CAC DOI TONG BI THU O VIET NAM
Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Yến |
Ngày 27/04/2019 |
60
Chia sẻ tài liệu: CAC DOI TONG BI THU O VIET NAM thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
TRẦN PHÚ (10/1930 – 4/1931)
Ông sinh ngày 1/5/1904 tại thành An Thổ, nay thuộc xã An Dân, huyện Tuy An, nơi cha ông là Trần Văn Phổ làm giáo thụ. Nguyên quán ở làng Tùng Sinh, nay thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1922, ông đỗ đầu kỳ thi Thành Chung (học vị cao nhất theo hệ Pháp đào tạo tại Việt Nam lúc bấy giờ).
Năm 1925, ông tham gia Hội Phục Việt tại Vinh, sau đó Hội đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng.
Năm 1926, ông sang Quảng Châu, Trung Quốc bàn việc hợp nhất với Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Năm 1927, ông sang Liên Xô, học ở trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh là Li-cơ-vây.
1928, dự Đại hội VI Quốc tế Cộng sản.
Ngày 11/10/1929, tòa án Nam triều ở Nghệ An xử án vắng mặt một số đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương trong đó có Trần Phú.
Tháng 4/1930, ông về nước và được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời của Đảng (tháng 7). Ông được giao soạn thảo Luận cương Chính trị về vấn đề cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương.
Tháng 10/1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Hương Cảng (Trung Quốc) đã thông qua bản Luận cương Chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức, ông được bầu Tổng Bí thư của Đảng.
Tháng 3/1931, ông chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 2 tại Sài Gòn bàn việc chấn chỉnh Đảng sau đợt khủng bố của địch. Hội nghị đã vạch ra nghị quyết về nhiệm vụ hiện tại của Đảng, nghị quyết về tổ chức của Đảng, nghị quyết về cổ động tuyên truyền.
TRẦN PHÚ (10/1930 – 4/1931)
Ngày 19/4/1931, ông bị thực dân Pháp bắt.
Ngày 6/9/1931, ông qua đời tại Nhà thương Chợ Quán ở tuổi 27 với lời nhắn nhủ bạn bè "Hãy giữ vững khí tiết chiến đấu".
Ngày 12/1/1999, hài cốt ông được di dời về an táng tại quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh. Mộ của ông được đặt trên đồi cao xã Tùng Ảnh, phía trước mộ là hàng chữ "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu"
TRẦN PHÚ (10/1930 – 4/1931)
Ông tên thật là Lê Huy Doãn, sinh năm 1902 trong một gia đình nghèo thuộc xóm Đông Cửa, thôn Đông Thông, tổng Thông Lạng, nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ cuộc sống ông đã bập bênh nhiều khó khăn.
LÊ HỒNG PHONG (3/1935 – 6/1936)
Khi trưởng thành, ông đi làm công cho một hãng buôn ở Vinh, rồi làm công nhân nhà máy diêm Bến Thủy và bị đuổi việc vì đã vận động công nhân đấu tranh. Tháng 1 năm 1924, ông cùng Phạm Hồng Thái sang Thái Lan, sau đó đi qua Hồng Kông, Trung Quốc tham gia Tâm Tâm Xã (còn gọi là Tân Việt Thanh niên Đoàn). Ông là một trong 9 hội viên hạt nhân của tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (còn gọi là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên).
Năm 1924, ông học Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 2 năm 1926, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cuối năm đó, ông tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố.
Từ tháng 10/1926 đến tháng 10/1927, ông sang học trường Lý luận Quân sự tại Leningrad (Liên Xô). Từ tháng 12/1927 đến tháng 11/1928, ông học trường Không quân số 2 ở Borisoglebsk (Liên Xô).
Từ tháng 12/1928, ông theo học trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva (Liên Xô) với bí danh Litvinov. Sau khi tốt nghiệp, ông tham gia Hồng quân Liên Xô với cấp bậc Trung tá.
Cuối năm 1931, với tên là Vương Nhật Dân, ông về Trung Quốc hoạt động.
Năm 1932, ông tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng cộng sản ở trong nước nhằm khôi phục phong trào và thảo chương trình hành động của đảng trong tình hình đảng bị tổn thất nặng nề trước đó.
LÊ HỒNG PHONG (3/1935 – 6/1936)
Năm 1934, ông thành lập Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng tại Ma Cao, chính ông làm Bí thư.
Ngày 14/6/1934, ông triệu tập Hội nghị Ban Chỉ huy Hải ngoại và đại biểu các đảng bộ trong nước bàn kế hoạch triệu tập Đại hội lần thứ nhất của Đảng.
LÊ HỒNG PHONG (3/1935 – 6/1936)
Tháng 3/1935, tại Đại hội I của Đảng ở Ma Cao, ông được bầu làm Tổng Bí thư. Tháng 7 tháng 1935, ông dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng ra dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ở Moskva. Đại hội công nhận Đảng là Chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản và bầu ông làm Ủy viên Ban Chấp hành của Quốc tế Cộng sản.
Tháng 1/1936, ông tới Trung Quốc và triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng tại Thượng Hải (tháng 7 năm 1936).
Ngày 10/11/1937, với tên là La Anh, ông về nước hoạt động.
Tháng 3/1938, ông dự Hội nghị Trung ương họp tại Hóc Môn (Gia Định) quyết định thành lập "Mặt trận Dân chủ Đông Dương".
Ngày 22/6/1939, ông bị quân Pháp bắt lần thứ nhất ở Sài Gòn và bị kết án 6 tháng tù.
LÊ HỒNG PHONG (3/1935 – 6/1936)
Ngày 6/2/1940, ông bị bắt lần thứ hai, bị kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo.
Ngày 6/9/1942, ông qua đời trong lúc ở trong tù tại Côn Đảo.
Ngoài ra, về gia đình thì ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Minh Khai, một nữ đồng chí cùng học tại Đại học Phương Đông. Hai người có chung một người con gái.
Ông sinh ngày 24/4/1906, mất ngày 28/8/1941
Ông sinh ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ là một nhà nho nghèo. Hà Huy Tập là con thứ hai, sau ông còn 3 em gái, một người có tên là Hà Thị Chuốt mất từ hồi nhỏ. Còn lại Hà Thị Chước, người em gái kề ông, lấy chồng ở quê có tên là Nguyễn Đình Cương cũng hoạt động cùng thời với ông và là đảng viên Cộng sản thời kỳ 1930-1931.
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Năm 1923, tốt nghiệp hạng ưu trường Quốc học Huế. Từ năm 1923 đến 1926, ông làm giáo viên tiểu học ở thành phố Nha Trang.
Giữa năm 1926, ông bị trục xuất khỏi Nha Trang và chuyển về dạy học ở trường tiểu học Cao Xuân Dục (thành phố Vinh). Ông tham gia Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam, tiền thân của Tân Việt Cách mạng Đảng) nên bị sa thải.
Tháng 3/1927, ông chuyển vào Sài Gòn hoạt động, kiếm sống và dạy học ở An Nam học đường tức trường Nguyễn Xích Hồng, đến tháng 1 năm 1928 ông lại bị sa thải khỏi An Nam học đường.
Tháng 12 năm 1928, ông sang Quảng Châu, Trung Quốc bàn việc hợp nhất với tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội rồi hoạt động trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Ngày 19/7 năm 1929, ông sang Liên Xô, học trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh là Cinichkin (Xi-nhi-trơ-kin).
Cuối năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản toàn liên bang (bôn-sê-vích) (tên gọi lúc đó của Đảng Cộng sản Liên Xô).
Năm 1932, ông tốt nghiệp đại học và trở về Việt Nam. Trên đường về ông bị Pháp bắt và bị trục xuất sang Bỉ, sau đó trở về Trung Quốc.
Năm 1934, ông tham gia Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ông trực tiếp chủ trì Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng tại Ma Cao từ 27/3 đến 31/3 năm 1935. Tại Đại hội này, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và có chân trong Ban Thường vụ Trung ương.
Tháng 3/1935, ông được cử làm Bí thư Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương.
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Tháng 7/1936, Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương cử ông về nước để lập lại Trung ương cấp ủy và và giữ chức Tổng Bí thư từ ngày 26/7. (Chức Tổng Bí thư của ông mới được công nhận trong thời gian gần đây, nhưng thời gian ông giữ chức vụ này cũng không được ghi thống nhất. Có tài liệu ghi ông "lãnh đạo Ban chấp hành Trung ương trên cương vị Tổng Bí thư" từ Đại hội lần thứ nhất của Đảng, tháng 3/1935.)
Ông trực tiếp chỉ đạo các báo L`Avant garde (Tiền phong) (1937), Dân chúng (1938) của Đảng dưới danh nghĩa "cơ quan lao động và dân chúng" ở Nam Kỳ.
Từ 3 tháng 9 đến 5 tháng 9 năm 1937, Hội nghị Trung ương họp ở Bà Điểm, Gia Định, ông báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của đảng từ sau Đại hội I đến năm 1937.
Tháng 3 năm 1938, ông thôi chức Tổng Bí thư, là Ủy viên Thường vụ Trung ương và thành viên Ban Bí thư Trung ương Đảng.
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Ngày 1/5/1938, ông bị quân Pháp bắt tại Sài Gòn, sau đó bị quản thúc ở quê.
Ngày 30/3/1940 ông bị bắt lại và ngày 25 tháng 10 năm đó, ông bị thực dân Pháp xử tuyên án 5 năm tù giam.
Ngày 25/3/1941, Pháp đổi thành án tử hình vì "chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ" (cùng bị kết án tử hình với Hà Huy Tập còn có Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai). Trước tòa ông tuyên bố: "Tôi chẳng có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống tôi sẽ tiếp tục hoạt động."
Ngày 28 tháng 8 năm 1941, ông bị Pháp xử bắn cùng với một số nhà cách mạng khác tại Sở Rác (nay là bệnh viện Hóc Môn, Sài Gòn). (Có tài liệu nói là ông và các đồng chí bị xử bắn ở Ngã Ba Giồng, Hóc Môn, Gia Định, hiện nay có khu di tích tại đây.)
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Ngày 22 tháng 11 năm 2009, hài cốt của ông được phát hiện tại khu vực Bến Tắm Ngựa thuộc xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 1 tháng 12 cùng năm, lễ viếng và truy điệu linh cữu ông được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh, đã có nhiều quan chức lãnh đạo của đảng và hàng trăm đoàn đại biểu từ các nơi đến chờ viếng. Sau đó, linh cữu ông được đưa về an táng tại huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông sinh ngày 9/7/1912, mất ngày 28/8/1941
Ông sinh trong một gia đình nhà Nho, quê xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1927, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
NGUYỄN VĂN CỪ (3/1938 – 1/1940)
Tháng 6/1929, ông được kết nạp vào chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng đầu tiên ở Hà Nội. Năm 1930, được cử làm Bí thư đặc khu Hồng Gai – Uông Bí. Bị Pháp bắt, kết án khổ sai, đày đi Côn Đảo.
Năm 1936, ông được trả tự do, về hoạt động bí mật ở Hà Nội. Tháng 9 năm 1937, được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở hội nghị Hóc Môn (Gia Định). Năm 1938, ông được bầu làm Tổng bí thư khi mới 26 tuổi.
Tháng 6 năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn cùng với một số đảng viên khác.
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), thực dân Pháp ghép ông vào tội đã thảo ra "Nghị quyết thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương", "chủ trương bạo động" và là "người có trách nhiệm tinh thần trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ" và kết án tử hình.
NGUYỄN VĂN CỪ (3/1938 – 1/1940)
Ngày 28 tháng 8 năm 1941, bản án được thi hành cùng lúc với một số đảng viên cộng sản khác như Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu... tại trường bắn Hóc Môn.
Ông tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9/2/1907, ở thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ ông là cụ Đặng Xuân Viện, là một nhà nho không thành đạt trong đường khoa bảng, là một thành viên trong nhóm Nam Việt đồng thiên hội, là người biên soạn bộ Minh đô sử (gồm 100 quyển đóng thành sách).
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Do truyền thống gia đình, được sự giáo dục của thân phụ, từ nhỏ, ông đã làm quen với Tứ thư, Ngũ kinh, thơ Đường và được đào tạo bài bản về văn hóa và lịch sử theo truyền thống Nho học. Khi lớn lên, ông bắt đầu tiếp xúc Tây học và theo học bậc Thành chung tại Nam Định.
Chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của thân phụ, từ năm 1925, khi còn là còn học ở bậc Thành Chung, ông đã tham gia phong trào đấu tranh đòi ân xá cho Phan Bội Châu, lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu Phan Chu Trinh. Năm 1926, ông bị trường đuổi học.
Năm 1927, ông chuyển lên Hà Nội, tiếp tục học ở trường Cao đẳng Thương mại và tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1929, ông tham gia cuộc vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ và trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của đảng này.
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Năm 1930, ông được chỉ định vào Ban tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm này, ông bị Pháp bắt và kết án 12 năm tù và đày đi Sơn La, đến năm 1936 được trả tự do.
Giai đoạn 1936–1939, ông là Xứ Ủy viên Bắc Kỳ, đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương trong Ủy ban Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ. Năm 1940, ông được cử làm chủ bút báo Cờ giải phóng, cơ quan của Xứ ủy Bắc Kỳ, kiêm phụ trách các tờ báo tiếng Pháp như Le Travail, Rassemblement, En Avant và báo Tin tức.
Tại Hội nghị Trung ương 7 họp tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh từ ngày 6 đến ngày 9/11/1940, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được cử làm Quyền Tổng Bí thư Đảng thay Nguyễn Văn Cừ.
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Tháng 5 năm 1941, tại Hội nghị Trung ương 8 họp tại Cao Bằng, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, kiêm Trưởng Ban tuyên huấn Trung ương. Năm 1943, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt.
Tháng 3 năm 1945, ông triệu tập và chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị nổi tiếng "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Trong giai đoạn chuẩn bị Cách mạng tháng Tám 1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng, ông được cử phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Cuối năm 1945, nhằm mục đích tránh những bất lợi về chính trị và tạo điều kiện thuận lợi hơn trong chỉ đạo phong trào Việt Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật nên tuyên bố tự giải tán, chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương do ông làm Hội trưởng.
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Khi cuộc cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, để xác định mục tiêu và cổ vũ tinh thần cho những người kháng chiến, ông đã viết loạt bài báo nổi tiếng với tựa đề “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, đăng trên báo "Sự thật" từ số 70 (4/3/1947) đến số 81 (1/8/1947). Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: "Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận với cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi, là do anh Trường Chinh".
Năm 1951, tại Đại hội lần thứ 2 của Đảng, [đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam], ông được bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương và giữ chức Tổng Bí thư cho đến tháng 10/1956.
Năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Đến năm 1960, ông lại được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị. Cũng trong năm này, ông được Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu làm Chủ tịch Quốc hội và đến năm 1976, giữ chức vụ này trong Quốc hội Việt Nam thống nhất cho đến năm 1981.
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Năm 1981, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Ngày 14/7/1986, tại Hội nghị đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam thay cho Lê Duẩn vừa mất.
Tháng 12/1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, ông rút khỏi các chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước và được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Sao vàng và nhiều Huân chương khác. Ông qua đời ngày 30/9/1988 , thọ 81 tuổi.
Bác sinh ngày 19/5/1890, mất ngày 2/9/1969. Bác tên thật là Nguyễn Sinh Cung, tự là Tất Thành. Quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Bác được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên Nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Thân phụ Bác là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng với gia đình chuyển vào Huế lần thứ nhất, khi ông Nguyễn Sinh Sắc vào Kinh thi hội. Từ cuối năm 1895 đến đầu năm 1901, Nguyễn Sinh Cung sống cùng cha mẹ tại Huế, ở nhờ nhà một người quen ở trong thành nội (nay là số nhà 112, đường Mai Thúc Loan). Đó là những năm tháng gia đình ông Sắc sống trong cảnh gieo neo, thiếu thốn. Bà Hoàng Thị Loan làm nghề dệt vải, còn ông Sắc ngoài thời gian học, phải đi chép chữ thuê để kiếm sống, để học và dự thi.
Năm 1898, ông Nguyễn Sinh Sắc dự thi hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình càng thêm chật vật khó khăn. Gần cuối năm 1898, theo lời mời của ông Nguyễn Sĩ Độ, ông Nguyễn Sinh Sắc về dạy học cho một số học sinh ở làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế 6 km. Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha về đây và bắt đầu học chữ Hán tại lớp học của cha.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Cuối năm 1900, ông Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở trường thi hương Thanh Hoá. Bác đưa Nguyễn Sinh Khiêm đi cùng, còn Nguyễn Sinh Cung thì về sống với mẹ trong nội thành Huế. Bà Loan sinh bé Xin trong hoàn cảnh khó khăn túng thiếu nên lâm bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu sau, bé Xin quá yếu cũng theo mẹ. Mới 11 tuổi Nguyễn Sinh Cung đã chịu nỗi đau mất mẹ và em.
Tháng 5/1901, ông Nguyễn Sinh Huy đậu Phó bảng khoa thi hội Tân Sửu. Khoảng tháng 9/1901, Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển về sống ở quê nội. Bác Nguyễn Sinh Huy làm lễ vào làng cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).
Tháng 9/1907, Bác vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5/1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Cha Bác bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Bác quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Bác dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, Bác nghỉ dạy và vào Sài Gòn cũng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, Bác theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son ( bây giờ là trường Cao Đẳng kỹ thuật Cao Thắng ). Ở đây, Bác học được 3 tháng. Sau đó Bác quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngày 5/6/1911, từ Bến Nhà Rồng, Bác lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Ngày 6/7/1911, tàu cập cảng Marseilles, Pháp. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), Bác quay trở lại nước Anh và sống bằng nhiều nghề lao động. Cuối năm 1917, Bác trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngày 18/6/1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị. Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó Bác đi theo chủ nghĩa cộng sản. Bác tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30/12/1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, Bác trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Năm 1921, Bác cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc.
Năm 1922, Bác cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông. Tại đây Bác đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15/10/1923), Bác được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Đệ Tam Quốc tế (họp từ ngày 17/6 đến ngày 8/7 năm 1924), Bác được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.
Năm 1925, Bác thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam. Cuốn Đường Cách mệnh, mà Bác là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.
Cùng năm 1925, Bác tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và Bác làm bí thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, Bác rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô. Tháng 11 năm 1927, Bác được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12/12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Mùa thu 1928, Bác từ châu Âu đến Xiêm La, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều tại Xiêm.
Cuối năm 1929, Bác rời khỏi Vương quốc Xiêm La và sang Trung Quốc.
Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long, Hương Cảng, Bác thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam").
Tháng 3 năm 1930, Bác trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Nhưng sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby, Tống Văn Sơ được thả ngày 28/12/1932. Bác đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Năm 1938, Bác trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938.
Bác trở về Việt Nam vào ngày 28/1/1941, ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Tại đây, Bác mở các lớp huấn luyện cán bộ, cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách do Bác dịch và viết về nhiều chủ đề. Bác cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phụ lão cứu quốc, hội nông dân cứu quốc,...
Tháng 5/1941, hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao Bằng và quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh). Bác là chủ tọa.
Ngày 13/8/1942, Bác lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được Bác tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân Bác sử dụng tên Hồ Chí Minh. Bác khai nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều".
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Bác bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29/8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và bị giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Bác viết “Nhật ký trong tù” trong thời gian này (từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943).
Sau khi được trả tự do ngày 10/9/1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội.
Cuối tháng 9/1944, Bác trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của Bác ở Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... đã quyết định tiến hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Bác ngăn chặn thành công quyết định này. Thay vào đó, Bác ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Bác trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Cuối năm 1944, Bác lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.
Ngay trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8/1945, Bác ốm nặng, tưởng không qua khỏi .
Ngày 16/8/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2/9/1945 trên quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngoài ra, Bác còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman, lãnh tụ Liên Xô Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…).
Ngày 23/9/1945, quân Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn cấp tập chống cự. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần Văn Giàu là chủ tịch. Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản thân Bác gửi thư khen ngợi "lòng kiên cường ái quốc của đồng bào Nam Bộ" .
Ngày 6/1/1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác cũng đảm nhiệm luôn công việc của thủ tướng.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Nhà nước và chính phủ của Bác đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối ngoại: không được các quốc gia trên thế giới công nhận; chịu sự đe dọa của quân Tưởng Giới Thạch, quân Nhật, Anh, Pháp;… "giặc đói, giặc dốt" - như chính cách Bác gọi - và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất.
Bởi thế, Bác chú trọng đến việc phát triển giáo dục, mà trước hết là xóa nạn mù chữ bằng cách mở các lớp học Bình dân học vụ. Tháng 9 năm 1945, nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi cho học trò Việt Nam.
Để diệt "giặc đói", ngoài việc kêu gọi tăng gia sản xuất, Bác đề nghị đồng bào "cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa" để đem số gạo tiết kiệm được cứu dân nghèo. Bản thân Bác gương mẫu thực hiện việc nhịn ăn để cứu đói này.
Để đối phó với giặc ngoại xâm, Bác thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Tháng 11/1945, Bác quyết định cho Đảng tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của Bác không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.
Bác kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền.
Với tư tưởng đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, Bác kêu gọi và thực hiện triệt để chính sách đại đoàn kết dân tộc bằng cách mời nhiều nhân sĩ, trí thức tham gia các Chính phủ và Quốc hội, tiêu biểu như: Bảo Đại, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Phan Anh v.v...
Ngày 31/5/1946, Bác lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này; cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành. Trước khi đi, Bác bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Huỳnh Thúc Kháng với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Tại Việt Nam, Bác dự đoán thời gian ở Pháp là "...có khi một tháng, có khi hơn" nhưng cuối cùng Bác ở Pháp 4 tháng (Hội nghị Fontainebleau diễn ra từ 6/7 tới 10/9/1946) mà không tránh khỏi thất bại chung cuộc.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngày 14/9/1946, Bác ký với đại diện chính phủ Pháp, bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet, bản Tạm ước, quy định đình chỉ chiến sự tại miền Nam, và thời gian tiếp tục đàm phán vào đầu năm 1947.
Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận được liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng chưa đầy một ngày, Bác kí lệnh kháng chiến. Tối ngày 19/12/1946, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” do Bác chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng ngày, kháng chiến bùng nổ.
Tháng 3/1947, Bác và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Bác kêu gọi nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại cũng là kháng chiến.
Đúng dịp Tết Nguyên đán Canh Dần năm 1950, Bác thực hiện một chuyến đi bí mật sang Trung Quốc, Liên Xô.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngày 2/1/1950, Bác cùng Trần Đăng Ninh, từ Tuyên Quang, rồi đi tiếp đến Long Châu, Quảng Tây. Đến đây, Hồ Chí Minh bắt được liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Văn phòng Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đã đón đoàn đi Nam Ninh, từ đó đến Bắc Kinh. Bác làm việc ở Bắc Kinh một tuần, sau đó cùng Trần Đăng Ninh đến Liên Xô. Chuyến đi bí mật này, Bác đã thành công ở cả hai phương diện chính trị và ngoại giao, đó là chuyến đi lịch sử làm tiền đề cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Liên Xô, giữa Việt Nam - Trung Quốc và các nước XHCN khác.
Ngày 11/3/1950, Hồ Chí Minh và ông Trần Đăng Ninh về đến Bắc Kinh, giữa tháng 4/1950, Bác mới về đến Tuyên Quang.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 được tổ chức vào trung tuần tháng 2/1951 tại Tuyên Quang, Bác quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này tên gọi không còn là Đảng Cộng sản nữa mà có tên mới là Đảng Lao động Việt Nam.
Cuộc Chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi thực dân Pháp bị đánh bại tại Điện Biên Phủ-sự kiện báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới - và dẫn đến Hiệp định Genève.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được phát động vào cuối năm 1953 tới cuối năm 1957. Dù đã "Đã đánh đổ được giai cấp địa chủ cùng bọn Việt gian phản động", cuộc cải cách này đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, Trước tình cảnh đó, từ tháng 2/1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán của cải cách bị cách chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, Bác khóc và nhận lỗi trước hội nghị toàn quốc.
Tháng 8/1957, một năm sau cuộc nổi dậy năm 1956 tại Hungary, Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam bỏ ra năm ngày thực hiện cuộc viếng thăm hữu nghị Cộng hoà Nhân dân Hungary.
Hai năm sau (1959), Bác tới thăm Bắc Kinh nhân dịp kỷ niệm 10 năm cách mạng Trung Quốc. Trong những cuộc đàm phán riêng, Bác nhận được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moskva để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng đã khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, Hồ Chí Minh được coi như chỉ còn nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng. Ông dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi đồng bào. Quyền lực khi này dần dần tập trung về tay bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao động Việt Nam, những người này đã chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam.
Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, Hồ Chí Minh được coi như chỉ còn nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng. Bác dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi đồng bào. Quyền lực khi này dần dần tập trung về tay bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao động Việt Nam, những người này đã chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp sinh nhật lần thứ 75 của mình vào ngày 10/5/1965, và sửa lại trong những dịp sinh nhật tiếp theo. Hồ Chí Minh qua đời vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2/9/1969 (tức ngày 21/7 âm lịch) tại thủ đô Hà Nội, hưởng thọ 79 tuổi. Ngày mất của Bác ban đầu được Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam công bố là ngày 3/9, đến năm 1989 mới công bố lại là ngày 2/9.
Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7/4/1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Sau đó ông theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành cùng huyện, ở bên kia dòng sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hiện nay được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành.
LÊ DUẨN (9/1960 – 7/1986)
Tháng 5/1926, ông làm ở Sở Hỏa xa Đà Nẵng.
Năm 1927, nhân viên thư ký đề pô Sở Hỏa xa Đông Dương tại Hà Nội.
Năm 1928, ông tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng.
Năm 1929, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1931, ông là Ủy viên Ban tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ.
Ngày 20/4/1931, ông bị thực dân Pháp bắt tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù, bị giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo.
Năm 1936, ông được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Kỳ. Năm 1937, làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ.
Năm 1939, ông được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939, tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6.
Năm 1940, bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được đón về đất liền.
LÊ DUẨN (9/1960 – 7/1986)
Năm 1946, ông được cử làm việc bên cạnh Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.
Từ 1946 đến 1954, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Chức vụ chính quyền của ông chỉ là Trưởng phòng dân quân, trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ do Nguyễn Bình làm Tư lệnh.
Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Năm 1952 ông ra Việt Bắc.
Từ 1954 đến 1957, ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo cách mạng miền Nam.
Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.
LÊ DUẨN (9/1960 – 7/1986)
Tại các Đại hội toàn quốc lần thứ IV (12/1976) và lần thứ V (3/1982), ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Ông cũng đảm nhiệm chức Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984.
Từ Đại hội V do sức khỏe yếu, Trung ương Đảng giao bớt một số quyền của ông cho Trường Chinh.
Ông là đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII.
Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương khác.
Ông qua đời ngày 10/7/1986 tại Hà Nội.
Ông sinh ngày 1/7/1915, mất ngày 27/4/1998, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, còn gọi là Mười Cúc, sinh tại H
Ông sinh ngày 1/5/1904 tại thành An Thổ, nay thuộc xã An Dân, huyện Tuy An, nơi cha ông là Trần Văn Phổ làm giáo thụ. Nguyên quán ở làng Tùng Sinh, nay thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1922, ông đỗ đầu kỳ thi Thành Chung (học vị cao nhất theo hệ Pháp đào tạo tại Việt Nam lúc bấy giờ).
Năm 1925, ông tham gia Hội Phục Việt tại Vinh, sau đó Hội đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng.
Năm 1926, ông sang Quảng Châu, Trung Quốc bàn việc hợp nhất với Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Năm 1927, ông sang Liên Xô, học ở trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh là Li-cơ-vây.
1928, dự Đại hội VI Quốc tế Cộng sản.
Ngày 11/10/1929, tòa án Nam triều ở Nghệ An xử án vắng mặt một số đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương trong đó có Trần Phú.
Tháng 4/1930, ông về nước và được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời của Đảng (tháng 7). Ông được giao soạn thảo Luận cương Chính trị về vấn đề cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương.
Tháng 10/1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Hương Cảng (Trung Quốc) đã thông qua bản Luận cương Chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức, ông được bầu Tổng Bí thư của Đảng.
Tháng 3/1931, ông chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 2 tại Sài Gòn bàn việc chấn chỉnh Đảng sau đợt khủng bố của địch. Hội nghị đã vạch ra nghị quyết về nhiệm vụ hiện tại của Đảng, nghị quyết về tổ chức của Đảng, nghị quyết về cổ động tuyên truyền.
TRẦN PHÚ (10/1930 – 4/1931)
Ngày 19/4/1931, ông bị thực dân Pháp bắt.
Ngày 6/9/1931, ông qua đời tại Nhà thương Chợ Quán ở tuổi 27 với lời nhắn nhủ bạn bè "Hãy giữ vững khí tiết chiến đấu".
Ngày 12/1/1999, hài cốt ông được di dời về an táng tại quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh. Mộ của ông được đặt trên đồi cao xã Tùng Ảnh, phía trước mộ là hàng chữ "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu"
TRẦN PHÚ (10/1930 – 4/1931)
Ông tên thật là Lê Huy Doãn, sinh năm 1902 trong một gia đình nghèo thuộc xóm Đông Cửa, thôn Đông Thông, tổng Thông Lạng, nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ cuộc sống ông đã bập bênh nhiều khó khăn.
LÊ HỒNG PHONG (3/1935 – 6/1936)
Khi trưởng thành, ông đi làm công cho một hãng buôn ở Vinh, rồi làm công nhân nhà máy diêm Bến Thủy và bị đuổi việc vì đã vận động công nhân đấu tranh. Tháng 1 năm 1924, ông cùng Phạm Hồng Thái sang Thái Lan, sau đó đi qua Hồng Kông, Trung Quốc tham gia Tâm Tâm Xã (còn gọi là Tân Việt Thanh niên Đoàn). Ông là một trong 9 hội viên hạt nhân của tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (còn gọi là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên).
Năm 1924, ông học Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 2 năm 1926, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cuối năm đó, ông tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố.
Từ tháng 10/1926 đến tháng 10/1927, ông sang học trường Lý luận Quân sự tại Leningrad (Liên Xô). Từ tháng 12/1927 đến tháng 11/1928, ông học trường Không quân số 2 ở Borisoglebsk (Liên Xô).
Từ tháng 12/1928, ông theo học trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva (Liên Xô) với bí danh Litvinov. Sau khi tốt nghiệp, ông tham gia Hồng quân Liên Xô với cấp bậc Trung tá.
Cuối năm 1931, với tên là Vương Nhật Dân, ông về Trung Quốc hoạt động.
Năm 1932, ông tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng cộng sản ở trong nước nhằm khôi phục phong trào và thảo chương trình hành động của đảng trong tình hình đảng bị tổn thất nặng nề trước đó.
LÊ HỒNG PHONG (3/1935 – 6/1936)
Năm 1934, ông thành lập Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng tại Ma Cao, chính ông làm Bí thư.
Ngày 14/6/1934, ông triệu tập Hội nghị Ban Chỉ huy Hải ngoại và đại biểu các đảng bộ trong nước bàn kế hoạch triệu tập Đại hội lần thứ nhất của Đảng.
LÊ HỒNG PHONG (3/1935 – 6/1936)
Tháng 3/1935, tại Đại hội I của Đảng ở Ma Cao, ông được bầu làm Tổng Bí thư. Tháng 7 tháng 1935, ông dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng ra dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ở Moskva. Đại hội công nhận Đảng là Chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản và bầu ông làm Ủy viên Ban Chấp hành của Quốc tế Cộng sản.
Tháng 1/1936, ông tới Trung Quốc và triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng tại Thượng Hải (tháng 7 năm 1936).
Ngày 10/11/1937, với tên là La Anh, ông về nước hoạt động.
Tháng 3/1938, ông dự Hội nghị Trung ương họp tại Hóc Môn (Gia Định) quyết định thành lập "Mặt trận Dân chủ Đông Dương".
Ngày 22/6/1939, ông bị quân Pháp bắt lần thứ nhất ở Sài Gòn và bị kết án 6 tháng tù.
LÊ HỒNG PHONG (3/1935 – 6/1936)
Ngày 6/2/1940, ông bị bắt lần thứ hai, bị kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo.
Ngày 6/9/1942, ông qua đời trong lúc ở trong tù tại Côn Đảo.
Ngoài ra, về gia đình thì ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Minh Khai, một nữ đồng chí cùng học tại Đại học Phương Đông. Hai người có chung một người con gái.
Ông sinh ngày 24/4/1906, mất ngày 28/8/1941
Ông sinh ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ là một nhà nho nghèo. Hà Huy Tập là con thứ hai, sau ông còn 3 em gái, một người có tên là Hà Thị Chuốt mất từ hồi nhỏ. Còn lại Hà Thị Chước, người em gái kề ông, lấy chồng ở quê có tên là Nguyễn Đình Cương cũng hoạt động cùng thời với ông và là đảng viên Cộng sản thời kỳ 1930-1931.
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Năm 1923, tốt nghiệp hạng ưu trường Quốc học Huế. Từ năm 1923 đến 1926, ông làm giáo viên tiểu học ở thành phố Nha Trang.
Giữa năm 1926, ông bị trục xuất khỏi Nha Trang và chuyển về dạy học ở trường tiểu học Cao Xuân Dục (thành phố Vinh). Ông tham gia Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam, tiền thân của Tân Việt Cách mạng Đảng) nên bị sa thải.
Tháng 3/1927, ông chuyển vào Sài Gòn hoạt động, kiếm sống và dạy học ở An Nam học đường tức trường Nguyễn Xích Hồng, đến tháng 1 năm 1928 ông lại bị sa thải khỏi An Nam học đường.
Tháng 12 năm 1928, ông sang Quảng Châu, Trung Quốc bàn việc hợp nhất với tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội rồi hoạt động trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Ngày 19/7 năm 1929, ông sang Liên Xô, học trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh là Cinichkin (Xi-nhi-trơ-kin).
Cuối năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản toàn liên bang (bôn-sê-vích) (tên gọi lúc đó của Đảng Cộng sản Liên Xô).
Năm 1932, ông tốt nghiệp đại học và trở về Việt Nam. Trên đường về ông bị Pháp bắt và bị trục xuất sang Bỉ, sau đó trở về Trung Quốc.
Năm 1934, ông tham gia Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ông trực tiếp chủ trì Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng tại Ma Cao từ 27/3 đến 31/3 năm 1935. Tại Đại hội này, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và có chân trong Ban Thường vụ Trung ương.
Tháng 3/1935, ông được cử làm Bí thư Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương.
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Tháng 7/1936, Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương cử ông về nước để lập lại Trung ương cấp ủy và và giữ chức Tổng Bí thư từ ngày 26/7. (Chức Tổng Bí thư của ông mới được công nhận trong thời gian gần đây, nhưng thời gian ông giữ chức vụ này cũng không được ghi thống nhất. Có tài liệu ghi ông "lãnh đạo Ban chấp hành Trung ương trên cương vị Tổng Bí thư" từ Đại hội lần thứ nhất của Đảng, tháng 3/1935.)
Ông trực tiếp chỉ đạo các báo L`Avant garde (Tiền phong) (1937), Dân chúng (1938) của Đảng dưới danh nghĩa "cơ quan lao động và dân chúng" ở Nam Kỳ.
Từ 3 tháng 9 đến 5 tháng 9 năm 1937, Hội nghị Trung ương họp ở Bà Điểm, Gia Định, ông báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của đảng từ sau Đại hội I đến năm 1937.
Tháng 3 năm 1938, ông thôi chức Tổng Bí thư, là Ủy viên Thường vụ Trung ương và thành viên Ban Bí thư Trung ương Đảng.
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Ngày 1/5/1938, ông bị quân Pháp bắt tại Sài Gòn, sau đó bị quản thúc ở quê.
Ngày 30/3/1940 ông bị bắt lại và ngày 25 tháng 10 năm đó, ông bị thực dân Pháp xử tuyên án 5 năm tù giam.
Ngày 25/3/1941, Pháp đổi thành án tử hình vì "chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ" (cùng bị kết án tử hình với Hà Huy Tập còn có Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai). Trước tòa ông tuyên bố: "Tôi chẳng có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống tôi sẽ tiếp tục hoạt động."
Ngày 28 tháng 8 năm 1941, ông bị Pháp xử bắn cùng với một số nhà cách mạng khác tại Sở Rác (nay là bệnh viện Hóc Môn, Sài Gòn). (Có tài liệu nói là ông và các đồng chí bị xử bắn ở Ngã Ba Giồng, Hóc Môn, Gia Định, hiện nay có khu di tích tại đây.)
HÀ HUY TẬP (7/1936 – 3/1938)
Ngày 22 tháng 11 năm 2009, hài cốt của ông được phát hiện tại khu vực Bến Tắm Ngựa thuộc xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 1 tháng 12 cùng năm, lễ viếng và truy điệu linh cữu ông được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh, đã có nhiều quan chức lãnh đạo của đảng và hàng trăm đoàn đại biểu từ các nơi đến chờ viếng. Sau đó, linh cữu ông được đưa về an táng tại huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông sinh ngày 9/7/1912, mất ngày 28/8/1941
Ông sinh trong một gia đình nhà Nho, quê xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1927, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
NGUYỄN VĂN CỪ (3/1938 – 1/1940)
Tháng 6/1929, ông được kết nạp vào chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng đầu tiên ở Hà Nội. Năm 1930, được cử làm Bí thư đặc khu Hồng Gai – Uông Bí. Bị Pháp bắt, kết án khổ sai, đày đi Côn Đảo.
Năm 1936, ông được trả tự do, về hoạt động bí mật ở Hà Nội. Tháng 9 năm 1937, được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở hội nghị Hóc Môn (Gia Định). Năm 1938, ông được bầu làm Tổng bí thư khi mới 26 tuổi.
Tháng 6 năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn cùng với một số đảng viên khác.
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), thực dân Pháp ghép ông vào tội đã thảo ra "Nghị quyết thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương", "chủ trương bạo động" và là "người có trách nhiệm tinh thần trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ" và kết án tử hình.
NGUYỄN VĂN CỪ (3/1938 – 1/1940)
Ngày 28 tháng 8 năm 1941, bản án được thi hành cùng lúc với một số đảng viên cộng sản khác như Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu... tại trường bắn Hóc Môn.
Ông tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9/2/1907, ở thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ ông là cụ Đặng Xuân Viện, là một nhà nho không thành đạt trong đường khoa bảng, là một thành viên trong nhóm Nam Việt đồng thiên hội, là người biên soạn bộ Minh đô sử (gồm 100 quyển đóng thành sách).
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Do truyền thống gia đình, được sự giáo dục của thân phụ, từ nhỏ, ông đã làm quen với Tứ thư, Ngũ kinh, thơ Đường và được đào tạo bài bản về văn hóa và lịch sử theo truyền thống Nho học. Khi lớn lên, ông bắt đầu tiếp xúc Tây học và theo học bậc Thành chung tại Nam Định.
Chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của thân phụ, từ năm 1925, khi còn là còn học ở bậc Thành Chung, ông đã tham gia phong trào đấu tranh đòi ân xá cho Phan Bội Châu, lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu Phan Chu Trinh. Năm 1926, ông bị trường đuổi học.
Năm 1927, ông chuyển lên Hà Nội, tiếp tục học ở trường Cao đẳng Thương mại và tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1929, ông tham gia cuộc vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ và trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của đảng này.
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Năm 1930, ông được chỉ định vào Ban tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm này, ông bị Pháp bắt và kết án 12 năm tù và đày đi Sơn La, đến năm 1936 được trả tự do.
Giai đoạn 1936–1939, ông là Xứ Ủy viên Bắc Kỳ, đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương trong Ủy ban Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ. Năm 1940, ông được cử làm chủ bút báo Cờ giải phóng, cơ quan của Xứ ủy Bắc Kỳ, kiêm phụ trách các tờ báo tiếng Pháp như Le Travail, Rassemblement, En Avant và báo Tin tức.
Tại Hội nghị Trung ương 7 họp tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh từ ngày 6 đến ngày 9/11/1940, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được cử làm Quyền Tổng Bí thư Đảng thay Nguyễn Văn Cừ.
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Tháng 5 năm 1941, tại Hội nghị Trung ương 8 họp tại Cao Bằng, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, kiêm Trưởng Ban tuyên huấn Trung ương. Năm 1943, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt.
Tháng 3 năm 1945, ông triệu tập và chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị nổi tiếng "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Trong giai đoạn chuẩn bị Cách mạng tháng Tám 1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng, ông được cử phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Cuối năm 1945, nhằm mục đích tránh những bất lợi về chính trị và tạo điều kiện thuận lợi hơn trong chỉ đạo phong trào Việt Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật nên tuyên bố tự giải tán, chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương do ông làm Hội trưởng.
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Khi cuộc cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, để xác định mục tiêu và cổ vũ tinh thần cho những người kháng chiến, ông đã viết loạt bài báo nổi tiếng với tựa đề “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, đăng trên báo "Sự thật" từ số 70 (4/3/1947) đến số 81 (1/8/1947). Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: "Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận với cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi, là do anh Trường Chinh".
Năm 1951, tại Đại hội lần thứ 2 của Đảng, [đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam], ông được bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương và giữ chức Tổng Bí thư cho đến tháng 10/1956.
Năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Đến năm 1960, ông lại được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị. Cũng trong năm này, ông được Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu làm Chủ tịch Quốc hội và đến năm 1976, giữ chức vụ này trong Quốc hội Việt Nam thống nhất cho đến năm 1981.
TRƯỜNG CHINH (5/1941 – 9/1956)
Năm 1981, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Ngày 14/7/1986, tại Hội nghị đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam thay cho Lê Duẩn vừa mất.
Tháng 12/1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, ông rút khỏi các chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước và được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Sao vàng và nhiều Huân chương khác. Ông qua đời ngày 30/9/1988 , thọ 81 tuổi.
Bác sinh ngày 19/5/1890, mất ngày 2/9/1969. Bác tên thật là Nguyễn Sinh Cung, tự là Tất Thành. Quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Bác được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên Nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Thân phụ Bác là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng với gia đình chuyển vào Huế lần thứ nhất, khi ông Nguyễn Sinh Sắc vào Kinh thi hội. Từ cuối năm 1895 đến đầu năm 1901, Nguyễn Sinh Cung sống cùng cha mẹ tại Huế, ở nhờ nhà một người quen ở trong thành nội (nay là số nhà 112, đường Mai Thúc Loan). Đó là những năm tháng gia đình ông Sắc sống trong cảnh gieo neo, thiếu thốn. Bà Hoàng Thị Loan làm nghề dệt vải, còn ông Sắc ngoài thời gian học, phải đi chép chữ thuê để kiếm sống, để học và dự thi.
Năm 1898, ông Nguyễn Sinh Sắc dự thi hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình càng thêm chật vật khó khăn. Gần cuối năm 1898, theo lời mời của ông Nguyễn Sĩ Độ, ông Nguyễn Sinh Sắc về dạy học cho một số học sinh ở làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế 6 km. Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha về đây và bắt đầu học chữ Hán tại lớp học của cha.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Cuối năm 1900, ông Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở trường thi hương Thanh Hoá. Bác đưa Nguyễn Sinh Khiêm đi cùng, còn Nguyễn Sinh Cung thì về sống với mẹ trong nội thành Huế. Bà Loan sinh bé Xin trong hoàn cảnh khó khăn túng thiếu nên lâm bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu sau, bé Xin quá yếu cũng theo mẹ. Mới 11 tuổi Nguyễn Sinh Cung đã chịu nỗi đau mất mẹ và em.
Tháng 5/1901, ông Nguyễn Sinh Huy đậu Phó bảng khoa thi hội Tân Sửu. Khoảng tháng 9/1901, Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển về sống ở quê nội. Bác Nguyễn Sinh Huy làm lễ vào làng cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).
Tháng 9/1907, Bác vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5/1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Cha Bác bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Bác quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Bác dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, Bác nghỉ dạy và vào Sài Gòn cũng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, Bác theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son ( bây giờ là trường Cao Đẳng kỹ thuật Cao Thắng ). Ở đây, Bác học được 3 tháng. Sau đó Bác quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngày 5/6/1911, từ Bến Nhà Rồng, Bác lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Ngày 6/7/1911, tàu cập cảng Marseilles, Pháp. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), Bác quay trở lại nước Anh và sống bằng nhiều nghề lao động. Cuối năm 1917, Bác trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngày 18/6/1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị. Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó Bác đi theo chủ nghĩa cộng sản. Bác tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30/12/1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, Bác trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Năm 1921, Bác cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc.
Năm 1922, Bác cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông. Tại đây Bác đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15/10/1923), Bác được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Đệ Tam Quốc tế (họp từ ngày 17/6 đến ngày 8/7 năm 1924), Bác được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.
Năm 1925, Bác thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam. Cuốn Đường Cách mệnh, mà Bác là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.
Cùng năm 1925, Bác tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và Bác làm bí thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, Bác rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô. Tháng 11 năm 1927, Bác được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12/12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Mùa thu 1928, Bác từ châu Âu đến Xiêm La, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều tại Xiêm.
Cuối năm 1929, Bác rời khỏi Vương quốc Xiêm La và sang Trung Quốc.
Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long, Hương Cảng, Bác thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam").
Tháng 3 năm 1930, Bác trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Nhưng sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby, Tống Văn Sơ được thả ngày 28/12/1932. Bác đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Năm 1938, Bác trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938.
Bác trở về Việt Nam vào ngày 28/1/1941, ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Tại đây, Bác mở các lớp huấn luyện cán bộ, cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách do Bác dịch và viết về nhiều chủ đề. Bác cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phụ lão cứu quốc, hội nông dân cứu quốc,...
Tháng 5/1941, hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao Bằng và quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh). Bác là chủ tọa.
Ngày 13/8/1942, Bác lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được Bác tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân Bác sử dụng tên Hồ Chí Minh. Bác khai nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều".
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Bác bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29/8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và bị giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Bác viết “Nhật ký trong tù” trong thời gian này (từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943).
Sau khi được trả tự do ngày 10/9/1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội.
Cuối tháng 9/1944, Bác trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của Bác ở Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... đã quyết định tiến hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Bác ngăn chặn thành công quyết định này. Thay vào đó, Bác ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Bác trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Cuối năm 1944, Bác lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.
Ngay trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8/1945, Bác ốm nặng, tưởng không qua khỏi .
Ngày 16/8/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2/9/1945 trên quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngoài ra, Bác còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman, lãnh tụ Liên Xô Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…).
Ngày 23/9/1945, quân Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn cấp tập chống cự. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần Văn Giàu là chủ tịch. Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản thân Bác gửi thư khen ngợi "lòng kiên cường ái quốc của đồng bào Nam Bộ" .
Ngày 6/1/1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác cũng đảm nhiệm luôn công việc của thủ tướng.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Nhà nước và chính phủ của Bác đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối ngoại: không được các quốc gia trên thế giới công nhận; chịu sự đe dọa của quân Tưởng Giới Thạch, quân Nhật, Anh, Pháp;… "giặc đói, giặc dốt" - như chính cách Bác gọi - và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất.
Bởi thế, Bác chú trọng đến việc phát triển giáo dục, mà trước hết là xóa nạn mù chữ bằng cách mở các lớp học Bình dân học vụ. Tháng 9 năm 1945, nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi cho học trò Việt Nam.
Để diệt "giặc đói", ngoài việc kêu gọi tăng gia sản xuất, Bác đề nghị đồng bào "cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa" để đem số gạo tiết kiệm được cứu dân nghèo. Bản thân Bác gương mẫu thực hiện việc nhịn ăn để cứu đói này.
Để đối phó với giặc ngoại xâm, Bác thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Tháng 11/1945, Bác quyết định cho Đảng tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của Bác không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.
Bác kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền.
Với tư tưởng đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, Bác kêu gọi và thực hiện triệt để chính sách đại đoàn kết dân tộc bằng cách mời nhiều nhân sĩ, trí thức tham gia các Chính phủ và Quốc hội, tiêu biểu như: Bảo Đại, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Phan Anh v.v...
Ngày 31/5/1946, Bác lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này; cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành. Trước khi đi, Bác bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Huỳnh Thúc Kháng với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Tại Việt Nam, Bác dự đoán thời gian ở Pháp là "...có khi một tháng, có khi hơn" nhưng cuối cùng Bác ở Pháp 4 tháng (Hội nghị Fontainebleau diễn ra từ 6/7 tới 10/9/1946) mà không tránh khỏi thất bại chung cuộc.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngày 14/9/1946, Bác ký với đại diện chính phủ Pháp, bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet, bản Tạm ước, quy định đình chỉ chiến sự tại miền Nam, và thời gian tiếp tục đàm phán vào đầu năm 1947.
Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận được liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng chưa đầy một ngày, Bác kí lệnh kháng chiến. Tối ngày 19/12/1946, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” do Bác chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng ngày, kháng chiến bùng nổ.
Tháng 3/1947, Bác và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Bác kêu gọi nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại cũng là kháng chiến.
Đúng dịp Tết Nguyên đán Canh Dần năm 1950, Bác thực hiện một chuyến đi bí mật sang Trung Quốc, Liên Xô.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Ngày 2/1/1950, Bác cùng Trần Đăng Ninh, từ Tuyên Quang, rồi đi tiếp đến Long Châu, Quảng Tây. Đến đây, Hồ Chí Minh bắt được liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Văn phòng Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đã đón đoàn đi Nam Ninh, từ đó đến Bắc Kinh. Bác làm việc ở Bắc Kinh một tuần, sau đó cùng Trần Đăng Ninh đến Liên Xô. Chuyến đi bí mật này, Bác đã thành công ở cả hai phương diện chính trị và ngoại giao, đó là chuyến đi lịch sử làm tiền đề cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Liên Xô, giữa Việt Nam - Trung Quốc và các nước XHCN khác.
Ngày 11/3/1950, Hồ Chí Minh và ông Trần Đăng Ninh về đến Bắc Kinh, giữa tháng 4/1950, Bác mới về đến Tuyên Quang.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 được tổ chức vào trung tuần tháng 2/1951 tại Tuyên Quang, Bác quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này tên gọi không còn là Đảng Cộng sản nữa mà có tên mới là Đảng Lao động Việt Nam.
Cuộc Chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi thực dân Pháp bị đánh bại tại Điện Biên Phủ-sự kiện báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới - và dẫn đến Hiệp định Genève.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được phát động vào cuối năm 1953 tới cuối năm 1957. Dù đã "Đã đánh đổ được giai cấp địa chủ cùng bọn Việt gian phản động", cuộc cải cách này đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, Trước tình cảnh đó, từ tháng 2/1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán của cải cách bị cách chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, Bác khóc và nhận lỗi trước hội nghị toàn quốc.
Tháng 8/1957, một năm sau cuộc nổi dậy năm 1956 tại Hungary, Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam bỏ ra năm ngày thực hiện cuộc viếng thăm hữu nghị Cộng hoà Nhân dân Hungary.
Hai năm sau (1959), Bác tới thăm Bắc Kinh nhân dịp kỷ niệm 10 năm cách mạng Trung Quốc. Trong những cuộc đàm phán riêng, Bác nhận được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moskva để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng đã khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, Hồ Chí Minh được coi như chỉ còn nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng. Ông dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi đồng bào. Quyền lực khi này dần dần tập trung về tay bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao động Việt Nam, những người này đã chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam.
Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, Hồ Chí Minh được coi như chỉ còn nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng. Bác dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi đồng bào. Quyền lực khi này dần dần tập trung về tay bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao động Việt Nam, những người này đã chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam.
HỒ CHÍ MINH (10/1956 – 1960)
Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp sinh nhật lần thứ 75 của mình vào ngày 10/5/1965, và sửa lại trong những dịp sinh nhật tiếp theo. Hồ Chí Minh qua đời vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2/9/1969 (tức ngày 21/7 âm lịch) tại thủ đô Hà Nội, hưởng thọ 79 tuổi. Ngày mất của Bác ban đầu được Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam công bố là ngày 3/9, đến năm 1989 mới công bố lại là ngày 2/9.
Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7/4/1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Sau đó ông theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành cùng huyện, ở bên kia dòng sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hiện nay được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành.
LÊ DUẨN (9/1960 – 7/1986)
Tháng 5/1926, ông làm ở Sở Hỏa xa Đà Nẵng.
Năm 1927, nhân viên thư ký đề pô Sở Hỏa xa Đông Dương tại Hà Nội.
Năm 1928, ông tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng.
Năm 1929, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1931, ông là Ủy viên Ban tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ.
Ngày 20/4/1931, ông bị thực dân Pháp bắt tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù, bị giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo.
Năm 1936, ông được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Kỳ. Năm 1937, làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ.
Năm 1939, ông được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939, tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6.
Năm 1940, bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được đón về đất liền.
LÊ DUẨN (9/1960 – 7/1986)
Năm 1946, ông được cử làm việc bên cạnh Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.
Từ 1946 đến 1954, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Chức vụ chính quyền của ông chỉ là Trưởng phòng dân quân, trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ do Nguyễn Bình làm Tư lệnh.
Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Năm 1952 ông ra Việt Bắc.
Từ 1954 đến 1957, ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo cách mạng miền Nam.
Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.
LÊ DUẨN (9/1960 – 7/1986)
Tại các Đại hội toàn quốc lần thứ IV (12/1976) và lần thứ V (3/1982), ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Ông cũng đảm nhiệm chức Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984.
Từ Đại hội V do sức khỏe yếu, Trung ương Đảng giao bớt một số quyền của ông cho Trường Chinh.
Ông là đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII.
Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương khác.
Ông qua đời ngày 10/7/1986 tại Hà Nội.
Ông sinh ngày 1/7/1915, mất ngày 27/4/1998, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, còn gọi là Mười Cúc, sinh tại H
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thị Yến
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)