Các đặc trưng giao tiếp của người Việt Nam
Chia sẻ bởi Dương Thủy Tiên |
Ngày 18/03/2024 |
8
Chia sẻ tài liệu: Các đặc trưng giao tiếp của người Việt Nam thuộc Lịch sử
Nội dung tài liệu:
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LỊCH SỬ - K33B
Bài thảo luận:
Văn hoá Việt Nam đại cương
Nhóm 5 trình bày chủ đề:
Các đặc trưng cơ bản trong văn hoá giao tiếp của người Việt Nam.
Trong đời sống, văn hoá giao tiếp đóng một vai trò quan trọng trong cách ứng xử. Nó nối kết mỗi con người lại với nhau.Văn hoá giao tiếp ở mỗi quốc gia thì có những đặc trưng riêng. Và ở đây nhóm chúng tôi xin trình bày khía cạnh văn hóa giao tiếp với những đặc trưng của người Việt Nam.
Văn hoá giao tiếp có nghĩa là quá trình tiếp xúc, trao đổi giữa người với người phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
Với người Việt Nam văn hoá giao tiếp có sáu đặc trưng cơ bản.
Đặc trưng thứ nhất đó là tính cộng đồng .
Đặc điểm của người
Việt Nam là vừa thích
giao tiếp lại vừa rất rụt rè.
Việt Nam vốn dĩ là một nước
có nền nông nghiệp lúa nước từ
lâu đời thể hiện tính cộng đồng
làng xã sớm, con người sống
phụ thuộc và rất coi trọng các
mối quan hệ trong xã hội. Đặc
điểm này thể hiện ở việc người
Việt Nam đặc biệt coi trọng việc
giao tiếp và do vậy thích giao tiếp.
Người Việt Nam có thích thăm viếng. Khi đã thân nhau thì dù gặp nhau hàng ngày nhưng lúc rãnh rỗi vẫn tới thăm nhau nhằm thắt chặt thêm quan hệ, tình cảm.
Người Việt Nam có tính
hiếu khách: Khi có khách
đến nhà dù là thân hay
sơ, người Việt dù nghèo
khó vẫn cố gắng đón tiếp
chu đáo, thường dành cho
khách những ưu đãi đặc biệt:
“ Khách đến nhà không gà
thì gỏi”
Tính hiếu khách này được thể hiện càng rõ nét ở các
làng quê.
Bên cạnh sự thích giao tiếp người Việt Nam lại rất rụt rè. Sự tồn tại đồng thời hai tính cách này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị.
Ở nơi tính cộng đồng ngự trị,người Việt Nam tỏ ra xởi lởi
thích giao tiếp còn ở nơi có tính tự trị ngự trị - ở nơi lạ thì người Việt Nam tỏ ra rụt rè. Hai tính cách trái ngược nhưng không mâu thuẫn vì ở trong những môi trường khác thì tính cách sẽ thể hiện khác nhau. Từ đó mới thấy được tính linh hoạt của người Việt.
Ở phương Tây thì khác
do hoàn cảnh và điều kiện
sống khác – họ xuất phát từ
nền chăn nuôi du mục nên
tính cộng đồng của họ mang
tính chất cá thể. Họ gặp gỡ
chỉ mang tính xã giao công
việc do tính cộng đồng làng
xã của phương Tây không
bền chặt.
Đặc trưng thứ hai: Nguyên tắc
ứng xử.
Trên quan hệ ngoại giao,
văn hoá nông nghiệp với
đặc điểm trọng tình dẫn tới
chỗ lấy tình cảm làm
nguyên tắc ứng xử.
Ví dụ:
“ Yêu nhau yêu cả đường đi
Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”.
Hay câu:
“ Yêu nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”.
Đặc điểm của người Việt Nam là khi đã yêu thì chỉ nhìn thấy những mặt tốt còn những mặt xấu luôn bị che lấp. Và ngược lại khi ghét ai thì không bao giờ thừa nhận những mặt tốt của họ.
Từ đây cũng thấy được cái không tốt trong cách nhìn nhận và đánh giá của người Việt Nam.
Người Việt Nam coi trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời, ai giúp mình một chút đều phải nhớ ơn. Người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm trọng nhưng thiên về âm hơn.
“ Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình”.
Người Việt Nam thường
lấy cái tình để xem xét
và giải quyết vấn đề nhiều
hơn là lý. Vì thế trong pháp
luật cũng thiên về tình nghĩa
nhiều.
Phương Tây thì khác, họ
rạch ròi giữa lý – tình. Trong
công việc không có chỗ cho
tình cảm xen giữa.
Ví dụ: Trong cách chọn người
làm việc họ chỉ dựa vào khả
năng – năng lực chứ không bị
chi phối bởi sự quen biết, các
mối quan hệ tình cảm.
Đặc trưng thứ ba: Thích
tìm hiểu, quan sát, đánh giá.
Khi giao tiếp với một người,
người Việt Nam thích tìm hiểu
tuổi tác,quê quán,trình độ học
vấn,địa vị xã hội, hoàn cảnh
gia đình…
Một số người thông qua những điều này để nhìn nhận, đánh giá một con người còn gây ra những cái nhìn sai lệch. Bên cạnh đó khi tìm hiểu rõ về hoàn cảnh của người khác thì có cách quan tâm đến người khác một cách thích hợp
“Chọn mặt gửi vàng
tuỳ mặt gửi lời, tuỳ người gửi của”.
Khi không được lựa chọn thì người Việt Nam dùng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”
Hay:
“Đi với bụt thì mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy”
Ở phương tây họ không bao giờ tìm hiểu đến hoàn cảnh của người khác.Họ cho đó là tò mò và rất gget quan điểm này bởi họ luôn đề cao cái tôi tự do.
Đặc trưng thứ tư : Chủ thể giao tiếp.
Người Việt Nam đặc biệt trọng danh dự, thường gắn danh dự với năng lực giao tiếp:
“Đói cho sạch, rách cho thơm”
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt
Nam cũng mắc bệnh sĩ diện:
“Đem chuông đi đánh nước người
không kêu cũng đấm một hồi lấy danh”
Ở các vùng quê thói sỉ diện này được thể hiện càng rõ,như các cụ già-người có chức vụ thì ăn mâm trên…
Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tin đồn tạo nên dư luận như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của một cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã. Điều này tạo ra hai mặt, tích cực đó là tạo ra quy tắc để làm chuẩn mực xã hội. Nhưng có lúc dư luận tạo nên những điều thái quá làm cho con người cùng quẩn không lối thoát.
Đặc trưng thứ năm:
Cách thức giao tiếp.
Người Việt Nam ưa sự
tế nhị, ý tứ và trọng sự hoà
thuận.
Người Việt Nam có tính
tế nhị nên có thói quen
“vòng vo tam quốc” và truyền
thống là “miếng trầu làm
đầu câu chuyện” khác với
phương Tây họ thường đi
thẳng vào vấn đề.Hiện nay,
miếng trầu được thay thế
bằng chén trà, điếu thuốc lá,
ly bia …
Ví dụ : Để tỏ tình, người con trai sẽ hỏi rất ý tứ :
“ Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”
Hay câu:
“ Chiếc thuyền giăng câu
đậu ngang cồn cát
đậu sát mé nhà
anh biết em có một mẹ già
muốn vô phụng dưỡng biết là đặng không ?”
Hay để biết người đối thoại còn cha mẹ hay không, có thể hỏi: “các cụ nhà vẫn khoẻ cả chứ ?”.
Lối giao tiếp vòng vo kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao tiếp tạo ra thói quen chào hỏi- “chào” đi liền với “hỏi” :Bác đi đâu đấy ?, cụ đang làm gì đấy?..., “hỏi”như một thói quen và không cần câu trả lời.
Tâm lí ưa hoà thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn “một điều nhịn chín điều lành”
Hay:
“Chồng giận thì vợ bớt lời
cơm sôi nhỏ lửa biết đời nào khê”
Lối giao tiếp ưa tế nhị ,ý tứ là sản phẩm.
Của lối sống trọng tình và tư duy trong các mối quan hệ đã tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kĩ trước khi nói năng: “Ăn có nhai, nói có nghĩ”, “biết thì thưa thốt , không biết thì dựa cột mà nghe” dẫn đến một nhược điểm của người Việt Nam là thiếu tính quyết đoán .Khi tránh phải quyết đoán đồng thời giữ được sự vui vẻ không mất lòng ai. Người Việt Nam hay cười- một thói quen giao tiếp rất quan trọng của người việt nụ cười có thể thay thế câu trả lời.
Đặc trưng thứ sáu:
nghi thức lời nói.
Người Việt có hệ thống
nghi thức lời nói rất phong
phú:
Trước hết đó là sụ phong
phú của hệ thống xưng hô
trong khi các ngôn ngữ
Phương Tây và Trung Hoa
chỉ sử dụng các đại từ nhân
xưng.
Thì tếng việt còn một số lượng
lớn các danh từ chỉ quan
hệ họ hàng để xưng hô nhiều
lúc các danh từ có xu hướng
lấn át các đại từ nhân xưng
Chào anh! Anh vẫn khoẻ chú ?
Vâng tôi vẫn khoẻ! Thế cô thì sao ?
Hệ thống xưng hô có ba đặc điểm:
tính thân mật hoá coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng: dì, chú bác…
Tính cộng đồng hoá cao những từ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác,địavị xã hội, thời gian không gian giao tiếp cụ thể:chú-con, bác-em,anh-tôi,ông-con .Gọi theo thứ tự năm sinh :cả ,hai ,ba…Gọi theo tên con hoặc tên chồng.
Tính tôn ti kỹ lưỡng xưng hô theo nguyên tắc , tục kiêng tên riêng, không đặt tên con trùng với những người bề trên trong gia đình .tục nhập gia vấn huý (vào nhà ai thì hỏi tên chủ nhà đểkhi nói nếu có động đến từ đó thì phải nói chệch đi).
Nghi thức trong cách nó cũng rất phong phú : Do truyền thống tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có từ cảm ơn,xin lỗi chung chung như phương tây. Với mỗi trường hợp người Việt Nam có cách xin lỗi khác nhau:
Ví dụ: cảm ơn khi được người khác khen: Anh (chị) quá khen
Ví dụ: Cảm ơn khi được quan tâm: Anh (chị) chu đáo quá.
Lời chào của người Việt Nam theo quan hệ xã hội và sắc thái tình cảm trong khi đó lời chào ở phương Tây: Chào lúc gặp mặt, lúc chia tay, chào buổi sang.
Danh sách nhóm 5
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LỊCH SỬ - K33B
Bài thảo luận:
Văn hoá Việt Nam đại cương
Nhóm 5 trình bày chủ đề:
Các đặc trưng cơ bản trong văn hoá giao tiếp của người Việt Nam.
Trong đời sống, văn hoá giao tiếp đóng một vai trò quan trọng trong cách ứng xử. Nó nối kết mỗi con người lại với nhau.Văn hoá giao tiếp ở mỗi quốc gia thì có những đặc trưng riêng. Và ở đây nhóm chúng tôi xin trình bày khía cạnh văn hóa giao tiếp với những đặc trưng của người Việt Nam.
Văn hoá giao tiếp có nghĩa là quá trình tiếp xúc, trao đổi giữa người với người phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
Với người Việt Nam văn hoá giao tiếp có sáu đặc trưng cơ bản.
Đặc trưng thứ nhất đó là tính cộng đồng .
Đặc điểm của người
Việt Nam là vừa thích
giao tiếp lại vừa rất rụt rè.
Việt Nam vốn dĩ là một nước
có nền nông nghiệp lúa nước từ
lâu đời thể hiện tính cộng đồng
làng xã sớm, con người sống
phụ thuộc và rất coi trọng các
mối quan hệ trong xã hội. Đặc
điểm này thể hiện ở việc người
Việt Nam đặc biệt coi trọng việc
giao tiếp và do vậy thích giao tiếp.
Người Việt Nam có thích thăm viếng. Khi đã thân nhau thì dù gặp nhau hàng ngày nhưng lúc rãnh rỗi vẫn tới thăm nhau nhằm thắt chặt thêm quan hệ, tình cảm.
Người Việt Nam có tính
hiếu khách: Khi có khách
đến nhà dù là thân hay
sơ, người Việt dù nghèo
khó vẫn cố gắng đón tiếp
chu đáo, thường dành cho
khách những ưu đãi đặc biệt:
“ Khách đến nhà không gà
thì gỏi”
Tính hiếu khách này được thể hiện càng rõ nét ở các
làng quê.
Bên cạnh sự thích giao tiếp người Việt Nam lại rất rụt rè. Sự tồn tại đồng thời hai tính cách này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị.
Ở nơi tính cộng đồng ngự trị,người Việt Nam tỏ ra xởi lởi
thích giao tiếp còn ở nơi có tính tự trị ngự trị - ở nơi lạ thì người Việt Nam tỏ ra rụt rè. Hai tính cách trái ngược nhưng không mâu thuẫn vì ở trong những môi trường khác thì tính cách sẽ thể hiện khác nhau. Từ đó mới thấy được tính linh hoạt của người Việt.
Ở phương Tây thì khác
do hoàn cảnh và điều kiện
sống khác – họ xuất phát từ
nền chăn nuôi du mục nên
tính cộng đồng của họ mang
tính chất cá thể. Họ gặp gỡ
chỉ mang tính xã giao công
việc do tính cộng đồng làng
xã của phương Tây không
bền chặt.
Đặc trưng thứ hai: Nguyên tắc
ứng xử.
Trên quan hệ ngoại giao,
văn hoá nông nghiệp với
đặc điểm trọng tình dẫn tới
chỗ lấy tình cảm làm
nguyên tắc ứng xử.
Ví dụ:
“ Yêu nhau yêu cả đường đi
Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”.
Hay câu:
“ Yêu nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”.
Đặc điểm của người Việt Nam là khi đã yêu thì chỉ nhìn thấy những mặt tốt còn những mặt xấu luôn bị che lấp. Và ngược lại khi ghét ai thì không bao giờ thừa nhận những mặt tốt của họ.
Từ đây cũng thấy được cái không tốt trong cách nhìn nhận và đánh giá của người Việt Nam.
Người Việt Nam coi trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời, ai giúp mình một chút đều phải nhớ ơn. Người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm trọng nhưng thiên về âm hơn.
“ Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình”.
Người Việt Nam thường
lấy cái tình để xem xét
và giải quyết vấn đề nhiều
hơn là lý. Vì thế trong pháp
luật cũng thiên về tình nghĩa
nhiều.
Phương Tây thì khác, họ
rạch ròi giữa lý – tình. Trong
công việc không có chỗ cho
tình cảm xen giữa.
Ví dụ: Trong cách chọn người
làm việc họ chỉ dựa vào khả
năng – năng lực chứ không bị
chi phối bởi sự quen biết, các
mối quan hệ tình cảm.
Đặc trưng thứ ba: Thích
tìm hiểu, quan sát, đánh giá.
Khi giao tiếp với một người,
người Việt Nam thích tìm hiểu
tuổi tác,quê quán,trình độ học
vấn,địa vị xã hội, hoàn cảnh
gia đình…
Một số người thông qua những điều này để nhìn nhận, đánh giá một con người còn gây ra những cái nhìn sai lệch. Bên cạnh đó khi tìm hiểu rõ về hoàn cảnh của người khác thì có cách quan tâm đến người khác một cách thích hợp
“Chọn mặt gửi vàng
tuỳ mặt gửi lời, tuỳ người gửi của”.
Khi không được lựa chọn thì người Việt Nam dùng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”
Hay:
“Đi với bụt thì mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy”
Ở phương tây họ không bao giờ tìm hiểu đến hoàn cảnh của người khác.Họ cho đó là tò mò và rất gget quan điểm này bởi họ luôn đề cao cái tôi tự do.
Đặc trưng thứ tư : Chủ thể giao tiếp.
Người Việt Nam đặc biệt trọng danh dự, thường gắn danh dự với năng lực giao tiếp:
“Đói cho sạch, rách cho thơm”
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt
Nam cũng mắc bệnh sĩ diện:
“Đem chuông đi đánh nước người
không kêu cũng đấm một hồi lấy danh”
Ở các vùng quê thói sỉ diện này được thể hiện càng rõ,như các cụ già-người có chức vụ thì ăn mâm trên…
Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tin đồn tạo nên dư luận như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của một cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã. Điều này tạo ra hai mặt, tích cực đó là tạo ra quy tắc để làm chuẩn mực xã hội. Nhưng có lúc dư luận tạo nên những điều thái quá làm cho con người cùng quẩn không lối thoát.
Đặc trưng thứ năm:
Cách thức giao tiếp.
Người Việt Nam ưa sự
tế nhị, ý tứ và trọng sự hoà
thuận.
Người Việt Nam có tính
tế nhị nên có thói quen
“vòng vo tam quốc” và truyền
thống là “miếng trầu làm
đầu câu chuyện” khác với
phương Tây họ thường đi
thẳng vào vấn đề.Hiện nay,
miếng trầu được thay thế
bằng chén trà, điếu thuốc lá,
ly bia …
Ví dụ : Để tỏ tình, người con trai sẽ hỏi rất ý tứ :
“ Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”
Hay câu:
“ Chiếc thuyền giăng câu
đậu ngang cồn cát
đậu sát mé nhà
anh biết em có một mẹ già
muốn vô phụng dưỡng biết là đặng không ?”
Hay để biết người đối thoại còn cha mẹ hay không, có thể hỏi: “các cụ nhà vẫn khoẻ cả chứ ?”.
Lối giao tiếp vòng vo kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao tiếp tạo ra thói quen chào hỏi- “chào” đi liền với “hỏi” :Bác đi đâu đấy ?, cụ đang làm gì đấy?..., “hỏi”như một thói quen và không cần câu trả lời.
Tâm lí ưa hoà thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn “một điều nhịn chín điều lành”
Hay:
“Chồng giận thì vợ bớt lời
cơm sôi nhỏ lửa biết đời nào khê”
Lối giao tiếp ưa tế nhị ,ý tứ là sản phẩm.
Của lối sống trọng tình và tư duy trong các mối quan hệ đã tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kĩ trước khi nói năng: “Ăn có nhai, nói có nghĩ”, “biết thì thưa thốt , không biết thì dựa cột mà nghe” dẫn đến một nhược điểm của người Việt Nam là thiếu tính quyết đoán .Khi tránh phải quyết đoán đồng thời giữ được sự vui vẻ không mất lòng ai. Người Việt Nam hay cười- một thói quen giao tiếp rất quan trọng của người việt nụ cười có thể thay thế câu trả lời.
Đặc trưng thứ sáu:
nghi thức lời nói.
Người Việt có hệ thống
nghi thức lời nói rất phong
phú:
Trước hết đó là sụ phong
phú của hệ thống xưng hô
trong khi các ngôn ngữ
Phương Tây và Trung Hoa
chỉ sử dụng các đại từ nhân
xưng.
Thì tếng việt còn một số lượng
lớn các danh từ chỉ quan
hệ họ hàng để xưng hô nhiều
lúc các danh từ có xu hướng
lấn át các đại từ nhân xưng
Chào anh! Anh vẫn khoẻ chú ?
Vâng tôi vẫn khoẻ! Thế cô thì sao ?
Hệ thống xưng hô có ba đặc điểm:
tính thân mật hoá coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng: dì, chú bác…
Tính cộng đồng hoá cao những từ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác,địavị xã hội, thời gian không gian giao tiếp cụ thể:chú-con, bác-em,anh-tôi,ông-con .Gọi theo thứ tự năm sinh :cả ,hai ,ba…Gọi theo tên con hoặc tên chồng.
Tính tôn ti kỹ lưỡng xưng hô theo nguyên tắc , tục kiêng tên riêng, không đặt tên con trùng với những người bề trên trong gia đình .tục nhập gia vấn huý (vào nhà ai thì hỏi tên chủ nhà đểkhi nói nếu có động đến từ đó thì phải nói chệch đi).
Nghi thức trong cách nó cũng rất phong phú : Do truyền thống tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có từ cảm ơn,xin lỗi chung chung như phương tây. Với mỗi trường hợp người Việt Nam có cách xin lỗi khác nhau:
Ví dụ: cảm ơn khi được người khác khen: Anh (chị) quá khen
Ví dụ: Cảm ơn khi được quan tâm: Anh (chị) chu đáo quá.
Lời chào của người Việt Nam theo quan hệ xã hội và sắc thái tình cảm trong khi đó lời chào ở phương Tây: Chào lúc gặp mặt, lúc chia tay, chào buổi sang.
Danh sách nhóm 5
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Dương Thủy Tiên
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)