Bảo tồn đa dạng Sinh học - Chương 5

Chia sẻ bởi Phan Thanh Quyền | Ngày 24/10/2018 | 128

Chia sẻ tài liệu: Bảo tồn đa dạng Sinh học - Chương 5 thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

Chương 5.
Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững
Phát triển bền vững và bảo tồn
Phát triển bền vững là sự phát triển mà trong đó các giá trị kinh tế, môi trường và xã hội luôn luôn tương tác với nhau trong quá trình quy hoạch; phân bố lợi nhuận công bằng giữa các tầng lớp trong xã hội và khẳng định các cơ hội cho sự phát triển kế tiếp, duy trì một cách liên tục cho các thế hệ mai sau.
Làm sao phát triển được nền kinh tế xã hội trong khi vẫn có thể giữ gìn, bảo vệ được thiên nhiên. Bảo tồn là để liên kết được việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc thù với những nhu cầu phát triển có thể chấp nhận được của một bộ phận dân cư mà cuộc sống của họ phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên đó.
Các xã hội truyền thống và sự đa dạng sinh học
Cộng đồng địa phương và đa dạng sinh học
Có khoảng 5.000 đến 6.000 các cộng đồng truyền thống khác nhau sống trong hơn 70 quốc gia. Dân số của các cộng đồng này khoảng 250 triệu người. Hầu hết các cộng đồng này sống trong các vùng hoang vu hẻo lánh và chủ yếu dựa vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do các vùng hẻo lánh và nguyên sơ thường giàu có về đa dạng sinh học, mà phần lớn đất đai của các cộng đồng truyền thống thường đươc chọn làm Vườn Quốc gia hay các dạng khu bảo vệ khác.
Các xã hội truyền thống sử dụng các phương pháp thủy lợi cổ điển và gieo trồng tổ hợp các cây trồng đảm bảo đầy đủ khả năng để nuôi dưỡng một quần thể loài người tương đối lớn mà không gây tác động có hại gì đáng kể đối với môi trường và các quần thể sinh học ở xung quanh.
Cộng đồng bản địa
Cộng đồng địa phương và đa dạng sinh học
Nhiều xã hội truyền thống có những nguyên tắc đạo đức bảo tồn rất hiệu quả. Các nguyên tắc này có vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học. Các nguyên tắc này ăn sâu vào tiềm thức và cách cư xử của người dân trong cuộc sống hàng ngày, bao gồm tất các các lĩnh vực của đời sống như:
Nông nghiệp: sản xuất lương thực, thực phẩm, cất giữ và chế biến thức ăn, thu lượm, sử dụng, chăn nuôi,...
Sức khoẻ: các loại cây thuốc hoang dại, cách chữa bệnh cho người và gia súc,...
Quản lý tài nguyên thiên nhiên: săn bắt chim thú, bảo vệ các nguồn sông suối,...
Tổ chức quản lý: hệ thống tổ chức cộng đồng, luật lệ truyền thống bản làng,...
Cộng đồng địa phương và đa dạng sinh học
Người Tukano ở phía Tây Bắc Brazin sống bằng một loại cây ăn củ và cá sông; họ có một đức tin mạnh mẽ và tập quán cấm chặt, phá rừng ở hai bên bờ thượng nguồn sông Rio Negro, nơi mà họ ý thức được rằng đó là nơi quan trọng để duy trì nguồn cá. Người Tukano tin rằng các khu rừng này thuộc về cá và con người không được chặt phá. Họ cũng tích cực tạo ra những nơi trú ngụ cho cá và chỉ cho phép đánh cá trong một khoảng ít hơn 40% diện tích bề mặt của sông.
Người Tukano
Cùng với việc duy trì cố định các ruộng làm nông nghiệp, người da đỏ Huastec tại vùng đông bắc nước Mỹ duy trì các khu rừng được quản lý - trên các khu vực đất dốc, dọc theo các con sông và ở những vùng khác xấu hay không phù hợp với sản xuất nông nghiệp tập trung. Các khu rừng này chứa đựng hơn 300 loài thực vật, từ đó con người có thể có được thực phẩm, gỗ, và các sản phẩm cần thiết khác. Các nguồn tài nguyên rừng này cung cấp cho những gia đình người Huastec lương thực phụ trợ trong thời gian mùa màng bị thất bát.

Người da đỏ Huastec
Người dân địa phương và chính quyền
Tại các nước đang phát triển, người dân địa phương thường khai thác các sản phẩm mà họ cần - kể cả thực phẩm, nhiên liệu và các nguyên liệu xây dựng - từ môi trường xung quanh.
Khi các vườn quốc gia mới được thành lập hoặc khi người ta tăng cường kiểm soát trong khu giáp ranh vùng đệm của các khu vườn quốc gia, dân cư có thể bị cấm không cho tiếp cận tới các nguồn tài nguyên mà họ vẫn thường sử dụng và thậm chí đôi khi họ đã từng bảo vệ.
Để có thể tồn tại, họ sẽ phá bỏ hàng rào của khu bảo tồn và sẵn sàng chiến đấu, đụng độ với các cán bộ của khu bảo tồn.
Một hậu quả nữa là việc thành lập vườn quốc gia thường biến những người dân địa phương trở thành những người săn bắt trộm, mặc dù họ không hề thay đổi bản chất hay phong cách sống so với trước kia. Tồi tệ hơn, nếu như người dân địa phương bỗng cảm thấy vườn quốc gia và các nguồn tài nguyên không bao giờ thuộc về họ nữa mà là sở hữu của chính phủ thì họ sẽ tranh thủ khai thác một cách không thương tiếc các nguồn tài nguyên của vườn quốc gia.
Một ví dụ điển hình của những cuộc xung đột này xuất hiện năm 1989 khi những thành viên nóng nảy của bộ tộc Bodo tại Assam, Ấn Độ đã giết chết 12 nhân viên của Vườn Quốc gia Manas và chiếm lĩnh khu vực vườn để làm nơi canh tác và săn bắt
Bộ tộc Bodo tại Assam, Ấn Độ
Đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa

Suy thoái tài nguyên thiên nhiên và mất đa dạng sinh học không chỉ đơn thuần là do nhu cầu phát triển kinh tế, hay do áp lực dân số ngày càng tăng lên mà còn là vấn đề rất phức tạp liên quan đến lối sống của con người, phong tục tập quán, thái độ hành vi của từng cá nhân, của cộng đồng, dân tộc.
Mỗi tộc người có một nền văn hoá và quan niệm riêng về tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa thường liên quan với nhau. Việc bảo vệ những nền văn hóa truyền thống đó trong môi trường tự nhiên của nó sẽ tạo cơ hội để đạt được cả hai mục đích: bảo vệ đa dạng sinh học và duy trì đa dạng văn hóa.
Đa dạng văn hóa gắn bó chặt chẽ với đa dạng gen của nhiều loại cây trồng. Đặc biệt ở khu vực miền núi, những nền văn hóa bị cách biệt bởi nhân tố địa lý, cho phép phát triển nhiều giống cây bản địa; những cây trồng này thích ứng với khí hậu, đất và các loài sâu hại địa phương và rất phù hợp với khẩu vị của dân cư ở đây.
Một số nguyên lý áp dụng ở các khu bảo tồn và dân địa phương.

Nguyên lý 1. Dân địa phương có những mối liên kết lâu đời với thiên nhiên và có sự hiểu biết sâu rộng về thiên nhiên. Người dân bản địa truyền thống thường góp phần quan trọng vào việc duy trì nhiều hệ sinh thái nhạy cảm trên trái đất thông qua việc sử dụng bền vững tài nguyên theo truyền thống và nền văn hoá dựa vào sự tôn trọng thiên nhiên. Do vậy, sẽ không có những xung đột gắn liền với mục tiêu của khu vực bảo tồn và sự hiện diện của những người bản địa truyền thống trong và ngoài phạm vi khu vực. Hơn nữa, họ sẽ nhận thấy sự đúng đắn và công bằng của các bên tham gia trong việc phát triển và thực thi các chiến lược bảo tồn ảnh hưởng đến đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, vùng bờ và các nguồn tài nguyên khác của họ và đặc biệt trong việc thiết lập và quản lý các khu bảo vệ.
Nguyên lý 2. Những thoả thuận giữa các tổ chức bảo tồn (gồm các cơ quan quản lý khu bảo vệ và dân bản địa truyền thống) đối với việc thành lập và quản lý khu bảo vệ sẽ dựa vào việc tôn trọng đầy đủ đối với quyền lợi của người dân bản địa truyền thống trong việc sử dụng truyền thống và bền vững đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, vùng bờ và các nguồn tài nguyên khác của họ. Đồng thời, các thoả thuận như thế cũng sẽ thừa nhận trách nhiệm của dân bản địa trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, tính thống nhất sinh thái và các nguồn tài nguyên thiên nhiên chứa trong các khu bảo vệ đó.

Một số nguyên lý áp dụng ở các khu bảo tồn và dân địa phương

Một số nguyên lý áp dụng ở các khu bảo tồn và dân địa phương.
Nguyên lý 3. Các nguyên tắc của sự phân quyền, sự tham gia, sự minh bạch và trách nhiệm giải trình sẽ được đề cập đến trong tất cả các nội dung đi đôi với lợi ích hai bên của khu bảo vệ và dân bản địa truyền thống.
Nguyên lý 4. Dân bản địa truyền thống được phân chia đầy đủ và công bằng các lợi ích với khu bảo tồn dựa vào sự công nhận các quyền hạn của các đối tác hợp pháp.
Nguyên lý 5. Quyền hạn của dân bản địa truyền thống trong mối liên hệ với khu bảo vệ thường chịu trách nhiệm quốc tế do nhiều vùng đất, lãnh thổ, nguồn nước, vùng ven biển và các tài nguyên khác mà họ sở hữu hay sử dụng vượt qua biên giới nhiều quốc gia

Một số nghiên cứu điển hình

Việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là rất quan trọng đối với sự sống còn của các cộng đồng bản địa truyền thống. Trong vòng 15 năm qua, các cộng đồng truyền thống là những người đóng vai trò quan trọng trong việc sở hữu và quản lý các vùng cảnh quan tương đối ít bị xáo động. IUCN (2000) đã nêu ra 11 nghiên cứu điển hình để minh hoạ các kinh nghiệm trên thế giới trong vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên trong các khu bảo vệ chồng lên vùng đất đai hay lãnh thổ của các cộng đồng bản địa.
Các đặc điểm chung

Các điểm được chọn rất đa dạng về nơi ở, từ các vùng ven viển và biển đến các vùng núi cao 5.000 m, từ vùng bắc cực đến môi trường nhiệt đới. Tổng diện tích các địa điểm 151.010 km2.
Các địa điểm đều có độ đa dạng cao và quan trọng về mặt sinh thái. Một số điểm là bãi đẻ của các loài hoang dã hay bán hoang dã có giá trị kinh tế. Mục tiêu bảo vệ của các địa điểm này cũng khác nhau, từ các khu bảo vệ nghiêm ngặt (hạng I, II, III) đến các khu bảo tồn ở các mức độ sử dụng bền vững cho phép (hạng IV đến VI theo IUCN).
Có hơn 32 cộng đồng truyền thống cùng với các nhóm dân thiểu số sống trong hay gần khu bảo vệ. Tổng số người cư ngụ thay đổi từ 0 đến 25.000. Mật độ dân số thay đổi từ 0,3 người/km2 đến 73,5 người/km2.
Người dân bản địa truyền thống sử dụng bền vững tài nguyên ở các mức độ khác nhau.
Các hoạt động liên quan đến quản lý

Các tiếp cận quản lý trong các nghiên cứu điển hình gồm 3 loại:
Đồng quản lý không hạn chế: có sự tham gia toàn diện của cộng đồng truyền thống trong các chương trình quản lý. Sự tham gia bao gồm tất cả mọi mặt của tiến trình quản lý bao gồm kế hoạch và thực hiện các qui hoạch và hoạt động quản lý. Đặc biệt dân bản địa truyền thống trở thành bộ phận trong hội đồng quản lý hay các tổ chức tương tự.
Đồng quản lý có hạn chế: cộng đồng truyền thống tham gia có giới hạn trong hoạt động quản lý. Tuy vậy, không có luật lệ hay các cơ chế hợp pháp để bảo đảm cho điều đó, tiếp tục đươc hay không phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của nhân viên quản lý.
Không có sự tham gia quản lý: hầu hết các quyết định quản lý được đưa ra bởi các nhà cầm quyền trong khu bảo vệ ở văn phòng trung tâm, nằm ở thủ đô.
Các xung đột chính
Quyền sở hữu đất và biển trong khu bảo tồn là nhân tố tạo ra hầu hết các khó khăn giữa cộng đồng bản địa và cơ quan bảo vệ.
Khai thác các nguồn tài nguyên đất và biển là nhân tố quan trọng thứ hai phát sinh xung đột giữa cộng đồng bản địa và cơ quan bảo vệ.
Một nguồn xung đột khác là sự nhượng đất cho các công ty thương mại để khai thác tài nguyên đất và biển (dầu khí, rừng, tôm cá,...) trong khu bảo vệ hay khu vực chung quanh khu bảo vệ.
Các bài học rút ra và các thách thức

1. Ở những nơi mà cộng đồng bản địa tham gia quản lý từ những giai đoạn đầu của việc qui hoạch thì ở đó có những lợi ích cho cả cộng đồng bản địa và chính quyền quản lý.
2. Cộng đồng bản địa tham gia càng rộng rãi trong tất cả các khía cạnh của quản lý thì càng ít khả năng nảy sinh xung đột
3. Ở những khu vực có một số loại hình cùng quản lý, thì thách thức là làm thế nào để củng cố và mở rộng cơ chế hợp tác. Ở những nơi mà cộng đồng truyền thống chưa có sự tham gia thì thách thức là làm thế nào để có được điều đó.

Những nỗ lực quốc tế trong công tác bảo tồn và phát triển bền vững
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu
Hội nghị Thượng đỉnh kéo dài 12 ngày vào tháng 6 năm 1992 tại Rio de Janeiro, Brazin. Nó chính thức được biết đến như Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (UNCED), tham dự có 178 nước với hơn 100 nguyên thủ quốc gia, cùng với những người đứng đầu tổ chức Liên Hiệp Quốc và các tổ chức phi chính phủ và bảo tồn khác. Mục đích của hội nghị là thảo luận bàn bạc tìm kiếm giải pháp cùng nhau phối hợp chặt chẽ để bảo vệ môi trường cùng với việc phát triển hiệu quả nền kinh tế tại những nước còn nghèo.
Các thành viên của hội nghị đã bàn bạc đi đến thoả thuận ký kết năm văn bản chính và khởi xướng thực hiện nhiều dự án mới.
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu
Tuyên bố Rio: Tuyên bố nêu rõ những nguyên tắc chỉ dẫn cho các nước giàu mạnh cũng như các nước nghèo về môi trường và phát triển. Tuyên bố khẳng định nguyên tắc ``người gây ô nhiễm phải trả tiền", thể theo nguyên tắc này một công ty nào hay một chính phủ nào gây ra thiệt hại, hay hủy hoại môi trường phải có trách nhiệm trả tiền đền bù và sửa chữa thiệt hại.
Công ước về Thay đổi Khí hậu: Sự thoả thuận này đòi hỏi các nước công nghiệp phải giảm thiểu các chất gây ô nhiễm như cacbon ôxit và các khí nhà kính khác do họ gây ra và phải thường xuyên làm báo cáo về kết quả của tiến trình này. Trong khi các giới hạn ô nhiễm chưa được xác định, công ước nêu rõ: các khí nhà kính phải được duy trì ổn định ở mức không làm ảnh hưởng đến khí hậu trên Trái đất.
Công ước Đa dạng Sinh học, CBD
(Convention on Biological Diversity)
Công ước đa dạng sinh học được ký kết năm 1992 tại Hội nghị Thượng đỉnh ở Rio de Janeiro bởi 150 nước và có hiệu lực kể từ tháng 12 năm 1992. Đến tháng 01 năm 2004 đã có 188 nước ký vào công ước, trong đó Mỹ là một trong số những nước ký sau cùng.
Công ước về Đa dạng Sinh học có ba mục tiêu:
bảo vệ đa dạng sinh học;
sử dụng bền vững đa dạng sinh học;
phân phối công bằng lợi nhuận của các sản phẩm mới lấy từ các loài hoang dã và các loài thuần dưỡng.

Khi ký vào công ước, các nước thành viên đã đồng ý thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để bảo tồn đa dạng sinh học. Các biện pháp đó là:
Xây dựng kế hoạch quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học
Xác định các hệ sinh thái, các loài và các nguồn gen quan trọng để bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học
Quan trắc đa dạng sinh học và các nhân tố có thể tác động đến đa dạng sinh học
Thiết lập hệ thống các khu bảo tồn
Quản lý tài nguyên sinh học để đảm bảo cho việc bảo tồn và sử dụng bền vững
Phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái
Thiết lập hệ thống bảo tồn chuyển vị

Công ước Đa dạng Sinh học,CBD
(Convention on Biological Diversity)
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu
Tuyên bố về Các nguyên tắc đối với Rừng. Sự nhất trí đạt được về công tác quản lý rừng đã gặp nhiều khó khăn vì những sự khác biệt sâu sắc về quan điểm giữa các nước ôn đới và nhiệt đới, các nước giàu và các nước nghèo. Cuối cùng đã đưa ra lời kêu gọi về quản lý rừng theo hướng bền vững mà không có một khuyến cáo nào kèm theo.
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu
Lịch trình 21. Tài liệu 800 trang này là một cố gắng mới để trình bày một cơ cấu toàn diện về những chính sách cần thiết cho sự phát triển theo chiều hướng bảo vệ môi trường. Lịch trình 21 chỉ ra sự liên kết giữa môi trường và các vấn đề khác vốn vẫn thường được đưa ra cân nhắc một cách tách biệt như quyền lợi của trẻ em, sự nghèo khó, vấn đề phụ nữ, chuyển giao công nghệ,... Các kế hoạch hoạt động được vạch ra để giải quyết các vấn đề về khí quyển, suy thoái đất, hoang mạc hóa, phát triển các vùng núi, nông nghiệp và phát triển nông thôn, việc phá rừng, đất ngập nước, môi trường, thủy vực, và vấn đề ô nhiễm. Các cơ chế về tài chính, tổ chức, công nghệ và pháp luật để thực hiện những hoạt động này cũng được mô tả trong Lịch trình 21
Tài trợ quốc tế và phát triển bền vững

Càng ngày nhóm các nước phát triển ý thức được rằng nếu họ muốn bảo vệ đa dạng sinh học tại các nước đang phát triển giàu có về số loài nhưng lại rất nghèo về khả năng tài chính thì họ cần phải cung cấp tài chính. Những sự giúp đỡ của các tổ chức này rất đáng kể.
Mặc dù quỹ sử dụng cho bảo tồn ở những nước đang phát triển được tăng một cách đáng kể nhưng số tiền chi trả vẫn chưa đủ để bảo vệ những căn nhà lớn của sự đa dạng sinh học rất cần thiết cho tương lai phát triển lâu dài của xã hội loài người.
Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), được thành lập năm 1991 do Ngân hàng Thế giới cùng với Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc UNDP và Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc UNEP.
Quỹ Môi trường Quốc gia (NEF) được thành lập tại trên 20 nước với nguồn vốn hỗ trợ của chính phủ Mỹ và các tổ chức khác như Ngân hàng Thế giới và Quỹ Bảo tồn Các loài Hoang dã Thế giới.
Tài trợ quốc tế và phát triển bền vững
Các nước phát triển trả nợ thiên nhiên của mình bằng các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học. Tất cả các nước đang phát triển nợ các cơ quan tài chính quốc tế khoảng 1,3 ngàn tỷ đô la, các ngân hàng thương mại là chủ nợ của họ sẽ bán lại những khoản nợ này với giá cực kỳ ưu đãi trong thị trường thương mại quốc tế. Các tổ chức bảo tồn quốc tế mua lại những khoản nợ này, sau đó khoản nợ sẽ được bãi bỏ cho các nước đang phát triển với điều kiện các nước này hàng năm phải bỏ ra một khoản tiền nội địa để tài trợ cho các hoạt động bảo tồn.
Trong một cơ chế trao đổi nợ khác là các chính phủ của những nước phát triển là chủ nợ trực tiếp của các nước đang phát triển có thể quyết định cắt giảm phần nào các khoản nợ nếu như nước đang phát triển đồng ý sẽ đóng góp vào quỹ môi trường quốc gia hay cho các hoạt động bảo tồn một khoản tiền nhất định
CREDITOR
US$ 11 m
WWF may initiate
discussion between
parties, acts as an
intermediary, and
facilitates negotiations
WWF may design conservation criteria by which
grants made from the fund will be evaluated and/or oversee the fund’s management
Commercial Debt for Nature Swaps
STEP 1
STEP 2
US$ 28 m
of debt
NGO
(WWF)
US$ 28 m
of debt
is cancelled
DEBTOR
GOVERNMENT
US$ 25 m
local currency
equivalent
STEP 3
CONSERVATION
PROJECT FUND
Assumes: 40% debt purchase price
90% payment in local currency

Các ngân hàng phát triển quốc tế và việc suy thoái hệ sinh thái

Tốc độ phá hủy rừng nhiệt đới, tàn phá các nơi cư trú và mất mát hệ sinh thái thủy vực đôi khi lại còn được tăng cường bởi những dự án thiếu thận trọng tài trợ bởi những cơ quan phát triển quốc tế của những nước tiên tiến hay bởi các ngân hàng phát triển đa phương (MDB).
Các ngân hàng phát triển đa phương được kiểm soát bởi các chính phủ của một số nước phát triển chính như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh và Pháp. Các chính sách của MDB được các nước thành viên đại diện, các tổ chức bảo tồn xem xét tỷ mỉ. Đặc biệt, như một số dự án yếu kém của Ngân hàng Thế giới đã bị công luận phản ứng mạnh mẽ, Ngân hàng Thế giới phản hồi bằng cách phải đưa vấn đề bảo vệ đa dạng sinh học như một phần của chính sách trợ giúp của mình và đòi hỏi các dự án mới phải cân nhắc kỹ và có trách nhiệm hơn về vấn đề môi trường.

Làm sao để các ngân hàng phát triển đa phương hoạt động có trách nhiệm hơn? Trước tiên họ phải ngừng ngay việc cho vay đối với những dự án làm phá hủy môi trường. Việc làm này đòi hỏi các ngân hàng phải phân tích các dự án phát triển bằng cách sử dụng các mô hình phân tích chi phí lợi nhuận kinh tế kể cả cho các tác động đến môi trường và hệ sinh thái của dự án. Phân tích chính xác một dự án phải bao gồm tất cả các chi phí, lợi nhuận, kể cả tác hại của xói mòn đất, sự mất mát đa dạng sinh học, tác động của ô nhiễm nước đến sức khoẻ của người dân địa phương, và các thiệt hại về thu nhập do việc các nguồn tài nguyên tái tạo bị phá hủy. Các chương trình thúc đẩy việc thay đổi trạng thái đất, xoá đói giảm nghèo vùng nông thôn, thiết lập các khu bảo vệ và thực sự phát triển bền vững phải được khuyến khích.
Cho vay để phát triển: một số trường hợp cụ thể
Từ những năm bảy mươi đến cuối những năm 80, Ngân hàng Thế giới đã cho chính phủ Inđônêxia vay 560 triệu đôla để định cư hàng triệu người Inđônêxia từ những đảo quá đông đúc như Java, Bai, Lombok đến những vùng thưa thớt dân cư tại các đảo Borneô, Niu Ghine và Sulaoesi. Những người định cư mới này dự định sẽ phải trồng lương thực để nuôi sống chính họ cũng như trồng những cây khác để bán và thu tiền mặt như cao su, cọ dầu, cacao để lấy tiền thanh toán các khoản vay cho Ngân hàng Thế giới. Chương trình di chuyển dân cư này đã thất bại về mặt môi trường và kinh tế vì đất đai vùng ven các đảo không phù hợp với các hoạt động nông nghiệp. Kết quả là rất nhiều người trong số những người di cư đến trở nên nghèo hơn, khánh kiệt và họ bắt buộc phải phá rừng để làm nông nghiệp theo lối du canh, du cư. Không chỉ có vậy, ít nhất 2 triệu ha rừng mưa nhiệt đới và khoảng gần 6 triệu ha các hệ sinh thái thủy vực ở xung quanh bị tàn phá bởi những người mới đến.
Cho vay để phát triển: một số trường hợp cụ thể
Ở Brazin: Dự án làm đường cao tốc tại bang Rondonia của Brazin là một ví dụ điển hình về sự thất bại thảm hại của một chương trình phát triển. Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Liên phát triển Châu Mỹ đã cho Brazin vay hàng trăm triệu đô la từ năm 1981 để xây dựng đường và các khu định cư mới trong khu vực này. Khi đường cao tốc đi qua Porto Velho, thủ phủ của bang Rondonia được khánh thành, những người nông dân sống tại miền Nam và Đông Bắc Brazin buộc phải chuyển khỏi mảnh đất ruột thịt của họ do các hoạt động công nghiệp gia tăng cũng như do luật sở hữu đất đai, từng đoàn người đã di chuyển xuống Rondonia để tìm kiếm những miền đất còn chưa có ai sở hữu. Hầu hết đất đai ở Rondonia không phù hợp cho các hoạt động nông nghiệp, tuy vậy vẫn được thu dọn lại để lấy đất đền bù cho nông dân. Kết quả là Rondonia trở thành nơi có tốc độ phá hủy rừng nhanh nhất trên phạm vi toàn thế giới trong thập kỷ của những năm tám mươi. Đỉnh cao của sự phá rừng là năm 1987, 20 triệu ha rừng (bằng 2,5% tổng diện tích của Brazin) đã bị thiêu cháy. Cùng một lúc, các dự án nông nghiệp, công nghiệp, giao thông được tiến hành tại đây mà không hề tiến hành bất cứ một nghiên cứu đánh giá tác động môi trường nào.
Trong khi vội vàng phát triển khu vực, chính phủ Brazin cũng cho xây dựng một con đường đi qua Khu Bảo tồn Amerindian và các khu bảo tồn sinh học khác, việc làm này đã làm cho các khu bảo tồn đáng ra phải được bảo vệ một cách tuyệt đối lại được mở ra và trở thành đối tượng của việc phá rừng. Kết quả ở đây chỉ là sự phá hủy môi trường với một số lợi ích kinh tế không đáng kể.
Cho vay để phát triển: một số trường hợp cụ thể

Các dự án xây dựng đập nước. Một loại dự án quan trọng được các cơ quan, các ngân hàng phát triển hỗ trợ tài chính là xây dựng các đập thủy lợi và các nhà máy thủy điện. Những dự án này phá hủy những hệ sinh thái thủy vực lớn do việc thay đổi độ sâu của nước, chế độ dòng chảy, tăng việc lắng đọng trầm tích, tạo những rào chắn ngăn cản sự di chuyển, phát tán.
Việc mất mát lớp thực vật che phủ trên những khu đất dốc làm cho đất bị xói mòn và gây lắng đọng trầm tích khiến cho công trình giảm bớt tính hiệu quả, chi phí bảo dưỡng sẽ tăng cao, gây ra những hủy hoại cho các mương máng thủy lợi và cho đập. Việc bảo vệ rừng và thảm thực vật tự nhiên của khu vực rừng đầu nguồn ngày nay được ý thức một cách rất rộng rãi như là một phương pháp quan trọng và rẻ tiền để đảm bảo tính hiệu quả và tuổi thọ của công trình thủy lợi này, đồng thời vẫn bảo tồn được một diện tích lớn nơi cư trú tự nhiên cho các loài động, thực vật.
Một ví dụ thành công của công tác đầu tư vào môi trường có hiệu quả là khoản vay 1/2 triệu đô của Ngân hàng Thế giới cho dự án phát triển và bảo vệ Vườn Quốc gia Dumoga-bone tại phía Bắc Sulaoesi - Inđônêxia. 78.700 ha rừng mưa nguyên sinh nằm trong khu vực rừng đầu nguồn của một dự án thủy lợi trị giá 60 triệu đô (do Ngân hàng Thế giới tài trợ) cũng được chuyển sang làm Vườn Quốc gia. Trong trường hợp đặc biệt này, Ngân hàng thế giới có khả năng bảo vệ việc đầu tư ban đầu của mình thông qua việc hỗ trợ cho môi trường chiếm ít hơn 2% tổng chi phí dự án và thành lập được một Vườn Quốc gia lớn đi vào hoạt động.

* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Phan Thanh Quyền
Dung lượng: | Lượt tài: 14
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)