Cách mạng xã hội Chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học
Chia sẻ bởi Ngô Thế Bình |
Ngày 18/03/2024 |
58
Chia sẻ tài liệu: Cách mạng xã hội Chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học thuộc Giáo dục công dân
Nội dung tài liệu:
Chuyên đề 6:
CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
3. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa, nội dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới là: "Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.1. Khái niệm:
Theo C.Mác và F. Ănghen, giai cấp công nhân có hai thuộc tính cơ bản:
- Về phương thức sản xuất: đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bán sức lao động cho các nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư vì giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất.
Thuộc tính thứ hai này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu: "Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"; "Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy... Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại"
- Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có những thay đổi to lớn: bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự động hoá, với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Song, dù cho trình độ kỹ thuật có thay đổi như thế nào đi nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân vẫn tồn tại như là một giai cấp đặc thù.
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động, được hình thành và phát triển cùng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao;là giai cấp đại biểu lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay,có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo và tổ chức nhân dân lao động các nước tiến hành cách mạng XHCN, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, Cộng sản chủ nghĩa.
- Căn cứ hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân. Còn những người làm công ăn lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo dục, văn hoá, dịch vụ (không liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp)... là những người lao động nói chung, đang được thu hút vào tổ chức công đoàn nghề nghiệp, nhưng không phải là công nhân.
Sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, không còn ở địa vị giai cấp bị bóc lột nữa, mà nó đã trở thành giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động, làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản đã được công hữu hoá. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân có đặc trưng chủ yếu nhất bằng thuộc tính thứ nhất; còn về thuộc tính thứ hai nếu xét toàn bộ giai cấp, thì giai cấp công nhân đã là người làm chủ.
1.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
+ Ph. Ăngghen viết: "Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại".
+ V.I. Lênin cũng chỉ rõ:"Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa"
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên hai nội dung sau:
- Lãnh đạo nhân dân lao động tiến hành cách mạng xã hội xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người
- Xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa- cộng sản chủ nghĩa
Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện sự nghiệp vĩ đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và nhân loại.
2.2. Những đặc điểm Chính trị xã hội của giai cấp công nhân
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó. Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C. Mác, Ph. ăngghen và V.I. Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió.
+ Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề, nhưng xem xét toàn cảnh của sự phát triển xã hội, giai cấp công nhân,lực lượng sản xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có trải qua những bước thăng trầm, quanh co, nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử.
Đúng là ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận không nhỏ trong giai cấp công nhân đã được cải thiện, có thu nhập cao; một bộ phận công nhân ở các nước trên đã có mức sống "trung lưu hóa", song điều đó không có nghĩa là công nhân ở các nước ấy không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể. Một thực tế đã, đang và còn tồn tại ngày càng sâu sắc ở các nước tư bản phát triển, đó là sự bất công, bất bình đẳng và thu nhập càng cách xa giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Dù có cố gắng tìm cách "thích nghi" và mọi biện pháp xoa dịu nhưng giai cấp tư sản không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Thực tế, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn diễn ra ở các nước tư bản chủ nghĩa dưới nhiều hình thức phong phú, với những nội dung khác nhau.
3. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
3.1. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển chính đảng của giai cấp công nhân
Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của nó mới thật sự là một phong trào chính trị. Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó.
Bản thân giai cấp công nhân ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp công nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng. Về số lượng chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả trong "kinh tế tri thức" hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát triển, tinh vi hơn.
+ Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì: từ năm 1900, toàn thế giới có 80 triệu công nhân; đến năm 1990, thế giới đã có hơn 600 triệu công nhân và đến 2010 đã có 950 triệu công nhân...
Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và cao nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là "giai cấp tự nó" (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là "giai cấp vì nó" (tức giai cấp tự giác). Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng sản.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song, để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra đảng cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
3.2. Mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội- giai cấp của Đảng cộng sản là nguồn lực bổ sung lực lượng của Đảng. Đảng cộng sản là bộ phận tham mưu của giai cấp công nhân
Thực tiến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói chung, thực tiến công cuộc xây dựng xã hội mới nói riêng cho thấy, giai cấp công nhân không thể thực hiện được vai trò lịch sử của mình nếu không xây dựng Đảng cộng sản.
- Đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.
1. Khái niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa
2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
3. Mục tiêu, nội dung và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
1. Khái niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản- nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v. để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả quá trình giai cấp công nhân cùng với quần chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tới khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cuộc cách mạng này mới kết thúc.
2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. C. Mác và Ph. ăngghen đã chỉ rõ: "Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội " .
Cách mạng XHCN có nguyên nhân sâu xa từ mẫu thuẫn giữa LLSX mang tính xã hội hoá cao với QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Từ mẫu thuẫn đó nãy sinh tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, khủng hoảng sản xuất thừa, thất nghiệp…Thể hiện trong xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với bị trị.Vì vậy cần phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất XHCN thông qua cuộc cách mạng XHCN.
3. Mục tiêu, nội dung và động lực của cách mạng xã hội chủnghĩa
* Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng dân chủ tư sản với khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái đã tập hợp quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp quí tộc, phong kiến. Nhưng khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, thì mọi quyền tự do, dân chủ của quần chúng nhân dân lao động không được tôn trọng. Tự do trong chế độ tư bản chủ nghĩa là tự do bóc lột của giai cấp tư sản, tự do bán sức lao động của người công nhân; tự do bóc lột của nước giàu với nước nghèo, tự do thống trị của nước lớn với nước nhỏ, v.v..
Giải phóng con người, giải phóng xã hội là mục tiêu của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho nên có thể nói chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người, mà từng bước thực hiện việc giải phóng con người "trên thực tế, biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự do", tạo nên một thể liên hiệp "trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" .
Khi chúng ta nói mục tiêu là cái đích cần đạt tới, do vậy, những mục tiêu khả thi nêu trên từng bước biến thành hiện thực thông qua quá trình lao động nhiệt tình của quần chúng nhân dân lao động, thông qua những biện pháp tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là "xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người... nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân" . Khi mà "xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ"
* Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
"Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số" .
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động ra khỏi tình trạng áp bức bóc lột, do vậy, thu hút được sự tham gia của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực chính trị: đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, bằng lao động sản xuất, bằng cuộc đấu tranh xoá bỏ những cái xấu của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt làm cho xã hội ngày càng phát triển, mức sống của nhân dân ngày càng nâng lên.
Trên lĩnh vực kinh tế: những cuộc cách mạng trước đây về thực chất là cách mạng chính trị. Chúng kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay thế bằng sự thống trị của giai cấp khác. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực chất, là có tính chất kinh tế. Việc giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động mới là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân
Chủ nghĩa xã hội thực hiện phân phối theo lao động, do vậy, năng suất lao động, hiệu quả công tác là thước đo đánh giá sự đóng góp của mỗi người cho xã hội. Năng suất lao động, hiệu suất công tác là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước, ý thức giai cấp, ý thức dân tộc của mỗi người ở trong xã hội.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Trong các xã hội trước đây, giai cấp bóc lột nắm tư liệu sản xuất vật chất, họ cũng nắm luôn công cụ thống trị về mặt tinh thần. Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã là những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, do vậy, cũng là những sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Người lao động là người sáng tạo, làm phong phú thêm những giá trị văn hoá tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là những người hưởng thụ những giá trị văn hoá tinh thần đó.
Nhìn chung, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới, trong đó công cuộc cải cách tạo kết hợp chặt chẽ với công cuộc xây dựng là chủ yếu. Cải tạo đóng vai trò như một phương tiện phục vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội mới, ngược lại, công cuộc xây dựng xã hội mới tạo ra những điều kiện có ý nghĩa quyết định để triển khai công cuộc cải tạo.
1. Tính tất yếu của sự xuất hiện hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa .
2. Các giai đoạn phát triển của hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa .
3. Thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên XHCN
1. Tính tất yếu của sự xuất hiện hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa .
- Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Lịch sử xã hội loài người trải qua các hình thái kinh tế xã hội: cộng xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Sự phát triển của CNTB đã tạo ra những tiền đề vật chất: nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân hiện đại, sự phát triển các mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản: mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản; mâu thuẫn giữa LLSX xã hội hoá ngày càng cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX. Nhu cầu tất yếu của sự thay thế hình thái KTXH TBCN bằng hình thái KTXH- cộng sản chủ nghĩa.
2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa
a. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH xây dựng từng bước từ thấp đến cao trải qua 3 giai đoạn:
Thời kỳ QĐ CNXH CNCS
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ
- Hai hình thức quá độ trực tiếp và gián tiếp.
- Kinh tế nhiều thành phần – xã hội nhiều giai cấp.
- Thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều chặng đường: vì công cuộc xây dựng CNXH là mới mẻ khó khăn phức tạp cần có thời gian và bước đi thích hợp
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ
- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp. Vậy có đúng quy luật không? Quy luật chung của xã hội loài người là phát triển tuần tự từ thấp đến cao qua 5 hình thái kinh tế xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa. Đối với lịch sử mỗi dân tộc do nhân tố khách quan và chủ quan có thể bỏ qua 1 hay 2 hình thái kinh tế xã hội.
- Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là điểm xuất phát về kinh tế xã hội thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, 20 năm bị bao vây, cấm vận (1975 – 1995).
Sau 1954 miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Từ sau 1975 cách mạng dân chủ nhân dân hoàn thành thắng lợi trên phạm vi cả nước thì Đảng ta đã khẳng định: cả nước quá độ đi lên CNXH.
Nước ta quá độ đi lên CNXH là 1 tất yếu vì:
- Phù hợp với lịch sử phát triển của xã hội loài người
Loài người trải qua 5 hình thái KTXH, sự thay thế các hình thái xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, xã hội sau cao hơn xã hội trước. Đồng thời bấc cứ nước nào tiến lên CNXH cũng đều trải qua thời kỳ quá độ nhằm xây dựng những tiền đề vật chất cho sự quá độ đó. Đặc biệt đối với VN tiến lên CNXH trong điều kiện nền sản xuất còn lạc hậu.
- Phù hợp với xu thế của thời đại: xu thế quá độ lên CNXH trên phạm vi thế giới
Trước đây: Về chính trị CNTB khủng hoảng trầm trọng, do phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh, mâu thuẫn giai cấp. Về kinh tế : do cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho các nước tư bản bị suy yếu. Mặc dù CNTB thực hiện nhiều biện pháp thích nghi nhưng mâu thuẫn cơ bản của nó mâu thuẫn giữa tính chất tư nhân và tính chất xã hội của sản xuất vẫn chưa được giải quyết, mà còn gay gắt thêm. Các tiền đề vật chất kinh tế chín mùi cho sự thay thế CNTB bằng xã hội CSCN
- Đặc điểm của cách mạng VN phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trước hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do… đồng thời nó là tiền đề để thực hiện mục tiêu” dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Vì vậy, tiến lên CNXH là sự tiếp bước hợp logic của cuộc CM dân tộc dân chủ, đây là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ được thực hiện triệt để.
Nội dung của thời kỳ quá độ
- Kinh tế: Cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng XHCN tạo sự phát triển cân đối nền kinh tế
- Chính trị xã hội:Cũng cố nhà nước và nền dân chủ XHCN vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội đập tan âm mưu của các thế lực phản động
- Trong lĩnh vực tư tưởng -văn hoá: Khắc phục những tư tưởng- văn hoá ảnh hưởng tiêu cực đến xây dựng CNXH, xây dựng nền văn hoá mới XHCN, tiếp thu tinh hoa của nền văn trên thế giới
- Trong lĩnh vực xã hội: Khắc phục tệ nạn xã hội, sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền, bấc bình đẳng xã hội
1. Cánh mạng tháng mười nga và mô hình Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới.
2. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình CNXH Xô Viết và nguyên nhân của nó
3. Triển vọng của CNXH.
Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
Cách mạng tháng Mười Nga – quá trình tất yếu khách quan của lịch sử
Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
Cách mạng tháng Mười Nga – quá trình tất yếu khách quan của lịch sử
Cách mạng tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của GCCN, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, dưới sự lãnh đạo của GCCN thông qua đội tiên phong là ĐCS Bônsnêvích. Cách mạng tháng Mười dùng bạo lực CM đánh đổ GCTS & PK địa chủ, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng XH hoàn toàn mới – không có tình trạng người bóc lột người.
Cách mạng tháng Mười Nga – quá trình tất yếu khách quan của lịch sử
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười mở ra thời đại mới – thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
"Một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử thế giới. Nhân loại đang vứt bỏ hỡnh thức cuối cùng của chế độ nô lệ, chế độ nô lệ tư bản hay chế độ nô lệ làm thuê. Thoát khỏi được chế độ nô lệ đó, lần đầu tiên nhân loại sẽ bước vào thời kỳ tự do chân chính"
Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
Mô hình CNXH hiện thực đầu tiên trên thế giới
Từ sau Cách mạng tháng Mười đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô là nước XHCN duy nhất.
Điều kiện xây dựng chế độ mới cực kì khó khăn, phức tạp:
KT lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong CTTG I, nội chiến, chiến tranh can thiệp của 14 nước ĐQ, bị bao vây cấm vận KT
1914 – 1921 phải thực hiện chính sách cộng sản thời chiến
3/ 1921 nội chiến kết thúc, ĐH X ĐCS Nga đã đề ra chính sách KT mới (NEP) => Nga nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp KT sau chiến tranh, ngăn chặn nảy sinh tự phát của nền SX nhỏ - mầm mống phục hồi CNTB; thấy sự quan trọng, cần thiết của sự tồn tại CNTB nhà nước dưới điều kiện chuyên chính vô sản.
Mô hình CNXH hiện thực đầu tiên trên thế giới
Sau khi Lenin mất, đường lối đúng đắn này không được quán triêt thực hiện đầy đủ.
Những năm 20 – 30 của XX, triệu chứng 1 cuộc CTTG ngày càng bộc lộ rõ…=> phải nhanh chóng biến Nga thành cường quốc công nghiệp, để xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, xóa nghèo nàn lạc hậu và chuẩn bị đối phó chiến tranh.
Nhà nước Xô Viết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao. Liên Xô thành công rực rỡ.
Sự ra đời của hệ thống XHCN và những thành tựu của nó
Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước XHCN
Sau CTTG II, hệ thống các nước XHCN thế giới ra đời bao gồm: Liên Xô, Cộng hòa DC Đức, Hungari, Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này thêm Cuba)
Sự ra đời của hệ thống XHCN và những thành tựu của nó
Những thành tựu của CNXH hiện thực
Từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ XH, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho tự do DC trên toàn thế giới.
Trong hơn 70 năm xây dựng CNXH, Liên Xô và các nước XHCN đạt được phát triển mạnh mẽ về tiềm lực KT, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH trên quy mô lớn, trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tố hơn đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. (Liên Xô trở thành 1 trong 2 siêu cường TG…)
Với sự lớn mạnh toàn diện, CNXH ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị TG, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc đại của CNĐQ, mở ra kỉ nguyên mới – độc lâp dân tộc và quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
b. Những thành tựu của CNXH hiện thực…
Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình TG.
Ngay tại các nước phương Tây, nhân dân lao động được sức hấp dẫn thực tế của CNXH đã đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, phúc lợi XH… với sức ép của các nước XHCN, các nước phương Tây đã phải nhượng bộ và chấp nhận thực tế rất nhiều yêu sách đó.
CNXH hiện thực trải qua thời kì phát triển rực rỡ, có thành tựu to lớn, phát huy tác dụng mạnh mẽ đến tiến trình phát triển lịch sử loài người.
3. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình CNXH Xô Viết và nguyên nhân của nó
a. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình CNXH Xô Viết
Sau thất bại của Công xã Pari, cuộc khủng hoảng đầu tiên xảy ra – Quốc tế I tan rã. Nhưng từ trong khủng hoảng, sự phát triển lý luận thời kì này phá vỡ bế tắc trong phong trào công nhân => thành lập QT II (1889).
Cuối những năm 60 – XX, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đi vào khủng hoảng. 4/1989 sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở Đông Âu. => 9/1991 chế độ XHCN ở Liên Xô & Đông Âu sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra tương tự ở Mông Cổ, Anbani, Nam Tư.
Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của CNXH Xô Viết
Sau khi Lenin mất, chính sách NEP không được thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ, từ bỏ 1 cách chủ quan duy ý chí nền KT hàng hóa, cơ chế thị trường thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động…; Chậm đổi mới cơ cấu KT, hệ thống quản lí… => thua kém rõ rệt trong công nghệ và năng suất lao động.
Sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài đó => cản trở đổi mới – nguyên nhân sâu xa làm chế độ XHCN suy yếu, khủng hoảng, sụp đổ. Đó không phải do bản chất chế độ mà do quan niệm giáo điều về CNXH.
Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ
Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
Trong cải tổ, ĐCS Liên Xô mắc sai lầm nghiêm trọng về đường lối CT, tư tưởng, tổ chức – hữu khuynh, cơ hội xét lại thể hiện ở những người lãnh đạo cao nhất.
CNĐQ can thiệp toàn diện, tinh vi, trắng trợn, thực hiện “diễn biến hòa bình” ngay trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, mất cảnh giác CM trong hàng ngũ những người CS tạo cơ hội vàng cho CNĐQ “chiến thắng mà không cần chiến tranh”.
Cơn lốc chính trị phá sập ngôi nhà XHCN.
Các nước XHCN còn lại phải cải tổ, cải cách…
4. Triển vọng của CNXH
* CNTB – không phải là tương lai của XH loài người
Bản chất của CNTB không thay đổi: chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN gây những ung nhọt không thể chữa khỏi. Do biết “tự điều chỉnh và thích ứng”, CNTB vẫn còn khả năng phát triển, có vai trò lớn đối với lịch sử phát triển nhân loại nhưng bản chất bóc lột, phản DC, vô nhân đạo không thay đổi. Những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục.
Các yếu tố XHCN đã xuất hiện trong lòng XHTB: những yếu tố của VM hậu công nghiệp, KT tri thức, tính chất xã hội của sở hữu càng gia tăng, điều tiết của nhà nước đối với thị trường càng hữu hiệu, tính nhân dân và XH của nhà nước tăng lên, phúc lợi XH, môi trường… được giải quyết ngày càng tốt hơn.
* CNXH – tương lai của XH loài người
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của CNXH.
Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của 1 mô hình của CNXH trong quá trình đi tới mục tiêu XHCN. Nó không đồng nghĩa với sự cáo chung của CNXH với tư cách 1 HTKT – XH mà loài người đang vươn tới.
Các nước XHCN còn lại đang tiến hành cải cách, đổi mới, mở cửa và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Marx – Lenin vào điều kiện cụ thể mỗi nước, Trung Quốc và VN – 2 nước tiến hành công cuộc cải cách, mở của và đổi mới, đạt nhiều thành tựu. Công cuộc cải cách, mở cửa ở TQ và công cuộc đổi mới ở VN có những nét tương đồng:
Đã từ bỏ mô hình KT kế hoạch tập trung chuyển sang KT thị trường XHCN (TQ) hoặc theo định hướng XHCN (VN).
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Xây dựng các tổ chức XH phi chính phủ đa dạng: các hội nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo, XH…ngày cáng có vai trò to lớn trong các lĩnh vực mà nhà nước không với tay tới
Hội nhập QT sâu rộng.
Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của ĐCS.
Đã xuất hiện xu hướng đi lên CNXH
Từ những năm 90 thế kỉ XX, ở Marxỹ Latinh đã xuất hiện xu thế thiên tả và ngày càng phát triển mạnh, nhiều nước tuyên bố đi lên CNXH: Vênêxuêla, Ecuađo, Nicarago…
Nhiều nước Mỹ Latinh tuyên bố CNXH là ước mơ của các dân tộc Mỹ Latinh.
Thể hiện sự tác động sâu xa và sức sống mãnh liệt của CNXH hiện thực, thể hiện bước tiến mới của CNXH trên TG, củng cố niềm tin, lý tưởng CSCN.
CNXH thế giới từ những bài học thành bại và sự thức tỉnh của các dân tộc, nất định có bước phát triển mới, theo quy luật khách quan của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.
CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
3. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa, nội dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới là: "Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.1. Khái niệm:
Theo C.Mác và F. Ănghen, giai cấp công nhân có hai thuộc tính cơ bản:
- Về phương thức sản xuất: đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bán sức lao động cho các nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư vì giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất.
Thuộc tính thứ hai này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu: "Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"; "Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy... Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại"
- Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có những thay đổi to lớn: bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự động hoá, với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Song, dù cho trình độ kỹ thuật có thay đổi như thế nào đi nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân vẫn tồn tại như là một giai cấp đặc thù.
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động, được hình thành và phát triển cùng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao;là giai cấp đại biểu lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay,có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo và tổ chức nhân dân lao động các nước tiến hành cách mạng XHCN, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, Cộng sản chủ nghĩa.
- Căn cứ hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân. Còn những người làm công ăn lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo dục, văn hoá, dịch vụ (không liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp)... là những người lao động nói chung, đang được thu hút vào tổ chức công đoàn nghề nghiệp, nhưng không phải là công nhân.
Sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, không còn ở địa vị giai cấp bị bóc lột nữa, mà nó đã trở thành giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động, làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản đã được công hữu hoá. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân có đặc trưng chủ yếu nhất bằng thuộc tính thứ nhất; còn về thuộc tính thứ hai nếu xét toàn bộ giai cấp, thì giai cấp công nhân đã là người làm chủ.
1.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
+ Ph. Ăngghen viết: "Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại".
+ V.I. Lênin cũng chỉ rõ:"Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa"
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên hai nội dung sau:
- Lãnh đạo nhân dân lao động tiến hành cách mạng xã hội xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người
- Xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa- cộng sản chủ nghĩa
Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện sự nghiệp vĩ đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và nhân loại.
2.2. Những đặc điểm Chính trị xã hội của giai cấp công nhân
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó. Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C. Mác, Ph. ăngghen và V.I. Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió.
+ Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề, nhưng xem xét toàn cảnh của sự phát triển xã hội, giai cấp công nhân,lực lượng sản xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có trải qua những bước thăng trầm, quanh co, nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử.
Đúng là ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận không nhỏ trong giai cấp công nhân đã được cải thiện, có thu nhập cao; một bộ phận công nhân ở các nước trên đã có mức sống "trung lưu hóa", song điều đó không có nghĩa là công nhân ở các nước ấy không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể. Một thực tế đã, đang và còn tồn tại ngày càng sâu sắc ở các nước tư bản phát triển, đó là sự bất công, bất bình đẳng và thu nhập càng cách xa giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Dù có cố gắng tìm cách "thích nghi" và mọi biện pháp xoa dịu nhưng giai cấp tư sản không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Thực tế, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn diễn ra ở các nước tư bản chủ nghĩa dưới nhiều hình thức phong phú, với những nội dung khác nhau.
3. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
3.1. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển chính đảng của giai cấp công nhân
Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của nó mới thật sự là một phong trào chính trị. Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó.
Bản thân giai cấp công nhân ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp công nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng. Về số lượng chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả trong "kinh tế tri thức" hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát triển, tinh vi hơn.
+ Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì: từ năm 1900, toàn thế giới có 80 triệu công nhân; đến năm 1990, thế giới đã có hơn 600 triệu công nhân và đến 2010 đã có 950 triệu công nhân...
Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và cao nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là "giai cấp tự nó" (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là "giai cấp vì nó" (tức giai cấp tự giác). Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng sản.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song, để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra đảng cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
3.2. Mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội- giai cấp của Đảng cộng sản là nguồn lực bổ sung lực lượng của Đảng. Đảng cộng sản là bộ phận tham mưu của giai cấp công nhân
Thực tiến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói chung, thực tiến công cuộc xây dựng xã hội mới nói riêng cho thấy, giai cấp công nhân không thể thực hiện được vai trò lịch sử của mình nếu không xây dựng Đảng cộng sản.
- Đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.
1. Khái niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa
2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
3. Mục tiêu, nội dung và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
1. Khái niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản- nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v. để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả quá trình giai cấp công nhân cùng với quần chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tới khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cuộc cách mạng này mới kết thúc.
2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. C. Mác và Ph. ăngghen đã chỉ rõ: "Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội " .
Cách mạng XHCN có nguyên nhân sâu xa từ mẫu thuẫn giữa LLSX mang tính xã hội hoá cao với QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Từ mẫu thuẫn đó nãy sinh tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, khủng hoảng sản xuất thừa, thất nghiệp…Thể hiện trong xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với bị trị.Vì vậy cần phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất XHCN thông qua cuộc cách mạng XHCN.
3. Mục tiêu, nội dung và động lực của cách mạng xã hội chủnghĩa
* Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng dân chủ tư sản với khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái đã tập hợp quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp quí tộc, phong kiến. Nhưng khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, thì mọi quyền tự do, dân chủ của quần chúng nhân dân lao động không được tôn trọng. Tự do trong chế độ tư bản chủ nghĩa là tự do bóc lột của giai cấp tư sản, tự do bán sức lao động của người công nhân; tự do bóc lột của nước giàu với nước nghèo, tự do thống trị của nước lớn với nước nhỏ, v.v..
Giải phóng con người, giải phóng xã hội là mục tiêu của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho nên có thể nói chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người, mà từng bước thực hiện việc giải phóng con người "trên thực tế, biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự do", tạo nên một thể liên hiệp "trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" .
Khi chúng ta nói mục tiêu là cái đích cần đạt tới, do vậy, những mục tiêu khả thi nêu trên từng bước biến thành hiện thực thông qua quá trình lao động nhiệt tình của quần chúng nhân dân lao động, thông qua những biện pháp tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là "xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người... nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân" . Khi mà "xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ"
* Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
"Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số" .
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động ra khỏi tình trạng áp bức bóc lột, do vậy, thu hút được sự tham gia của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực chính trị: đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, bằng lao động sản xuất, bằng cuộc đấu tranh xoá bỏ những cái xấu của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt làm cho xã hội ngày càng phát triển, mức sống của nhân dân ngày càng nâng lên.
Trên lĩnh vực kinh tế: những cuộc cách mạng trước đây về thực chất là cách mạng chính trị. Chúng kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay thế bằng sự thống trị của giai cấp khác. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực chất, là có tính chất kinh tế. Việc giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động mới là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân
Chủ nghĩa xã hội thực hiện phân phối theo lao động, do vậy, năng suất lao động, hiệu quả công tác là thước đo đánh giá sự đóng góp của mỗi người cho xã hội. Năng suất lao động, hiệu suất công tác là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước, ý thức giai cấp, ý thức dân tộc của mỗi người ở trong xã hội.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Trong các xã hội trước đây, giai cấp bóc lột nắm tư liệu sản xuất vật chất, họ cũng nắm luôn công cụ thống trị về mặt tinh thần. Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã là những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, do vậy, cũng là những sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Người lao động là người sáng tạo, làm phong phú thêm những giá trị văn hoá tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là những người hưởng thụ những giá trị văn hoá tinh thần đó.
Nhìn chung, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới, trong đó công cuộc cải cách tạo kết hợp chặt chẽ với công cuộc xây dựng là chủ yếu. Cải tạo đóng vai trò như một phương tiện phục vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội mới, ngược lại, công cuộc xây dựng xã hội mới tạo ra những điều kiện có ý nghĩa quyết định để triển khai công cuộc cải tạo.
1. Tính tất yếu của sự xuất hiện hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa .
2. Các giai đoạn phát triển của hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa .
3. Thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên XHCN
1. Tính tất yếu của sự xuất hiện hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa .
- Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Lịch sử xã hội loài người trải qua các hình thái kinh tế xã hội: cộng xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Sự phát triển của CNTB đã tạo ra những tiền đề vật chất: nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân hiện đại, sự phát triển các mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản: mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản; mâu thuẫn giữa LLSX xã hội hoá ngày càng cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX. Nhu cầu tất yếu của sự thay thế hình thái KTXH TBCN bằng hình thái KTXH- cộng sản chủ nghĩa.
2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa
a. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH xây dựng từng bước từ thấp đến cao trải qua 3 giai đoạn:
Thời kỳ QĐ CNXH CNCS
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ
- Hai hình thức quá độ trực tiếp và gián tiếp.
- Kinh tế nhiều thành phần – xã hội nhiều giai cấp.
- Thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều chặng đường: vì công cuộc xây dựng CNXH là mới mẻ khó khăn phức tạp cần có thời gian và bước đi thích hợp
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ
- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp. Vậy có đúng quy luật không? Quy luật chung của xã hội loài người là phát triển tuần tự từ thấp đến cao qua 5 hình thái kinh tế xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa. Đối với lịch sử mỗi dân tộc do nhân tố khách quan và chủ quan có thể bỏ qua 1 hay 2 hình thái kinh tế xã hội.
- Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là điểm xuất phát về kinh tế xã hội thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, 20 năm bị bao vây, cấm vận (1975 – 1995).
Sau 1954 miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Từ sau 1975 cách mạng dân chủ nhân dân hoàn thành thắng lợi trên phạm vi cả nước thì Đảng ta đã khẳng định: cả nước quá độ đi lên CNXH.
Nước ta quá độ đi lên CNXH là 1 tất yếu vì:
- Phù hợp với lịch sử phát triển của xã hội loài người
Loài người trải qua 5 hình thái KTXH, sự thay thế các hình thái xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, xã hội sau cao hơn xã hội trước. Đồng thời bấc cứ nước nào tiến lên CNXH cũng đều trải qua thời kỳ quá độ nhằm xây dựng những tiền đề vật chất cho sự quá độ đó. Đặc biệt đối với VN tiến lên CNXH trong điều kiện nền sản xuất còn lạc hậu.
- Phù hợp với xu thế của thời đại: xu thế quá độ lên CNXH trên phạm vi thế giới
Trước đây: Về chính trị CNTB khủng hoảng trầm trọng, do phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh, mâu thuẫn giai cấp. Về kinh tế : do cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho các nước tư bản bị suy yếu. Mặc dù CNTB thực hiện nhiều biện pháp thích nghi nhưng mâu thuẫn cơ bản của nó mâu thuẫn giữa tính chất tư nhân và tính chất xã hội của sản xuất vẫn chưa được giải quyết, mà còn gay gắt thêm. Các tiền đề vật chất kinh tế chín mùi cho sự thay thế CNTB bằng xã hội CSCN
- Đặc điểm của cách mạng VN phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trước hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do… đồng thời nó là tiền đề để thực hiện mục tiêu” dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Vì vậy, tiến lên CNXH là sự tiếp bước hợp logic của cuộc CM dân tộc dân chủ, đây là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ được thực hiện triệt để.
Nội dung của thời kỳ quá độ
- Kinh tế: Cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng XHCN tạo sự phát triển cân đối nền kinh tế
- Chính trị xã hội:Cũng cố nhà nước và nền dân chủ XHCN vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội đập tan âm mưu của các thế lực phản động
- Trong lĩnh vực tư tưởng -văn hoá: Khắc phục những tư tưởng- văn hoá ảnh hưởng tiêu cực đến xây dựng CNXH, xây dựng nền văn hoá mới XHCN, tiếp thu tinh hoa của nền văn trên thế giới
- Trong lĩnh vực xã hội: Khắc phục tệ nạn xã hội, sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền, bấc bình đẳng xã hội
1. Cánh mạng tháng mười nga và mô hình Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới.
2. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình CNXH Xô Viết và nguyên nhân của nó
3. Triển vọng của CNXH.
Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
Cách mạng tháng Mười Nga – quá trình tất yếu khách quan của lịch sử
Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
Cách mạng tháng Mười Nga – quá trình tất yếu khách quan của lịch sử
Cách mạng tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của GCCN, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, dưới sự lãnh đạo của GCCN thông qua đội tiên phong là ĐCS Bônsnêvích. Cách mạng tháng Mười dùng bạo lực CM đánh đổ GCTS & PK địa chủ, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng XH hoàn toàn mới – không có tình trạng người bóc lột người.
Cách mạng tháng Mười Nga – quá trình tất yếu khách quan của lịch sử
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười mở ra thời đại mới – thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
"Một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử thế giới. Nhân loại đang vứt bỏ hỡnh thức cuối cùng của chế độ nô lệ, chế độ nô lệ tư bản hay chế độ nô lệ làm thuê. Thoát khỏi được chế độ nô lệ đó, lần đầu tiên nhân loại sẽ bước vào thời kỳ tự do chân chính"
Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
Mô hình CNXH hiện thực đầu tiên trên thế giới
Từ sau Cách mạng tháng Mười đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô là nước XHCN duy nhất.
Điều kiện xây dựng chế độ mới cực kì khó khăn, phức tạp:
KT lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong CTTG I, nội chiến, chiến tranh can thiệp của 14 nước ĐQ, bị bao vây cấm vận KT
1914 – 1921 phải thực hiện chính sách cộng sản thời chiến
3/ 1921 nội chiến kết thúc, ĐH X ĐCS Nga đã đề ra chính sách KT mới (NEP) => Nga nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp KT sau chiến tranh, ngăn chặn nảy sinh tự phát của nền SX nhỏ - mầm mống phục hồi CNTB; thấy sự quan trọng, cần thiết của sự tồn tại CNTB nhà nước dưới điều kiện chuyên chính vô sản.
Mô hình CNXH hiện thực đầu tiên trên thế giới
Sau khi Lenin mất, đường lối đúng đắn này không được quán triêt thực hiện đầy đủ.
Những năm 20 – 30 của XX, triệu chứng 1 cuộc CTTG ngày càng bộc lộ rõ…=> phải nhanh chóng biến Nga thành cường quốc công nghiệp, để xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, xóa nghèo nàn lạc hậu và chuẩn bị đối phó chiến tranh.
Nhà nước Xô Viết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao. Liên Xô thành công rực rỡ.
Sự ra đời của hệ thống XHCN và những thành tựu của nó
Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước XHCN
Sau CTTG II, hệ thống các nước XHCN thế giới ra đời bao gồm: Liên Xô, Cộng hòa DC Đức, Hungari, Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này thêm Cuba)
Sự ra đời của hệ thống XHCN và những thành tựu của nó
Những thành tựu của CNXH hiện thực
Từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ XH, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho tự do DC trên toàn thế giới.
Trong hơn 70 năm xây dựng CNXH, Liên Xô và các nước XHCN đạt được phát triển mạnh mẽ về tiềm lực KT, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH trên quy mô lớn, trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tố hơn đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. (Liên Xô trở thành 1 trong 2 siêu cường TG…)
Với sự lớn mạnh toàn diện, CNXH ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị TG, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc đại của CNĐQ, mở ra kỉ nguyên mới – độc lâp dân tộc và quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
b. Những thành tựu của CNXH hiện thực…
Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình TG.
Ngay tại các nước phương Tây, nhân dân lao động được sức hấp dẫn thực tế của CNXH đã đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, phúc lợi XH… với sức ép của các nước XHCN, các nước phương Tây đã phải nhượng bộ và chấp nhận thực tế rất nhiều yêu sách đó.
CNXH hiện thực trải qua thời kì phát triển rực rỡ, có thành tựu to lớn, phát huy tác dụng mạnh mẽ đến tiến trình phát triển lịch sử loài người.
3. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình CNXH Xô Viết và nguyên nhân của nó
a. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình CNXH Xô Viết
Sau thất bại của Công xã Pari, cuộc khủng hoảng đầu tiên xảy ra – Quốc tế I tan rã. Nhưng từ trong khủng hoảng, sự phát triển lý luận thời kì này phá vỡ bế tắc trong phong trào công nhân => thành lập QT II (1889).
Cuối những năm 60 – XX, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đi vào khủng hoảng. 4/1989 sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở Đông Âu. => 9/1991 chế độ XHCN ở Liên Xô & Đông Âu sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra tương tự ở Mông Cổ, Anbani, Nam Tư.
Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của CNXH Xô Viết
Sau khi Lenin mất, chính sách NEP không được thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ, từ bỏ 1 cách chủ quan duy ý chí nền KT hàng hóa, cơ chế thị trường thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động…; Chậm đổi mới cơ cấu KT, hệ thống quản lí… => thua kém rõ rệt trong công nghệ và năng suất lao động.
Sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài đó => cản trở đổi mới – nguyên nhân sâu xa làm chế độ XHCN suy yếu, khủng hoảng, sụp đổ. Đó không phải do bản chất chế độ mà do quan niệm giáo điều về CNXH.
Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ
Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
Trong cải tổ, ĐCS Liên Xô mắc sai lầm nghiêm trọng về đường lối CT, tư tưởng, tổ chức – hữu khuynh, cơ hội xét lại thể hiện ở những người lãnh đạo cao nhất.
CNĐQ can thiệp toàn diện, tinh vi, trắng trợn, thực hiện “diễn biến hòa bình” ngay trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, mất cảnh giác CM trong hàng ngũ những người CS tạo cơ hội vàng cho CNĐQ “chiến thắng mà không cần chiến tranh”.
Cơn lốc chính trị phá sập ngôi nhà XHCN.
Các nước XHCN còn lại phải cải tổ, cải cách…
4. Triển vọng của CNXH
* CNTB – không phải là tương lai của XH loài người
Bản chất của CNTB không thay đổi: chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN gây những ung nhọt không thể chữa khỏi. Do biết “tự điều chỉnh và thích ứng”, CNTB vẫn còn khả năng phát triển, có vai trò lớn đối với lịch sử phát triển nhân loại nhưng bản chất bóc lột, phản DC, vô nhân đạo không thay đổi. Những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục.
Các yếu tố XHCN đã xuất hiện trong lòng XHTB: những yếu tố của VM hậu công nghiệp, KT tri thức, tính chất xã hội của sở hữu càng gia tăng, điều tiết của nhà nước đối với thị trường càng hữu hiệu, tính nhân dân và XH của nhà nước tăng lên, phúc lợi XH, môi trường… được giải quyết ngày càng tốt hơn.
* CNXH – tương lai của XH loài người
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của CNXH.
Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của 1 mô hình của CNXH trong quá trình đi tới mục tiêu XHCN. Nó không đồng nghĩa với sự cáo chung của CNXH với tư cách 1 HTKT – XH mà loài người đang vươn tới.
Các nước XHCN còn lại đang tiến hành cải cách, đổi mới, mở cửa và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Marx – Lenin vào điều kiện cụ thể mỗi nước, Trung Quốc và VN – 2 nước tiến hành công cuộc cải cách, mở của và đổi mới, đạt nhiều thành tựu. Công cuộc cải cách, mở cửa ở TQ và công cuộc đổi mới ở VN có những nét tương đồng:
Đã từ bỏ mô hình KT kế hoạch tập trung chuyển sang KT thị trường XHCN (TQ) hoặc theo định hướng XHCN (VN).
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Xây dựng các tổ chức XH phi chính phủ đa dạng: các hội nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo, XH…ngày cáng có vai trò to lớn trong các lĩnh vực mà nhà nước không với tay tới
Hội nhập QT sâu rộng.
Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của ĐCS.
Đã xuất hiện xu hướng đi lên CNXH
Từ những năm 90 thế kỉ XX, ở Marxỹ Latinh đã xuất hiện xu thế thiên tả và ngày càng phát triển mạnh, nhiều nước tuyên bố đi lên CNXH: Vênêxuêla, Ecuađo, Nicarago…
Nhiều nước Mỹ Latinh tuyên bố CNXH là ước mơ của các dân tộc Mỹ Latinh.
Thể hiện sự tác động sâu xa và sức sống mãnh liệt của CNXH hiện thực, thể hiện bước tiến mới của CNXH trên TG, củng cố niềm tin, lý tưởng CSCN.
CNXH thế giới từ những bài học thành bại và sự thức tỉnh của các dân tộc, nất định có bước phát triển mới, theo quy luật khách quan của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Ngô Thế Bình
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)