ta dùng lá non cúc vạn thọ làm rau ăn sống hoặc nấu canh.
Ở Mexico, người dân dùng hoa cúc vạn thọ làm nguyên liệu chiết carotenoid để nuôi tôm, nuôi cá hồi để tạo màu cho tôm, cho thịt cá. Trong công nghiệp thực phẩm, hoa cúc vạn thọ được dùng làm thực phẩm cho gà mái đẻ, trứng gà có vỏ màu vàng khá đẹp và lòng đỏ có màu vàng tươi rất hấp dẫn.
Hoa phấn
Bông phấn, hoa phấn danh pháp khoa học: Mirabilis jalapa là một loại thực vật thân thảo trồng làm cây kiểng. Cây này xuất phát từ Peru, Nam Mỹ.
Cây hoa phấn còn có tên là sâm ớt, bông phấn, ngân chi hoa đầu, hoa căn, dã phù lỵ, phấn đậu hoa, thủy phấn tử hoa.
Bông phấn có điểm lạ là một cây có thể nở hoa nhiều sắc. Hơn nữa hoa có thể đổi sắc. Ví dụ những cây bông phấn hoa vàng, khi cây đã có tuổi thì thường nở hoa sắc hồng. Loại bông phấn hoa trắng thì sẽ đổi thành hoa tím.
Hoa bông phấn có mùi thơm nhẹ, thường nở vào buổi chiều (nên mới có tên là bông bốn giờ).
Cây bông phấn có thể mọc cao đến 1 m. Mỗi hoa bông phấn kết trái thành một hột tròn, vỏ sần sùi, khi chín thì biến thành màu đen. Hột rụng xuống rất dễ nảy mầm, mọc thành cây con nên bông phấn không khéo kiểm soát có thể mọc lan khắp vườn.
Bản địa của bông phấn là châu Nam Mỹ nhưng cây này nay có mặt khắp miền nhiệt đới và lan cả lên những vùng ôn đới. Ở những nơi có khí hậu ấm, bông phấn mọc quanh năm. Vùng có sương giá thì cây sẽ tàn vào mùa đông nhưng sang xuân lại đâm chồi mọc lại từ củ.
Liễu tường hoa đỏ
Liễu tường hoa đỏ, Russelia equisetiformis. Tên tiếng Anh, : Coral plant, Coral fountain. Tên Khoa Học, : Russelia equisetiformis ...
Họ: Scrophulariaceae (họ hoa mõm sói)
Nguồn gốc xuất xứ: Mexico
Phân bố ở Việt Nam: Rộng khắp cả nước
Đặc điểm hình thái:
Thân, Tán, Lá: Cây bụi nhỏ, thưa, chỉ có lá ở phần non, còn toàn bộ thân như bộ xương khô, khẳng khiu và cong dài. Lá nhỏ bé, hẹp, mọc tập trung 5 - 8 chiếc ở mỗi đốt phía gốc còn ở đỉnh lá rộng hơn và mọc đối.
Hoa, Quả, Hạt: Cụm hoa chùm thưa, mang hoa cũng rũ xuống, có cuống nhỏ, mảnh và cánh tràng hợp thành ống, hẹp, dài 2cm, màu đỏ chói, trên chia thuỳ nhỏ. Quả nang mở 4 mảnh.
Đặc điểm sinh lý, sinh thái:
Tốc độ sinh trưởng: Trung bình.
Phù hợp với: Cây ưa sáng, đất giàu mùn, thoát nước tốt. Nhân giống từ giâm cành hoặc nuôi cấy mô từ rễ.
Phượng vĩ tím
Phượng tím thuộc họ hoa chuông Bignoniaceae, có tên khoa học là Jacaranda obtusifolia.
Phượng vĩ có nguồn gốc từ Madagascar, tại đó người ta tìm thấy nó trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy. Trong điều kiện hoang dã, nó là loài đang nguy cấp, nhưng nó được con người trồng ở rất nhiều nơi. Ngoài giá trị là cây cảnh, nó còn có tác dụng như một loài cây tạo bóng râm trong điều kiện nhiệt đới, do thông thường nó có thể cao tới một độ cao vừa phải (khoảng 5 m, mặc dù đôi khi có thể cao tới 12 m) nhưng có tán lá tỏa rộng và các tán lá dày dặc của nó tạo ra những bóng mát. Trong những khu vực với mùa khô rõ nét thì nó rụng lá trong thời kỳ khô hạn, nhưng ở những khu vực khác thì nó là loài cây thường xanh
Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5 cm; tuy nhiên, các hạt riêng rẽ lại nhỏ và cân nặng trung bình chỉ khoảng 0,4 g, hạt to cỡ hai ngón tay út, hạt ăn rất bùi và ngon. Các lá phức có bề ngoài giống như lông chim và có màu lục sáng, nhạt đặc trưng. Nó là loại lá phức lông chim kép: Mỗi lá dài khoảng 30-50 cm và có từ 20 đến 40 cặp lá chét sơ cấp hay lá chét lông chim lớn, và mỗi lá chét lông chim lớn lại được chia tiếp thành 10-20 cặp lá chét thứ cấp hay lá chét con. Phượng vĩ cần khí hậu nhiệt đới hay cận nhiệt đới để phát triển tốt, nhưng nó có thể chịu được các điều kiện khô hạn và đất mặn.
Cây tái sinh hạt và chồi đều mạnh, có thể phát triển tốt trên mọi loại địa hình: ven biển, đồi núi, trung du. Cây thuộc loại ưa sáng, mọc khoẻ, phát triển nhanh, không kén đất, rất dễ gây trồng. Tuy nhiên, nhược điểm lớn là tuổi thọ không cao: cây trồng trên đường phố chỉ 30 tuổi là đã già cỗi, thân có dấu hiệu mục rỗng. Sâu bệnh, nấm bắt đầu tấn công, cây trồng trong công viên, trường học có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 40-50 năm tuổi.
Cây và hoa cảnh
Thực hiện: MAI ĐÌNH PHÚC
Nội dung:
Bông xanh
Ngà voi
Cúc vạn thọ
Hoa phấn
Liễu tường hoa đỏ
Phượng vĩ tím
Bông xanh
Cây bông xanh có tên khoa học là Petrea volubilis
Một số tên tiếng Anh khác của hoa này là hoa Chim Xanh, hoa Giấy Nhám.
Là một loài cây leo hay sống dựa, cành nhánh nhiều, dài mềm và cong xuống. Cây có thể leo cao đến 6 - 7 m. Cây dễ trồng, cho hoa nở gần như quanh năm.
Hoa Bông Xanh có phần xanh nhiều hơn phần đỏ, pha trộn lại có màu lam tím, không phải màu xanh.
Chùm hoa dài, hoa nở dần nên chùm hoa lâu tàn. Hoa có năm cánh tròn màu lam tím. Đài hoa rất đẹp, có 5 cánh hẹp dài, màu nhạt hơn. Cây có thể trồng bằng hạt hay giâm cành. Có một ít cây này hiện được trồng tại Đà Lạt.
Ngà voi (hay còn gọi là cây nanh heo)
Cây có lá tạo thành thân tròn, thân nhọn đâu như ngà voi hay nanh heo rừng, trên thân lá cũng có vằn ngang thưa hay mau tùy trồng ở nơi ít hay nhiều nắng. Trồng vào chậu hoặc bồn. Nhân giống bằng tách thân từ gốc hay cắm một đoạn thân.
Cúc vạn thọ
Cúc vạn thọ - Tagetes erecta L., thuộc họ cúc - Asteraceae. Cây thảo mọc đứng cao 0,6 - 1 m, phân nhánh thành bụi. Lá xẻ sâu hình lông chim, các thùy hẹp, dài nhọn, khía răng cưa. Cụm hoa đầu rộng 3 - 4 cm, mọc đơn độc hay tụ hợp thành ngù; lá bắc của bao chung liền với nhau. Hoa màu vàng hay vàng cam, các hoa ở phía ngoài hình lưỡi nhỏ xòe ra, các hoa ở phía trong hình ống và nhỏ. Quả bế có 1 - 2 vảy ngắn.
Cúc vạn thọ có nguồn gốc từ nước ngoài, được nhập trồng làm cây cảnh từ lâu và đã thuần hóa ở những nơi có khí hậu nóng, ẩm và sáng. Trồng bằng mầm nách hoặc bằng cách gieo hạt. Cây ra hoa vào mùa đông cho tới mùa hè.
Cúc vạn thọ nở hoa vào dịp Tết nên thường được trồng trong chậu để trang trí trong nhà và bày trên bàn thờ cúng tổ tiên.
Người ta đã biết thành phần hóa học của hoa, lá, thân của cúc vạn thọ. Hoa chứa nhiều sắc tố, các flavonoid và flavonoid-glucosid, tinh dầu dễ bay hơi mà thành phần chính là d-limonen.
Người ta thường dùng hoa cúc vạn thọ chữa bệnh đường hô hấp, đau mắt (viêm kết mạc), ho gà, viêm khí quản, viêm miệng, viêm hầu, đau răng. Hoa giã tươi nghiền với giấm hoặc lá, rễ giã đắp chữa các bệnh ngoài da.
Ở Campuchia, người ta dùng lá non cúc vạn thọ làm rau ăn sống hoặc nấu canh.
Ở Mexico, người dân dùng hoa cúc vạn thọ làm nguyên liệu chiết carotenoid để nuôi tôm, nuôi cá hồi để tạo màu cho tôm, cho thịt cá. Trong công nghiệp thực phẩm, hoa cúc vạn thọ được dùng làm thực phẩm cho gà mái đẻ, trứng gà có vỏ màu vàng khá đẹp và lòng đỏ có màu vàng tươi rất hấp dẫn.
Hoa phấn
Bông phấn, hoa phấn danh pháp khoa học: Mirabilis jalapa là một loại thực vật thân thảo trồng làm cây kiểng. Cây này xuất phát từ Peru, Nam Mỹ.
Cây hoa phấn còn có tên là sâm ớt, bông phấn, ngân chi hoa đầu, hoa căn, dã phù lỵ, phấn đậu hoa, thủy phấn tử hoa.
Bông phấn có điểm lạ là một cây có thể nở hoa nhiều sắc. Hơn nữa hoa có thể đổi sắc. Ví dụ những cây bông phấn hoa vàng, khi cây đã có tuổi thì thường nở hoa sắc hồng. Loại bông phấn hoa trắng thì sẽ đổi thành hoa tím.
Hoa bông phấn có mùi thơm nhẹ, thường nở vào buổi chiều (nên mới có tên là bông bốn giờ).
Cây bông phấn có thể mọc cao đến 1 m. Mỗi hoa bông phấn kết trái thành một hột tròn, vỏ sần sùi, khi chín thì biến thành màu đen. Hột rụng xuống rất dễ nảy mầm, mọc thành cây con nên bông phấn không khéo kiểm soát có thể mọc lan khắp vườn.
Bản địa của bông phấn là châu Nam Mỹ nhưng cây này nay có mặt khắp miền nhiệt đới và lan cả lên những vùng ôn đới. Ở những nơi có khí hậu ấm, bông phấn mọc quanh năm. Vùng có sương giá thì cây sẽ tàn vào mùa đông nhưng sang xuân lại đâm chồi mọc lại từ củ.
Liễu tường hoa đỏ
Liễu tường hoa đỏ, Russelia equisetiformis. Tên tiếng Anh, : Coral plant, Coral fountain. Tên Khoa Học, : Russelia equisetiformis ...
Họ: Scrophulariaceae (họ hoa mõm sói)
Nguồn gốc xuất xứ: Mexico
Phân bố ở Việt Nam: Rộng khắp cả nước
Đặc điểm hình thái:
Thân, Tán, Lá: Cây bụi nhỏ, thưa, chỉ có lá ở phần non, còn toàn bộ thân như bộ xương khô, khẳng khiu và cong dài. Lá nhỏ bé, hẹp, mọc tập trung 5 - 8 chiếc ở mỗi đốt phía gốc còn ở đỉnh lá rộng hơn và mọc đối.
Hoa, Quả, Hạt: Cụm hoa chùm thưa, mang hoa cũng rũ xuống, có cuống nhỏ, mảnh và cánh tràng hợp thành ống, hẹp, dài 2cm, màu đỏ chói, trên chia thuỳ nhỏ. Quả nang mở 4 mảnh.
Đặc điểm sinh lý, sinh thái:
Tốc độ sinh trưởng: Trung bình.
Phù hợp với: Cây ưa sáng, đất giàu mùn, thoát nước tốt. Nhân giống từ giâm cành hoặc nuôi cấy mô từ rễ.
Phượng vĩ tím
Phượng tím thuộc họ hoa chuông Bignoniaceae, có tên khoa học là Jacaranda obtusifolia.
Phượng vĩ có nguồn gốc từ Madagascar, tại đó người ta tìm thấy nó trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy. Trong điều kiện hoang dã, nó là loài đang nguy cấp, nhưng nó được con người trồng ở rất nhiều nơi. Ngoài giá trị là cây cảnh, nó còn có tác dụng như một loài cây tạo bóng râm trong điều kiện nhiệt đới, do thông thường nó có thể cao tới một độ cao vừa phải (khoảng 5 m, mặc dù đôi khi có thể cao tới 12 m) nhưng có tán lá tỏa rộng và các tán lá dày dặc của nó tạo ra những bóng mát. Trong những khu vực với mùa khô rõ nét thì nó rụng lá trong thời kỳ khô hạn, nhưng ở những khu vực khác thì nó là loài cây thường xanh
Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5 cm; tuy nhiên, các hạt riêng rẽ lại nhỏ và cân nặng trung bình chỉ khoảng 0,4 g, hạt to cỡ hai ngón tay út, hạt ăn rất bùi và ngon. Các lá phức có bề ngoài giống như lông chim và có màu lục sáng, nhạt đặc trưng. Nó là loại lá phức lông chim kép: Mỗi lá dài khoảng 30-50 cm và có từ 20 đến 40 cặp lá chét sơ cấp hay lá chét lông chim lớn, và mỗi lá chét lông chim lớn lại được chia tiếp thành 10-20 cặp lá chét thứ cấp hay lá chét con. Phượng vĩ cần khí hậu nhiệt đới hay cận nhiệt đới để phát triển tốt, nhưng nó có thể chịu được các điều kiện khô hạn và đất mặn.
Cây tái sinh hạt và chồi đều mạnh, có thể phát triển tốt trên mọi loại địa hình: ven biển, đồi núi, trung du. Cây thuộc loại ưa sáng, mọc khoẻ, phát triển nhanh, không kén đất, rất dễ gây trồng. Tuy nhiên, nhược điểm lớn là tuổi thọ không cao: cây trồng trên đường phố chỉ 30 tuổi là đã già cỗi, thân có dấu hiệu mục rỗng. Sâu bệnh, nấm bắt đầu tấn công, cây trồng trong công viên, trường học có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 40-50 năm tuổi.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Mai Dinh Phuc
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)