Bai lam ve li bach do phu
Chia sẻ bởi Võ Nhật Trường |
Ngày 21/10/2018 |
29
Chia sẻ tài liệu: Bai lam ve li bach do phu thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Tiếng Việt
I, Lí Bạch
Một số nét chính về Lí Bạch
+ Ông sinh năm 701, mất 762(thọ 62 tuổi)
+ Ông sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương)
+ Quê ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ, tức Lũng Tây ngàu xưa)
+ Tự Thái Bạch, Hiệu Thanh Liên cư sĩ
+ Ông là nhà thơ nổi tếng của Trung Quốc, thời Đường
+ Những tác phẩm thơ của ông thể hiện một tâm hồn tự do hào phóng
+ Người đời sau gọi ông là "Thi tiên"
Lí Bạch xuất thân trong một gia đình giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa. Lớn lên 25 tuổi, thích ngao du sơn thuỷ. Đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông. Cùng 5 người bạn lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca"(uống rượu ca hát), người đời gọi là "Trúc Khê lục dật" (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đo Tràng An 3 năm nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một " văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đI ngao du sơn thuỷ. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm ông 62 tuổi, ông đI chơI thuyền trên sông TháI Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết.
Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ), trích tiên (tiên giáng trần), Tửu trung tiên (ông tiên trong làng rượu),...
Theo truyền thì ông làm 20,000 bài, nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 18,000 bài
Thơ ông viết về đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi đau đớn của người vợ trẻ xa chồng, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng,... đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.
Lí Bạch
Dịch thơ
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Tĩnh dạ tứ
(Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)
Một số tác phẩm của Lí Bạch
Phiên âm
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa
Đầu giường, ánh trăng rọi sáng,
Tưởng là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ
Phiên âm
Bất hướng Đông Sơn cửu
Tường vi kỷ độ hoa ?
Bạch vân hoàn tự tán,
Minh nguyệt lạc thuỳ gia.
ức Đông sơn kỳ 1
(Nhớ Đông Sơn Kỳ 1)
Dịch thơ
Đông Sơn lâu không đến
Tường vi nở mấy lần ?
Mây trắng vẫn tự tan
Nhà ai trăng lạc xuống
Dịch nghĩa
Đã lâu không đến Đông Sơn
Tường vi nở mấy lần ?
Mây trắng lại tự tan ra
Trăng sáng lọt vào nhà ai ?
ức Đông sơn kỳ 2
(Nhớ Đông Sơn Kỳ 2)
Phiên âm
Ngã kim huề Tạ kỹ
Trường khiếu tuyệt nhân quần
Dục báo Đông Sơn khách
Khai quan tảo bạch vân
Dịch thơ
Nay mang nàng Tạ kỹ,
Thở dài lánh người đời.
Báo khách Đông Sơn nọ,
Mở cửa quét mây mù.
Dịch nghĩa
Ta nay đem theo nàng ca kỹ của nhà họ Tạ,
Thở dài mà xa dời người đời.
Muốn báo cho người ở Đông Sơn,
Hãy quét sạch mây trắng.
Độc toạ Kính Đình sơn
(Ngồi một mình ở núi Kính Đình)
Phiên âm
Chúng điểu cao phi tận,
Cô vân độc khứ nhàn.
Tương khan lưỡng bất yếm,
Chỉ hữu Kính Đình sơn.
Dịch thơ
Chim choc cao bay hết,
Vầng mây lững thững trôi.
Nhìn nhau không chán mắt,
Chỉ núi Kính Đình thôi.
Dịch nghĩa
Bầy chim bay đI hết,
Đám mây lẻ một mình lững lờ.
Nhìn nhau mãI không chán,
Chỉ có núi Kính Đình.
I, Đỗ Phủ
Một số nét chính về Đỗ Phủ
+ Ông sinh năm 712, mất năm 770
+ Tự Tử Mĩ, hiệu Thảo Đường
+ Đỗ Phủ người huyện Củng, tỉnh Hà Nam
+ Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, làm quan mấy đời nhưng đến đời ông thì sa sút
+ Thời gian trôi qua với cuộc đời của ông và rồi ông chết vì đói rét và bệnh tật trong một chiếc thuyền rách nát trên sông Tương
+ Ông để lại hơn 1400 bài thơ
Thơ Đỗ Phủ tập trung biểu hiện chủ yếu: tinh thần phản kháng cường quyền, lòng yêu thương nhân dân và nhiệt tình yêu nước thiết tha
Thường trong nhiều bài, ba nội dung ấy gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau tạo nên giá trị thực của thơ ca Đỗ Phủ
Từ chính những khổ đau của bản thân mình, ông hoà chung nỗi đau của riêng mình, của nhân dân và của cả nước. Thơ ca của Đỗ Phủ chính là những thiên ký sự về đời ông, một cuộc đời thăng trầm, mà trầm nhiều hơn thăng
Tuy chưa thoát khỏi thế giới quan của tư tưởng Nho gia hẹp hòi, nhưng đó là những hạn chế có tính chất thời đại, thơ ca của Đỗ Phủ không vì thế mà giảm đI giá trị của nó
Nhà thơ vẫn hoàn thành sứ mệnh nghệ thuật của mình một cách vẻ vang
Đỗ Phủ
Một số tác phẩm của Đỗ Phủ
Lữ dạ thư hoài
(Nỗi niềm đêm đất khách)
Phiên âm
Tế thảo vi phong ngạn
Nguy tường độc dạ chu
Tinh thuỳ bình dã khoát
Nguyệt dũng đại giang lưu
Danh khởi văn chương trứ
Quan ưng lão bệnh hưu
Phiêu phiêu hà sở tự
Thiên địa nhất sa âu?
Dịch thơ
Gió êm bờ cỏ mượt
Thuyền chiếc cột buồm cao
Sông rộng trôI vầng thỏ
Đồng bằng rợp ánh sao
Thơ văn danh há cậy
Già yếu chức nài bao
Âu trắng trong trười đất
ChơI vơI tựac chốn nào?
Dịch nghĩa
Trên bờ cỏ lăn tăn dưới gió hiu hiu
Chiếc thuyền vươn cao cột buồm trong đêm quạnh
Sao rũ xuống cánh đồng bằng phẳng bao la
Trăng tung toé trên sông chảy cuồn cuộn
Danh tiếng há nhờ văn chương mà lừng lẫy
Làm quan cũng nên về nghĩ khi già ốm
Chơi vơi giống như cáI gì ?
Như con chim âu giữa trời đất
Tặng Lí Bạch
Phiên âm
Thu lai tương cố thượng phiêu bồng
Vị tựu đan sa quý Cát Hồng
Thống ẩm cuồng ca không độ nhật
Phi dương bạt hộ vị thuỳ hùng
Dịch thơ
Thu sang thân vẫn tựa phiêu bồng
Chửa luyện xong đan, thẹn Cát Hồng
Uống mãI hát tràn qua suốt buổi
Tranh hùng ai nhỉ, bướng cùng ngông
Dịch nghĩa
Thu tới nhìn nhau còn như cỏ bồng xiêu dạt
Chưa luyện xong đan thẹn với Cát Hồng
Uống say khướt hát lung tung cho hết ngày
Đã bướng lại ngông, vì ai mà làm anh hùng
THE END
Good luck!
I, Lí Bạch
Một số nét chính về Lí Bạch
+ Ông sinh năm 701, mất 762(thọ 62 tuổi)
+ Ông sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương)
+ Quê ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ, tức Lũng Tây ngàu xưa)
+ Tự Thái Bạch, Hiệu Thanh Liên cư sĩ
+ Ông là nhà thơ nổi tếng của Trung Quốc, thời Đường
+ Những tác phẩm thơ của ông thể hiện một tâm hồn tự do hào phóng
+ Người đời sau gọi ông là "Thi tiên"
Lí Bạch xuất thân trong một gia đình giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa. Lớn lên 25 tuổi, thích ngao du sơn thuỷ. Đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông. Cùng 5 người bạn lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca"(uống rượu ca hát), người đời gọi là "Trúc Khê lục dật" (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đo Tràng An 3 năm nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một " văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đI ngao du sơn thuỷ. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm ông 62 tuổi, ông đI chơI thuyền trên sông TháI Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết.
Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ), trích tiên (tiên giáng trần), Tửu trung tiên (ông tiên trong làng rượu),...
Theo truyền thì ông làm 20,000 bài, nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 18,000 bài
Thơ ông viết về đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi đau đớn của người vợ trẻ xa chồng, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng,... đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.
Lí Bạch
Dịch thơ
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Tĩnh dạ tứ
(Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)
Một số tác phẩm của Lí Bạch
Phiên âm
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa
Đầu giường, ánh trăng rọi sáng,
Tưởng là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ
Phiên âm
Bất hướng Đông Sơn cửu
Tường vi kỷ độ hoa ?
Bạch vân hoàn tự tán,
Minh nguyệt lạc thuỳ gia.
ức Đông sơn kỳ 1
(Nhớ Đông Sơn Kỳ 1)
Dịch thơ
Đông Sơn lâu không đến
Tường vi nở mấy lần ?
Mây trắng vẫn tự tan
Nhà ai trăng lạc xuống
Dịch nghĩa
Đã lâu không đến Đông Sơn
Tường vi nở mấy lần ?
Mây trắng lại tự tan ra
Trăng sáng lọt vào nhà ai ?
ức Đông sơn kỳ 2
(Nhớ Đông Sơn Kỳ 2)
Phiên âm
Ngã kim huề Tạ kỹ
Trường khiếu tuyệt nhân quần
Dục báo Đông Sơn khách
Khai quan tảo bạch vân
Dịch thơ
Nay mang nàng Tạ kỹ,
Thở dài lánh người đời.
Báo khách Đông Sơn nọ,
Mở cửa quét mây mù.
Dịch nghĩa
Ta nay đem theo nàng ca kỹ của nhà họ Tạ,
Thở dài mà xa dời người đời.
Muốn báo cho người ở Đông Sơn,
Hãy quét sạch mây trắng.
Độc toạ Kính Đình sơn
(Ngồi một mình ở núi Kính Đình)
Phiên âm
Chúng điểu cao phi tận,
Cô vân độc khứ nhàn.
Tương khan lưỡng bất yếm,
Chỉ hữu Kính Đình sơn.
Dịch thơ
Chim choc cao bay hết,
Vầng mây lững thững trôi.
Nhìn nhau không chán mắt,
Chỉ núi Kính Đình thôi.
Dịch nghĩa
Bầy chim bay đI hết,
Đám mây lẻ một mình lững lờ.
Nhìn nhau mãI không chán,
Chỉ có núi Kính Đình.
I, Đỗ Phủ
Một số nét chính về Đỗ Phủ
+ Ông sinh năm 712, mất năm 770
+ Tự Tử Mĩ, hiệu Thảo Đường
+ Đỗ Phủ người huyện Củng, tỉnh Hà Nam
+ Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, làm quan mấy đời nhưng đến đời ông thì sa sút
+ Thời gian trôi qua với cuộc đời của ông và rồi ông chết vì đói rét và bệnh tật trong một chiếc thuyền rách nát trên sông Tương
+ Ông để lại hơn 1400 bài thơ
Thơ Đỗ Phủ tập trung biểu hiện chủ yếu: tinh thần phản kháng cường quyền, lòng yêu thương nhân dân và nhiệt tình yêu nước thiết tha
Thường trong nhiều bài, ba nội dung ấy gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau tạo nên giá trị thực của thơ ca Đỗ Phủ
Từ chính những khổ đau của bản thân mình, ông hoà chung nỗi đau của riêng mình, của nhân dân và của cả nước. Thơ ca của Đỗ Phủ chính là những thiên ký sự về đời ông, một cuộc đời thăng trầm, mà trầm nhiều hơn thăng
Tuy chưa thoát khỏi thế giới quan của tư tưởng Nho gia hẹp hòi, nhưng đó là những hạn chế có tính chất thời đại, thơ ca của Đỗ Phủ không vì thế mà giảm đI giá trị của nó
Nhà thơ vẫn hoàn thành sứ mệnh nghệ thuật của mình một cách vẻ vang
Đỗ Phủ
Một số tác phẩm của Đỗ Phủ
Lữ dạ thư hoài
(Nỗi niềm đêm đất khách)
Phiên âm
Tế thảo vi phong ngạn
Nguy tường độc dạ chu
Tinh thuỳ bình dã khoát
Nguyệt dũng đại giang lưu
Danh khởi văn chương trứ
Quan ưng lão bệnh hưu
Phiêu phiêu hà sở tự
Thiên địa nhất sa âu?
Dịch thơ
Gió êm bờ cỏ mượt
Thuyền chiếc cột buồm cao
Sông rộng trôI vầng thỏ
Đồng bằng rợp ánh sao
Thơ văn danh há cậy
Già yếu chức nài bao
Âu trắng trong trười đất
ChơI vơI tựac chốn nào?
Dịch nghĩa
Trên bờ cỏ lăn tăn dưới gió hiu hiu
Chiếc thuyền vươn cao cột buồm trong đêm quạnh
Sao rũ xuống cánh đồng bằng phẳng bao la
Trăng tung toé trên sông chảy cuồn cuộn
Danh tiếng há nhờ văn chương mà lừng lẫy
Làm quan cũng nên về nghĩ khi già ốm
Chơi vơi giống như cáI gì ?
Như con chim âu giữa trời đất
Tặng Lí Bạch
Phiên âm
Thu lai tương cố thượng phiêu bồng
Vị tựu đan sa quý Cát Hồng
Thống ẩm cuồng ca không độ nhật
Phi dương bạt hộ vị thuỳ hùng
Dịch thơ
Thu sang thân vẫn tựa phiêu bồng
Chửa luyện xong đan, thẹn Cát Hồng
Uống mãI hát tràn qua suốt buổi
Tranh hùng ai nhỉ, bướng cùng ngông
Dịch nghĩa
Thu tới nhìn nhau còn như cỏ bồng xiêu dạt
Chưa luyện xong đan thẹn với Cát Hồng
Uống say khướt hát lung tung cho hết ngày
Đã bướng lại ngông, vì ai mà làm anh hùng
THE END
Good luck!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Võ Nhật Trường
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)