Các đế chế tồn tại lâu đời nhất.ppt

Chia sẻ bởi Phạm Huy Hoạt | Ngày 27/04/2019 | 82

Chia sẻ tài liệu: Các đế chế tồn tại lâu đời nhất.ppt thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

CÁC ĐẾ CHẾ
tồn tại lâu đời nhất thế giới

PHH Sưu tầm tổng hợp
Phần I
10 ĐẾ CHẾ
tồn tại lâu đời nhất
Đế chế La Mã không chỉ là một trong những đế chế nổi tiếng nhất mà còn tồn tại lâu đời nhất trong lịch sử. Nó kéo dài từ năm 27 trước công nguyên - năm 1453 sau công nguyên. Tổng cộng, triều đại này tồn tại trong khoảng thời gian 1.480 năm. Đế chế này mở rộng lãnh thổ ra cả vùng đất của Ytalya hiện nay và phần lớn khu vực Địa Trung Hải. 
1.Đế chế La Mã (1.480 năm)
*Đế chế Tây La Mã
*Đế chế Đông La Mã
(Byzantine)
Đế chế Tây La Mã bước vào thời kỳ đỉnh cao nhất là năm 476 trước công nguyên khi lật đổ được ách thống trị của hoàng đế Romulus Augustus.
Đế chế Đông La Mã tiếp tục bước vào thời kỳ hào quang kể từ sau năm 476 sau công nguyên. Nó được các sử gia ngày nay gọi là Đế chế Byzantine. Trong khoảng thời gian từ năm 1341 trước công nguyên - 1347 trước công nguyên. Sau đó, đế chế Ottoman đã lật đổ được đế chế La Mã vào năm 1453 trước công nguyên. 
2. Đế chế Kush
(1420 năm)

Đế chế Kush tồn tại từ năm 1070 trước công nguyên đến khoảng năm 350 sau công nguyên. Các nhà sử học, khoa học tìm được rất ít thông tin về chính trị thuộc đế chế này. Họ chỉ tìm được rất ít tài liệu về chế độ quân chủ mà đế chế này theo đuổi vào những năm cuối cùng.
Lãnh thổ Kush
Vùng đất mà đế chế này Kiểm soát hiện là lãnh thổ của Xu-dang và 1 phần Xô-Ma-ly ngày nay.
3. Đế chế Venetian (1.100 năm)
Niềm tự hào của Đế chế Venetian là sở hữu lực lượng hải quân khổng lồ cho phép quốc gia này bành trướng lãnh thổ trên khắp châu Âu và Địa Trung Hải. Cuối cùng, đế chế này chinh phục các vùng đất có ý nghĩa lịch sử quan trọng như Síp và Crete.
Venetian đã tồn tại trong khoảng thời gian 1.100 năm (từ năm 697 sau công nguyên - 1797 sau công nguyên). Vùng đất mà đế chế này từng đóng đô hiện là lãnh thổ của Cộng hòa Venice.
Năm 1797, Napoleon đã đem quân tiêu diệt và nắm quyền kiểm soát đế chế này. Không giống như các đế chế khác bị lụi tàn bởi những cuộc nội chiến, Venetian sụp đổ do xảy ra chiến tranh với các nước láng giềng. Thêm vào đó, đế chế này lại quá tự mãn về lực lượng hải quân của mình nên đã phân bố lực lượng quá mỏng, khiến kẻ địch dễ dàng chọc thủng hàng rào phòng thủ.
Cộng hòa Venice
 4. Đế chế Silla (992 năm)
Đế chế Silla bắt đầu được hình thành từ năm 57 trước công nguyên và hiện nay là lãnh thổ của Triều Tiên và Hàn Quốc. Kin Park Hyeokgeose là người đầu tiên cai trị vùng đất này. Đế chế Silla liên tục mở rộng lãnh thổ và chinh phục một số quốc gia khác trên bán đảo Triều Tiên.
Silla dịch âm Hán Việt là Tân La (57 TCN – 935 CN) là một trong số các triều đại duy trì liên tục lâu nhất trong lịch sử châu Á.
Đến thế kỷ VII, đế chế này xảy ra giao tranh với triều đại nhà Đường (Trung Quốc) tại quốc gia Goryeo. Trong cuộc chiến đó, Silla vẫn bảo vệ được vùng lãnh thổ ấy.
Đế chế Silla đã tan rã nhanh chóng vào thời Hậu Tam Quốc, chuyển giao quyền lãnh đạo cho triều đại Cao Ly vào năm 935
Tuy nhiên, cuộc nội chiến kéo dài một thế kỷ giữa những triều thần cấp cao đã dẫn đến sự diệt vong của đế chế Silla. Đến năm 935 sau công nguyên, đế chế này trở thành một phần lãnh thổ của Goryeo-Mãn Châu TQ ngày nay.
5. Đế chế
La Mã thần thánh - Holy Roman
(Gần 900 năm)
Đế chế La Mã thần thánh tồn tại từ năm 962 trước công nguyên - 1806 trước công nguyên. Lãnh thổ của đế chế này chủ yếu bao gồm khu vực trung tâm châu Âu, đặc biệt là phần lớn nước Đức. Đế chế này được khai sinh kể từ khi Otto I tuyên bố là vua của nước Đức. Sau này, ông được mọi người biết đến là vị vua đầu tiên của Đế chế La Mã thần thánh.
Đế chế La Mã thần thánh được tạo thành từ khoảng 300 vùng lãnh thổ. Sau “cuộc chiến tranh 30 năm” diễn ra vào năm 1648, đế chế này bị phân chia và tách ra thành nhiều quốc gia độc lập. Năm 1792, Pháp cũng nổi dậy. Năm 1806, Napoleon Bonaparte đã lật đổ hoàng đế cuối cùng của Đế chế La Mã thần thánh là Francis II khiến ông phải thoái vị. Sau đó, khu vực này được tổ chức lại giống như Liên bang sông Rhine.
Lãnh thổ ĐC
La Mã thần thánh
Đế chế Kanem (>670 năm)
Đế chế Kanem được thành lập vào khoảng năm 700 đến năm 1376. Lãnh thổ Kanem trải rộng trên vùng đất Chad, Libya và một phần của Nigeria ngày nay.
Lịch sử của đế quốc được phân chia thành hai triều đại khác nhau, Duguwa và Sayfawa. Quá trình mở rộng lãnh thổ của vương quốc kéo dài liên tục nhờ vào các cuộc thánh chiến chống lại tất cả các bộ tộc xung quanh.
Quân đội của Đế chế Kanem

Hệ thống quân đội thời đó do tầng lớp quý tộc lãnh đạo và được truyền theo kiểu “cha truyền con nối”. Chính vì vậy, nó đã làm suy yếu hệ thống quyền lực của Đế chế Kanem và dẫn đến cuộc nội chiến.
Sau đó, Bulala đã xâm lược và nhanh chóng chiếm được N`jimi năm 1376. Cuối cùng, Bulala đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ đế chế Kanem.
7. Đế chế Ethiopia (>700 năm)
Đế chế này bắt đầu vào khoảng năm 1270 sau công nguyên khi triều đại Solomonid lật đổ triều đại Zagwe. Khi đó, Solomonid đã tuyên bố sở hữu những vùng đất được cho là của vua Solomon.
Mãi cho đến năm 1895, khi người Italy tuyên chiến với đế chế Ethiopia và đế chế này bắt đầu lung lay. Trong thời gian từ năm 1936-1941, Italy đã nắm quyền cai trị đất nước. Ethiopia có nguồn tài nguyên mà nhiều quốc gia hùng mạnh muốn sở hữu đó là cà phê. Những cuộc chiến tranh dân sự đã góp phần khiến đế chế này suy yếu và sụp đổ hoàn toàn.
Năm 1935, Benito Mussolini đã ra lệnh cho binh sĩ Italy xâm lược Ethiopia. Cuộc chiến đó kéo dài trong 7 tháng và phần thắng thuộc vể người Italy.
8. Đế chế Khmer
(630 năm)

Có rất ít thông tin về đế chế Khmer, nhưng cố đô Angkor - nổi tiếng Angkor Wat - một trong những di tích tôn giáo lớn nhất thế giới. Công trình này được xây dựng trong thời kỳ đỉnh cao của đế chế Khmer. Đế chế Khmer bắt đầu vào khoảng năm 802 trước công nguyên khi Jayavarman II tuyên bố bản thân là quốc vương trong khu vực mà bây giờ gọi là Campuchia. Đế chế này tồn tại suốt 630 năm và bị lụi tàn vào năm 1432.
Hầu hết, các triều đại của đế chế này đều thực hiện những cuộc chiến tranh để bảo vệ và mở rộng lãnh thổ. Angkor trở thành nơi đóng thành trì của đế chế này vào nửa cuối triều đại. Sau đó, những nền văn minh lân cận đã chiến đấu để kiểm soát Angkor khi quyền lực của đế chế Khmer bắt đầu suy yếu.
Về việc suy tàn của đế chế Khmer, 1 số người cho rằng, một vị vua đã thông qua Phật giáo tiểu thừa để thống trị đất nước, dẫn đến sự suy yếu. Số khác lại cho rằng, vương quốc Thái Lan Sukhothai đã chinh phục Angkor vào những năm 1400.  
9. Đế chế Ottoman
(623 năm)
Ở thời kỳ đỉnh cao, Đế chế Ottoman thống trị trên 3 châu lục và bao gồm nhiều nền văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ. Mặc dù có những khác biệt nhưng đế chế này quản lý các vùng thuộc địa phát triển thịnh vượng trong suốt 623 năm (từ năm 1299 trước công nguyên - 1922 trước công nguyên).
Khởi phát của đế chế Ottoman là một quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ nhỏ bé sau khi Đế chế Byzantine suy yếu và rút khỏi khu vực này. Sau đó, đế chế Ottoman ngày càng mở rộng lãnh thổ thông qua hệ thống tư pháp, giáo dục, quân sự mạnh mẽ cũng như sở hữu phương pháp chuyển giao quyền lực độc đáo. Lạm phát, cạnh tranh và thất nghiệp là những nhân tố then chốt khiến đế chế Ottoman sụp đổ.
10. Đế chế Bồ Đào Nha (584 năm)
Đế chế này tồn tại trong suốt 584 năm. Đây là đế chế “phủ sóng” toàn cầu đầu tiên trong lịch sử, trải dài 4 châu lục. Sự việc bắt đầu vào năm 1415 khi người Bồ Đào Nha chinh phục được Cueta - một thành phố Hồi giáo ở Bắc Phi. Sau đó, họ tiếp tục mở rộng lãnh thổ ở châu Phi, Ấn Độ, châu Á và cuối cùng là châu Mỹ.
Đế chế Bồ Đào Nha được mọi người biết đến với việc sở hữu một trong những lực lượng hải quân mạnh nhất thế giới. Một trong những điều mà con người ít biết đến về đế chế này là những di tích cuối cùng của triều đại này còn sót lại trên Trái đất cho đến năm 1999.
Sau Chiến tranh thế giới II, nhiều nýớc châu Âu đấu tranh thoát khỏi sự cai trị của đế chế Bồ Đào Nha. Mãi cho đến năm 1999, Bồ Đào Nha mới mất quyền kiểm soát Macau về tay Trung Quốc, báo hiệu sự kết thúc của đế chế hùng mạnh này.
3 ĐẾ CHẾ CẬN ĐẠI
VÀ HIỆN ĐẠI
Sẽ là thiếu sót nếu kể ra các “Đế chế tồn tại lâu đời nhất” mà không điểm đến 3 Đế chế cận đại và hiện đại này : Đế quốc Anh, Đế quốc Nga và Đế chế Trung hoa
Xác định chính xác thời gian tồn tại của các đế chế hải dương ở Tây Âu không phải là việc dễ dàng bởi tồn tại nhiều thời điểm khác nhau có thể được dùng để tính nguồn gốc ra đời và thời gian tồn tại của các đế chế này.
Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định các đế chế Anh, Hà Lan, Pháp và Tây Ban Nha đều tồn tại trong khoảng thời gian 300 năm. Quãng đời của đế chế Bồ Đào Nha dài hơn, gần 500 năm. -
Điều đáng chú ý nhất về các đế chế từng tồn tại trong lịch sử chính là sự đa dạng rất lớn về niên đại cũng như sự bành trướng về mặt lãnh thổ. Điểm đặc biệt nổi bật chính là việc các đế chế thời hiện đại ra đời gần đây nhất có vòng đời ngắn hơn một cách đáng kể so với những đế chế thời cổ đại và tiền hiện đại.
Đế chế Tây La Mã ra đời từ năm 27 trước Công nguyên khi Octavian lấy tên Caesar Augustus và trở thành hoàng đế trên mọi phương diện trừ tên gọi. Đế chế này tồn tại trong 422 năm và sụp đổ khi Constantinople được lập nên ở phía Đông làm kinh đô đối địch và Hoàng đế Theodosius băng hà vào năm 395. Đế chế Đông La Mã tồn tại kể từ đó đến năm 1453 khi Byzantium bị cướp phá bởi người Thổ của đế chế Ottoman, tổng cộng 1.058 năm. Đế chế La Mã Thần thánh – đế chế kế vị của Đế chế Tây La Mã – tồn tại từ năm 800 khi Charlemagne được phong làm Hoàng đế La Mã, cho tới khi Napoleon tiêu diệt đế chế này năm 1806. Như vậy, trung bình mỗi đế chế La Mã tồn tại trong vòng 829 năm.
Trong khi đó, chúng ta có thể thấy tuổi thọ trung bình của các đế chế ở Cận Đông (bao gồm các đế chế Assyria, Abassid và Ottoman) vào khoảng hơn 400 năm một chút, còn con số này đối với các đế chế ở Ai Cập và Đông Âu là khoảng 350 năm. Trung bình mỗi đế chế ở Trung Quốc (chia nhỏ thành các triều đại) cai trị trong hơn 3 thế kỷ. Các đế chế khác nhau ở Ấn Độ, Ba Tư và Tây Âu tồn tại trong khoảng từ 200 đến 300 năm.
Đế quốc Anh 
Đế quốc Anh  (British Empire) bao gồm nhữnglãnh thổ tự trị, những thuộc địa, những quốc gia tự trị và nhiều lãnh thổ khác được điều hành và quản lý bởi liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, đế quốc Anh khởi nguồn với những thuộc địa ngoại quốc và cảng giao thương được thành lập bởi Anh cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17.
Phân biệtVương quốc Anh (tiếng Anh: Kingdom of England) là quốc gia có chủ quyền đã từng tồn tại từ năm 927 đến năm 1707 ở phía tây bắc lục địa châu Âu. Ở thời đỉnh cao, Vương quốc Anh đã từng kéo dài tới hai phần ba phía nam Đảo Anh (bao gồm cả Anh và xứ Wales ngày nay) và một vài hòn đảo nhỏ xa trung tâm; hiện nay thuộc thẩm quyền pháp lý của Anh và xứ Wales. Vương quốc này có biên giới đất liền với Vương quốc Scotland ở phía bắc.
Những lãnh thổ trên thế giới đã từng là một phần của đế quốc Anh.
Trong thời kỳ đỉnh cao, đế quốc Anh lớn nhất trong lịch sử TG hơn một thế kỷ, Thực dân Anh là siêu cường hàng đầu trên thế giới. Tính tới năm 1922, đế quốc Anh có dân số khoảng 458 triệu người, chiếm 1/8 dân số thế giới lúc đó và bao phủ diện tích hơn 13,000,000 dặm vuông (33,000,000 km2): xấp xỉ một phần tư tổng diện tích toàn cầu.
Đế quốc Nga-Sa hoàng
(Gần 300 năm)
Đế quốc Nga-Sa hoàng thành lập Công quốc từ thời Trung Cổ - Moskva, được các hậu duệ của Ivan IV của Nga với danh hiệu là các Sa hoàng (Caesar). Mãi đến tận thế kỷ 17, ĐQ Nga vẫn là một quốc gia lạc hậu trong khi các quốc gia châu Âu khác đã bước sang thời đại Phục hưng.
Dù đế quốc này chỉ được Sa hoàng Pyotr I Đại đế chính thức công bố vào năm 1721, nhưng đế quốc này thực sự được khai sinh khi ông trở thành Sa hoàng vào năm 1682; Tồn tại đến trước CM Tháng 10 năm 1917
Lãnh thổ 1/6 thế giới
Đến cuối thế kỷ 19, diện tích của đế quốc này là 22.400.000 km² (khoảng 1/6 diện tích đất của Trái Đất). Đối thủ duy nhất về diện tích rộng lớn này vào thời đó là Đế quốc Anh. Đế quốc Nga bao gồm phần lớn lãnh thổ của các quốc gia sau: Ukraina, (Dnepr Ukrainavà Krym), Belarus, Moldova(Bessarabia), Phần Lan (Đại công quốc Phần Lan),Armenia, Azerbaijan, Gruzia, các quốc gia Trung Á:Kazakhstan, Kyrgyzstan,Tajikistan, Turkmenistan vàUzbekistan (Russkii Turkestan), phần lớn lãnh thổ của Litva, Estonia và Latvia (các tỉnh Baltic), cũng như một phần đáng kể của Ba Lan (Vương quốc Ba Lan) và tỉnh Ardahan, Artvin, tỉnh Iğdır, và tỉnh Kars từ Thổ Nhĩ Kỳ. Trong thời kỳ từ năm 1742 tới năm 1867, Đế quốc Nga tuyên bố Alaska là thuộc địa của mình.
Đế chế Trung Hoa 
Đế chế Trung Hoa kéo dài từ đầu của nhà Tần năm 221 TCN đến cuối triều nhà Thanh và sự hình thành của Trung Hoa Dân quốc vào năm 1911-12 SCN.
Nhưng thời gian tồn tại như 1 đế chế thực sự không liên tục, khi hợp khi tan. Lãnh thổ cũng biến đổi, tuy nhiên vẫn có xu hướng phát triển “bành chướng”
Xem tấm “Bản đồ động” bên đây sẽ rõ; Có giai đoạn (khoảng 1000 năm) lãnh thổ Việt Nam cũng bị coi là của đế quóc Trung Hoa.
Nhà Tần thống nhất Trung quốc
Lịch sử của loài người đã từng chứng kiến hàng chục đế chế vĩ đại đã từng hưng thịnh rồi suy tàn và ngược lại. Trong số đó, trường hợp của đế chế Trung Hoa (hay còn gọi là Trung Quốc, kể tất cả các triều đại từ xưa đến nay) là một ngoại lệ hy hữu vì sự thăng trầm của nó.
Sau hơn 2 nghìn năm của xã hội nô lê và phong kiến chiạ cắt, nhà Tần, triều đại phong kiến tấp quyền trung ương thống nhất đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc đã ra đời; nay còn để lại “dấu ấn” đặc biệt là “Vạn lí trường thành” 
Nhà Thanh kết thúc đế chế phong kiến TQ
Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai trị năm quốc gia: Trung Quốc (1644-1659), Đài Loan (1683), Mông Cổ (1691), Tây Tạng  (1751), Uyghur (1759); hoàn thành cuộc chinh phục của người Mãn Châu.
Đế quốc Mãn Châu Thanh bao gồm năm quốc gia với năm ngôn ngữ. Tất cả năm quốc gia giành được độc lập khi nhà Thanh kết thúc (1912).
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Phạm Huy Hoạt
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)