BDTX MÔ ĐUN 19 THCS
Chia sẻ bởi Hoàng Quốc Huy |
Ngày 02/05/2019 |
73
Chia sẻ tài liệu: BDTX MÔ ĐUN 19 THCS thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
TẬP HUẤN Nhãm MODUL 3
MODUL: THCS 19
DẠY HỌC VỚI
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHÒNG GD&ĐT HẠ HÒA - TRUNG TÂM GDTX HẠ HÒA
I/ MỤC ĐÍCH:
Tăng cường năng lực sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học; khai thác những phần mềm sẵn có; khai thác thông tin, tư liệu trên Internet… để phục vụ bài giảng.
Giúp giáo viên dần tiếp cận với những công nghệ mới trong giảng dạy.
Làm thay đổi nội dung và phương pháp truyền đạt trong dạy học: Nhờ các công cụ đa phương tiện của máy tính như văn bản, đồ họa, hình ảnh, âm thanh, hoạt cảnh.... giáo viên sẽ xây dựng được bài giảng sinh động thu hút sự tập trung của người học.... dễ dàng thể hiện được các phương pháp sư phạm như: phương pháp dạy học tình huống,...phương pháp dạy học nêu vấn đề, thực hiện đánh giá và lượng giá học tập toàn diện, khách quan ngay trong quá trình học…tăng khả năng tích cực chủ động tham gia học tập của người học.....
- Góp phần thay đổi hình thức dạy và học: Hình thức dạy dựa vào máy tính, hình thức học dựa vào máy tính....
- Góp phần nâng cao tiềm lực của người giáo viên bằng cách cung cấp cho họ những phương tiện làm việc hiện đại (Máy tính, mạng Internet, các loại từ điển điện tử, các sách điện tử, thư điện tử,…); Góp phần đổi mới cách dạy và cách học... đổi mới phương pháp dạy học....
- Trao đổi thông tin về đề cương... bài giảng với các đồng nghiệp qua các ngân hàng bài soạn trên một trang web dành cho tất cả các giáo viên....
- Cập nhật, khai thác kho tri thức chung của nhân loại bằng các công cụ đa phương tiện.
- Sử dụng thư điện tử (email) để liên lạc... trao đổi tư liệu với các nhà văn.... các nhà nghiên cứu và bạn bè đồng nghiệp về những vấn đề mà mình quan tâm....
E-learning là gì?
“E-learning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên CNTT&TT”
“E-learning nghĩa là việc học tập hay đào tạo được chuẩn bị, phân phối hay quản lý sử dụng nhiều công cụ của CNTT&TT khác nhau và được thực hiện ở mức cục bộ hay toàn cục”
“Việc phân phối các nội dung học tập, các hoạt động đào tạo thông qua các phương tiên điện tử như mạng Internet, Intranet, Extranet, CD-Rom, điện thoại, TV….
II/ NỘI DUNG
“Đây là một định nghĩa rộng của lĩnh vực sử dụng công nghệ để phân phối các chương trình đào tạo, học tập. Cụ thể là sử dụng các phương tiện như CD-Rom, Internet, Intranet, điện thoại, các thiết bị không dây…”
“Việc học tập được phân phối hay hỗ trợ bởi công nghệ điện tử. Việc phân phối qua nhiều kỹ thuật khác nhau như Internet, TV, video tape, các hệ thống giảng dạy thông minh và việc đào tạo dựa trên máy tính”
“Việc sử dụng các công nghệ mạng, để đào tạo và phân phối các nội dung học tập bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu”.
Tóm lại
E-learning: Là việc học tập có sự hỗ trợ của CNTT&TT
Các kỹ năng cần thiết
Kỹ năng thực hiện trình diễn
Kỹ năng tìm kiếm thông tin qua mạng Internet, vấn đề bản quyền, đánh giá thông tin.
Kỹ năng sử dụng bách khoa toàn thư
Kỹ năng thiết kế ấn phẩm hoặc web đơn giản
Kỹ năng giải quyết và trình bày vấn đề
Kỹ năng làm việc nhóm
Kỹ năng lãnh đạo
…
Trong các mô hình đã nêu, mô hình “tri thức” là mô hình giáo dục hiện đại nhất, hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của CNTT và truyền thông là mạng Internet. Mô hình mới này đã tạo nên nhiều sự thay đổi trong giáo dục.
3 mô hình giáo dục:
Thế nào là đổi mới phương pháp dạy học có sự hỗ trợ của CNTT?
Đổi mới phương pháp dạy học cũng chính là tổ chức, thực hiện việc dạy và học tích cực. Vậy thế nào là dạy và học tích cực?
Có rất nhiều tiêu chí, song dù đánh giá thế nào thì quá trình đó phải hướng tới hình thành, rèn luyện ở người học một trong hai nhóm kỹ năng: kỹ năng xã hội và kỹ năng tư duy. Kỹ năng xã hội bao gồm kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày vấn đề, kỹ năng tự quản lý…Kỹ năng tư duy cần phải định hướng tới các kỹ năng bậc cao như vận dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá. Theo đó, dù giờ dạy được thực hiện bằng phương pháp nào và với phương tiện nào thì cũng có thể nhận biết được đó có phải là giờ dạy “đổi mới” hay không.
Đối với giáo dục, CNTT đóng nhiều vai trò khác nhau: vừa là phương tiện dạy học mới với nhiều ưu điểm, vừa là môi trường học tập mới với nhiều hình thức dạy học đa dạng, vừa là một môn học với những đặc thù riêng. Trong giáo dục, CNTT được “sử dụng” theo những cách khác nhau và được tóm lược qua sơ đồ sau:
CNTT trong
giáo dục
và đào tạo
CNTT là một
nội dung dạy học
CNTT là
phương tiện
dạy học
CNTT là một
công cụ quản lý
CNTT là một
công cụ để dạy
CNTT là một
công cụ để học
CNTT
Là
môi
trường
dạy học
Hiện nay người ta quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu, tập huấn GV sử dụng CNTT như phương tiện dạy học. Vì thực chất, khi sử dụng phương tiện này ở mức độ cao thì GV đã có khả năng biến nó thành “môi trường” học tập mới.
Nếu nhìn nhận CNTT là một phương tiện dạy học mới được đặt trong mối quan hệ tương tác với các yếu tố người dạy và người học thì hiện nay trên thế giới đang có 3 xu hướng sử dụng phương tiện này. Đây chính là 3 con đường sử dụng CNTT hỗ trợ đổi mới PPDH.
Hướng (1): CNTT là phương tiện của GV. Trong đó GV sử dụng CNTT phục vụ trực tiếp cho việc thiết kế và thể hiện bài giảng. Theo cách này, ở Việt Nam đã quen gọi đó là các “bài giảng điện tử” và phần mềm được sử dụng phổ biến nhất là Microsoft PowerPoint. Đây có thể gọi là bài dạy có sự hỗ trợ của CNTT.
Hướng (2): CNTT là phương tiện dạy và học của cả thầy và trò, Trong đó, GV sử dụng CNTT để thiết kế bài dạy và các tài liệu hỗ trợ học tập, trong khi HS sử dụng CNTT là phương tiện để “trả bài” cho GV. Hướng này bắt đầu được thí điểm ở Việt Nam từ năm 2004 với chương trình “Chương trình dạy học của Intel”. Đây có thể gọi là bài dạy tích hợp CNTT.
Hướng (3): Về hình thức, CNTT dường như chỉ là phương tiện của trò, là “môi trường” học tập mới, môi trường học tập ảo. CNTT thay thế cho hình thức dạy học giáp mặt và trở thành môi trường chứa đựng thông tinvaf tình huống nhận thức mà người học trở thành chủ thể hoạt động trong môi trường đó.
Một cách trực quan, có thể biểu diễn ba hướng ứng dụng CNTT trong dạy học vừa nêu trên trong sơ đồ sau:
GV
GV
GV
HS
HS
HS
1
3
2
CNTT
CNTT
CNTT
Quy trình thiết kế bài giảng điện tử:
Xác định mục tiêu bài học:
Mục tiêu bài học là căn cứ để đánh giá chất lượng học tập của HS cũng như hiệu quả thực hiện bài giảng của GV. Mục tiêu bài học phải giúp GV đo được, quan sát được mức độ học tập của HS trong tiết học đó. Chia làm 3 nhóm mục tiêu như sau:
Nhóm mục tiêu kiến thức:
- Mức độ nhận biết
- Mức độ thông hiểu
- Mức độ vận dụng
Nhóm mục tiêu kỹ năng:
Nhóm mục tiêu thái độ:
b) Xác định trọng tâm kiến thức cơ bản:
Việc chọn lọc kiến thức cơ bản của bài dạy hcoj có thể gắn với việc sắp xếp lại cấu trúc của bài để làm nổi bật các mối liên hệ giữa các hợp phần kiến thức của bài, từ đó làm rõ thêm trọng tâm, trong điểm của bài, Việc làm này thực sự cần thiết, tuy nhiên không phải ở bài nào cũng có thể tiến hành được dễ dàng. Cũng cần chú ý việc cấu trúc lại nội dung bài phải tuân thủ nguyên tắc không làm biến đổi tinh thần cơ bản mà các tác giả SGK đã dày công xây dựng.
Xây dựng kịch bản dạy học (Chương trình hóa tiến trình dạy học)
Xác định cấu trúc của kịch bản
Chi tiết hóa cấu trúc của kịch bản
Xác định các bước của quá trình dạy học
Xác định câu hỏi, phản hồi trong quá trình dạy học
Hình dung (lắp ghép) tiến trình dạy học
Xác định tư liệu cho các hoạt động
Phim (video), Ảnh (Image), Hoạt cảnh (animation)
Tìm kiếm tư liệu
Xử lý tư liệu
Phân phối tư liệu cho mỗi hoạt động.
Lựa chọn công cụ và số hóa kịch bản:
Lựa chọn phần mềm công cụ thích hợp
Cài đặt (số hóa) nội dung
Tạo hiệu ứng trong các tương tác.
Chạy thử, chỉnh sửa và hoàn thiện:
Trình diễn thử
Soát lỗi
Kiểm tra tính logic, hợp lý của các thành phần.
Chỉnh sửa
Hoàn thiện
Đóng gói.
Các tiêu chí đánh giá bài giảng điện tử:
Tiêu chí về nội dung
Tiêu chí về hình thức
Tiêu chí về hiệu quả
Ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học, thuận lợi và thách thức
1. Tại sao ứng dụng CNTT trong dạy học diễn ra rầm rộ trong giai đoạn hiện nay?
Trong văn bản chỉ đạo, Bộ Giáo dục đã đề cập việc ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy và học như sau
a) “Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong trường phổ thông nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng giáo viên tự tích hợp CNTT vào từng môn học thay vì học trong môn tin học. Giáo viên các bộ môn chủ động tự soạn và tự chọn tài liệu và phần mềm (mã nguồn mở) để giảng dạy ứng dụng CNTT” (Theo Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ).
- Các sở GDĐT chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn cụ thể cho giáo viên các môn học tự triển khai việc tích hợp, lồng ghép việc sử dụng các công cụ CNTT vào quá trình dạy các môn học của mình nhằm tăng cường hiệu quả dạy học qua các phương tiện nghe nhìn, kích thích sự sáng tạo và độc lập suy nghĩ, tăng cường khả năng tự học, tự tìm tòi của người học. Ví dụ: Giáo viên bộ môn dạy nhạc cần tự khai thác, trực tiếp sử dụng các phần mềm dạy nhạc phù hợp với nội dung và phương pháp của môn nhạc, không sử dụng giáo viên tin học soạn chương trình dạy nhạc thay cho giáo viên dạy nhạc. Giáo viên môn văn có thể tích hợp dạy phương pháp trình bày văn bản. Tương tự như vậy với các môn học khác;
b) Các giáo viên cần tích cực, chủ động tham khảo và sử dụng các phần mềm ứng dụng tích hợp vào các môn học trên website http://edu.net.vn để cùng chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi học tập;
c) Khuyến khích giáo viên chủ động tự soạn giáo án, bài giảng và tài liệu giảng dạy để ứng dụng CNTT trong các môn học;
- Ứng dụng CNTT trong dạy và học là việc ứng dụng những thành tựu của CNTT một cách phù hợp và hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Như vậy, Ứng dụng CNTT trong giảng dạy và học tập không chỉ được hiểu theo nghĩa đơn giản là dùng máy tính vào các công việc như biên soạn rồi trình chiếu bài giảng điện tử ở trên lớp. Ứng dụng CNTT phải được hiểu là một giải pháp trong mọi hoạt động liên quan đến đào tạo; liên quan đến công việc của người làm công tác giáo dục; liên quan đến hoạt động nghiên cứu, soạn giảng; lưu trữ, tìm kiếm, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và tài nguyên học tâp… Và cao hơn, với E-Learning, hoạt động dạy và học ngày nay được diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Trên lớp, ở nhà, ngay tại góc học tập của mình học sinh vẫn có thể nghe thầy cô giảng, vẫn được giao bài và được hướng dẫn làm bài tập, vẫn có thể nộp bài và trình bày ý kiến của mình…
- Nhận thức được điều đó, việc ứng dụng CNTT nhằm
đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục, được triển khai một cách đầy đủ và thiết thực nhất. Một số hoạt động điển hình về ứng dụng CNTT trong dạy - học được giáo viên thực hiện thành công và mang lại hiệu quả cao như:
Tra cứu thông tin phục vụ công tác nghiên cứu, nâng cao kiến thức chuyên môn và lấy tư liệu hỗ trợ soạn giảng;
Sử dụng các phần mềm hỗ trợ soạn giảng để tạo bài giảng điện tử như MS Powerpoint, Violet, iSpring Presenter và các phần mềm dựng phim, nhạc…
Sử dụng các phần mềm hỗ trợ làm đề thi/kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh như McMix, Quest, MS Excel…
Sử dụng diễn đàn, email như một phương tiện để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm với giáo viên các trường bạn trong cả nước.
Triển khai các tiết học có ứng dụng CNTT, có sử dụng bài giảng điện tử. nhà trường cũng tổ chức ghi hình để dự giờ tập thể (ghi hình tiết dạy sau đó tổ chức chiếu lại để dự giờ, phân tích, góp ý xây dựng bài).…
- Công nghệ phần mềm phát triển mạnh, trong đó các phần mềm giáo dục cũng đạt được những thành tựu đáng kể như: bộ Office, Cabri, Crocodile, SketchPad/Geomaster SketchPad, Maple/Mathenatica, ChemWin, LessonEditor/VioLet … hệ thống WWW, Elearning và các phần mền đóng gói, tiện ích khác. Do sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông mà mọi người đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần mềm dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà học sinh trung bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt trong môi trường học tập. Phần mềm dạy học được sử dụng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay của giáo viên tới từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng. Nhờ có máy tính điện tử mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh.
Thông qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của công nghệ thông tin và truyền thông đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người.
Do đó, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thầy đọc, trò chép” như kiểu truyền thống, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình.
2. Thuận lợi và thách thức:
2.1. Ưu điểm nổi bật của phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin so với phương pháp giảng dạy truyền thống là:
- Môi trường đa phương tiện kết hợp những hình ảnh video, camera … với âm thanh, văn bản, biểu đồ … được trình bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan;
- Kĩ thuật đồ hoạ nâng cao có thể mô phỏng nhiều quá trình, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội trong con người mà không thể hoặc không nên để xảy ra trong điều kiện nhà trường;
Công nghệ tri thức nối tiếp trí thông minh của con người, thực hiện những công việc mang tính trí tuệ cao của các chuyên gia lành nghề trên những lĩnh vực khác nhau;
- Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau và với người sử dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet … có thể được khai thác để tạo nên những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi không thể thiếu để học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu.
- Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có lý, học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất, những quy luật mới. Đây là một công dụng lớn của công nghệ thông tin và truyền thông trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Có thể khẳng định rằng, môi trường công nghệ thông tin và truyền thông chắc chắn sẽ có tác động tích cực tới sự phát triển trí tuệ của học sinh và điều này làm nảy sinh những lý thuyết học tập mới.
2.2. Các thách thức:
Theo nhận định của một số chuyên gia, thì việc đưa công nghệ thông tin và truyền thông ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt được vẫn còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng mắc và những thách thức vẫn còn ở phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Chẳng hạn:
- Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ giáo viên hoàn toàn trong các bài giảng của họ.
- Việc sử dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học chưa được nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi lạm dụng nó.
- Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin còn lúng túng, chưa xác định hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
- Chính sách, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo được sự đồng bộ trong thực hiện. Các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học bằng phương tiện chiếu projector, … còn thiếu và chưa đồng bộ và chưa hướng dẫn sử dụng nên chưa triển khai rộng khắp và hiệu quả.
- Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều sâu; sử dụng không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền. Công tác đào tạo, công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chỉ mới dừng lại ở việc xoá mù tin học nên giáo viên chưa đủ kiến thức, mất nhiều thời gian và công sức để sử dụng công nghệ thông tin trong lớp học một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần xác định rõ rằng:
CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho triển khai phương pháp dạy học tích cực chứ không phải là điều kiện đủ của phương pháp này. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình dạy học. Để một giờ học có ứng dụng CNTT là một giờ học phát huy tính tích cực của học sinh thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên sử dụng. Cần tránh việc dùng slide trình chiếu chỉ để thay việc viết bảng mà lại coi đó là tiết dạy ứng dụng CNTT
Một số phần mềm có thể khai thác phục vụ bài giảng ở một số môn:
Violet: Thiết kế giáo án điện tử
Skechpad: Vẽ hình (Đặc biệt bài toán hình học động)
Imindmap: Phần mềm vẽ bản đồ tư duy.
Crocodile Physics: Thực hành Vật lý
Crocodile Chemistry: Phòng thí nghiệm hóa học ảo
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hoàng Quốc Huy
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)