Các Vị La Hánchùa Tây Phương
Chia sẻ bởi Châu Thị Hiệp |
Ngày 21/10/2018 |
111
Chia sẻ tài liệu: Các Vị La Hánchùa Tây Phương thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Trường THPT Nguyễn Trung Trực
Tập thể Lớp12A 3
GV: Châu Thị Hiệp
Trân trọng kính chào quý Thầy Cô.
Cổng ngoài Chùa Tây phương.
Lối vào Chùa Tây phương
CẢNH CHÙA TIÊU ĐIỀU ẢM ĐẠM
Tam gian thờ các Vị La Hán
Tiết: 41
Bài:Các Vị La Hán Chùa Tây Phương
Huy Cận
NHÀ THƠ HUY CẬN
Nhà thơ Huy Cận ( 1919-2005) tại Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của “Thơ mới”. Thơ Huy Cận trước Cách mạng chất chứa nỗi sầu vạn cổ, sau năm 1945 dào dạt tình đời và niềm vui bát ngát. Thơ ông giàu nhạc điệu, hàm súc cổ điển và có màu sắc suy tưởng, triết lý
1.Tác giả:
A.GIỚI THIỆU
Tiết: 41
Tiết: 41
2.Xuất xứ
Bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” được Huy Cận viết vào năm 1960, in trong tập “Bài thơ cuộc đời” (1963).
Trước Cách mạng tháng Tám, ông đã có dịp đến thăm chùa Tây Phương. Sau đó, nhiều lần, ông trở lại thăm chùa Tây Phương. Hình dáng đau khổ của các pho tượng đã làm cho ông trăn trở suy tư, cuối năm 1960 ông đã sáng tác bài thơ “Các vị La hán chùa Tây Phương”
Tiết: 41
3.Hoàn cảnh sáng tác:
Qua hình ảnh các pho tượng La Hán, Huy Cận bày tỏ nỗi đau đời khát vọng cứu đời của người xưa. Nhà thơ vô cùng cảm thông Cha ông ta ngày trước, tin tưởng tự hào về chế độ mới sẽ mang lại mùa xuân hạnh phúc cho toàn dân.
4. Cảm hứng chủ đạo:
Tiết: 41
a. Đoạn 1- (Tám khổ thơ đầu): Đặc tả và cảm nhận về các pho tượng La Hán.b. Đoạn 2- ( Năm khổ thơ tiếp theo): Nỗi đau đời và bế tắc của người xưa. Sự cảm thông của nhà thơ.
c. Đoạn 3- ( Hai khổ thơ cuối): Niềm tin vui và tự hào của tác giả về chế độ mới…
Tiết: 41
5. Bố cục:
Hoàng hôn xuống, nhà thơ rời chùa Tây Phương mà lòng đầy vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
B.NỘI DUNG
Đến thăm Chùa Tây Phương, lúc trở về, nhà thơ vấn vương vì sao xứ Phật vốn từ bi “mà sao ai nấy mặt đau thương”?
Tiết: 41
I. Cảm nhận về các pho tượng La Hán
1.Tâm trạng nhà thơ (khổ 1)
2.Pho tượng thứ nhất:
- Chân với tay chỉ còn lại “xương trần”.
- Tấm thân gầy như đã bị “thiêu đốt”.
- Mắt sâu thành “vòm” với cái nhìn “trầm ngâm đau khổ?”.
- Dáng ngồi tĩnh tọa bất động qua mấy ngàn năm .
Pho tượng thứ nhất là hiện thân của sự tích diệt đến khô gầy.
Tiết: 41
3. Pho tượng thứ hai.
Tiết: 41
- Mắt thì “ giương”, mày thì “nhíu xệch”.
Trán như đang “nổi sóng biển luân hồi” vô cùng vô tận.
- Môi cong lên “chua chát”.Tâm hồn khô héo. Bàn tay “gân vặn”, mạch máu thì “sôi”lên.
Pho tượng thứ hai như chöùa đựng biết bao vật vã, dằn vặt, đau khổ, về một chân tu khổ hạnh.
Pho tượng thứ ba
Ngồi trong tư thế “chân tay co xếp lại”chẳng khác nào chiếc thai non “tròn xoe”.
Đôi tai rất kỳ dị “rộng dài ngang gối”.
Vị tu hành này như suốt đời “nghe đủ chuyện buồn” của chúng sinh.
Tiết: 41
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổi trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu?
5.Các khổ thơ 5, 6, 7, 8 tả khái quát nhóm tượng La Hán:
Các vị tu hành xa xưa như đang “vật vã” đi tìm phép nhiệm màu để giải thoát chúng sinh?
Đây là sự hội tụ của những khổ đau,trăn trở, quằn quại ở cao điểm.
Bế tắc, bất lực.
Tiết: 41
Qua các pho tượng,nhà thơ không chỉ phản ánh một xã hội quằn quại trong những biến động và bế tắc mà còn thể hiện một tinh thần nhân đạo đáng quý, trân trọng và cảm thông với người xưa.
Tiết: 41
II.Nỗi đau đời và bế tắc của người xưa và sự cảm thông của nhà thơ.(20 câu giữa)
Từ hình ảnh các vị La Hán, tác giả liên hệ đến sự đau khổ của những nghệ sĩ VN trong xã hội phong kiến.
Tiết: 41
Trong thời đại Nguyễn Du, cha ông ta rất đau đời, nhưng không cứu được đời
Thời đại cũ là bóng đêm, là hoàng hôn.
Tiết: 41
III.Niềm tự hào của tác giả về xã hội mới (2 khổ cuối)
Thời đại mới đã mở cửathời kỳ xã hội lên đường xây dựng cuộc sống mới, xua tan hoàng hôn.
Thời đại mới tạo mùa xuân cho cuộc sống
Tiêt: 41
C.Tổng kết:
Nghệ thuật:
Nội dung:
- Miêu tả tinh tế, giàu sức gợi hình
- Ngôn ngữ điêu khắc giàu chất suy tưởng, triết lý.
-Cảm thông, trân trọng trước bi kịch lớn lao của cha ông thời phong kiến.
-Ánh sáng giải thoát của thời đại mới, xã hội mới.
Củng cố:
Cảm hứng bài thơ được khơi gợi từ hình ảnh những pho tượng, những suy tưởng của bài thơ theo hướng nào sau đây:
Suy tưởng và triết lý về phật giáo
A
B
Suy tưởng về nhân thế
C
Suy tưởng về nghệ thuật điêu khắc cổ
D
Suy tưởng về những đau khổ bế tắc của cha ông trong quá khứ, thời đại mà các pho tượng này ra đời
Dặn dò:
Học bài:
1. Học thuộc đoạn 1(8 khổ thơ đầu)
2. Cảm nhận chung về các Vị La Hán.
3. Nỗi đau đời của cha ông ngày xưa và niềm tin vui, tự hào của nhà thơ trong thời đại mới.
4. Nghệ thuật trong bài thơ.
Chuẩn bị:
1. Đọc và tóm tắt tác phẩm.
2. Tìm hiểu: Chủ đề - Ý nghĩa nhan đề.
4. Đặc sắc nghệ thuật.
3. Phân tích: Tính cách, tâm lý nhân vật Đào trước và sau khi lên nông trường Điện Biên.
5. Tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
“MÙA LẠC” (Nguyễn Khải)
Trong bài dạy có sử dụng các ca khúc:
“Trăng về thôn dã” của Hoài An &Huyền Linh.
“ Tiếng xưa” của Dương Thiệu Tước.
“ Khúc dạo đầu bài “ Tây Du Ký”
“VN trên đường chúng ta đi” của Huy Du.
GV và tập thể lớp 12A 3
Kính chào tạm biệt
Tập thể Lớp12A 3
GV: Châu Thị Hiệp
Trân trọng kính chào quý Thầy Cô.
Cổng ngoài Chùa Tây phương.
Lối vào Chùa Tây phương
CẢNH CHÙA TIÊU ĐIỀU ẢM ĐẠM
Tam gian thờ các Vị La Hán
Tiết: 41
Bài:Các Vị La Hán Chùa Tây Phương
Huy Cận
NHÀ THƠ HUY CẬN
Nhà thơ Huy Cận ( 1919-2005) tại Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của “Thơ mới”. Thơ Huy Cận trước Cách mạng chất chứa nỗi sầu vạn cổ, sau năm 1945 dào dạt tình đời và niềm vui bát ngát. Thơ ông giàu nhạc điệu, hàm súc cổ điển và có màu sắc suy tưởng, triết lý
1.Tác giả:
A.GIỚI THIỆU
Tiết: 41
Tiết: 41
2.Xuất xứ
Bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” được Huy Cận viết vào năm 1960, in trong tập “Bài thơ cuộc đời” (1963).
Trước Cách mạng tháng Tám, ông đã có dịp đến thăm chùa Tây Phương. Sau đó, nhiều lần, ông trở lại thăm chùa Tây Phương. Hình dáng đau khổ của các pho tượng đã làm cho ông trăn trở suy tư, cuối năm 1960 ông đã sáng tác bài thơ “Các vị La hán chùa Tây Phương”
Tiết: 41
3.Hoàn cảnh sáng tác:
Qua hình ảnh các pho tượng La Hán, Huy Cận bày tỏ nỗi đau đời khát vọng cứu đời của người xưa. Nhà thơ vô cùng cảm thông Cha ông ta ngày trước, tin tưởng tự hào về chế độ mới sẽ mang lại mùa xuân hạnh phúc cho toàn dân.
4. Cảm hứng chủ đạo:
Tiết: 41
a. Đoạn 1- (Tám khổ thơ đầu): Đặc tả và cảm nhận về các pho tượng La Hán.b. Đoạn 2- ( Năm khổ thơ tiếp theo): Nỗi đau đời và bế tắc của người xưa. Sự cảm thông của nhà thơ.
c. Đoạn 3- ( Hai khổ thơ cuối): Niềm tin vui và tự hào của tác giả về chế độ mới…
Tiết: 41
5. Bố cục:
Hoàng hôn xuống, nhà thơ rời chùa Tây Phương mà lòng đầy vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
B.NỘI DUNG
Đến thăm Chùa Tây Phương, lúc trở về, nhà thơ vấn vương vì sao xứ Phật vốn từ bi “mà sao ai nấy mặt đau thương”?
Tiết: 41
I. Cảm nhận về các pho tượng La Hán
1.Tâm trạng nhà thơ (khổ 1)
2.Pho tượng thứ nhất:
- Chân với tay chỉ còn lại “xương trần”.
- Tấm thân gầy như đã bị “thiêu đốt”.
- Mắt sâu thành “vòm” với cái nhìn “trầm ngâm đau khổ?”.
- Dáng ngồi tĩnh tọa bất động qua mấy ngàn năm .
Pho tượng thứ nhất là hiện thân của sự tích diệt đến khô gầy.
Tiết: 41
3. Pho tượng thứ hai.
Tiết: 41
- Mắt thì “ giương”, mày thì “nhíu xệch”.
Trán như đang “nổi sóng biển luân hồi” vô cùng vô tận.
- Môi cong lên “chua chát”.Tâm hồn khô héo. Bàn tay “gân vặn”, mạch máu thì “sôi”lên.
Pho tượng thứ hai như chöùa đựng biết bao vật vã, dằn vặt, đau khổ, về một chân tu khổ hạnh.
Pho tượng thứ ba
Ngồi trong tư thế “chân tay co xếp lại”chẳng khác nào chiếc thai non “tròn xoe”.
Đôi tai rất kỳ dị “rộng dài ngang gối”.
Vị tu hành này như suốt đời “nghe đủ chuyện buồn” của chúng sinh.
Tiết: 41
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổi trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu?
5.Các khổ thơ 5, 6, 7, 8 tả khái quát nhóm tượng La Hán:
Các vị tu hành xa xưa như đang “vật vã” đi tìm phép nhiệm màu để giải thoát chúng sinh?
Đây là sự hội tụ của những khổ đau,trăn trở, quằn quại ở cao điểm.
Bế tắc, bất lực.
Tiết: 41
Qua các pho tượng,nhà thơ không chỉ phản ánh một xã hội quằn quại trong những biến động và bế tắc mà còn thể hiện một tinh thần nhân đạo đáng quý, trân trọng và cảm thông với người xưa.
Tiết: 41
II.Nỗi đau đời và bế tắc của người xưa và sự cảm thông của nhà thơ.(20 câu giữa)
Từ hình ảnh các vị La Hán, tác giả liên hệ đến sự đau khổ của những nghệ sĩ VN trong xã hội phong kiến.
Tiết: 41
Trong thời đại Nguyễn Du, cha ông ta rất đau đời, nhưng không cứu được đời
Thời đại cũ là bóng đêm, là hoàng hôn.
Tiết: 41
III.Niềm tự hào của tác giả về xã hội mới (2 khổ cuối)
Thời đại mới đã mở cửathời kỳ xã hội lên đường xây dựng cuộc sống mới, xua tan hoàng hôn.
Thời đại mới tạo mùa xuân cho cuộc sống
Tiêt: 41
C.Tổng kết:
Nghệ thuật:
Nội dung:
- Miêu tả tinh tế, giàu sức gợi hình
- Ngôn ngữ điêu khắc giàu chất suy tưởng, triết lý.
-Cảm thông, trân trọng trước bi kịch lớn lao của cha ông thời phong kiến.
-Ánh sáng giải thoát của thời đại mới, xã hội mới.
Củng cố:
Cảm hứng bài thơ được khơi gợi từ hình ảnh những pho tượng, những suy tưởng của bài thơ theo hướng nào sau đây:
Suy tưởng và triết lý về phật giáo
A
B
Suy tưởng về nhân thế
C
Suy tưởng về nghệ thuật điêu khắc cổ
D
Suy tưởng về những đau khổ bế tắc của cha ông trong quá khứ, thời đại mà các pho tượng này ra đời
Dặn dò:
Học bài:
1. Học thuộc đoạn 1(8 khổ thơ đầu)
2. Cảm nhận chung về các Vị La Hán.
3. Nỗi đau đời của cha ông ngày xưa và niềm tin vui, tự hào của nhà thơ trong thời đại mới.
4. Nghệ thuật trong bài thơ.
Chuẩn bị:
1. Đọc và tóm tắt tác phẩm.
2. Tìm hiểu: Chủ đề - Ý nghĩa nhan đề.
4. Đặc sắc nghệ thuật.
3. Phân tích: Tính cách, tâm lý nhân vật Đào trước và sau khi lên nông trường Điện Biên.
5. Tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
“MÙA LẠC” (Nguyễn Khải)
Trong bài dạy có sử dụng các ca khúc:
“Trăng về thôn dã” của Hoài An &Huyền Linh.
“ Tiếng xưa” của Dương Thiệu Tước.
“ Khúc dạo đầu bài “ Tây Du Ký”
“VN trên đường chúng ta đi” của Huy Du.
GV và tập thể lớp 12A 3
Kính chào tạm biệt
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Châu Thị Hiệp
Dung lượng: |
Lượt tài: 4
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)