Bai giang mi hoc
Chia sẻ bởi Trần Tác |
Ngày 21/10/2018 |
29
Chia sẻ tài liệu: bai giang mi hoc thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
CÁI ĐẸP
CÁI ĐẸP
CÁI ĐẸP
Câu hỏi: Tìm hiểu
quan niệm cái đẹp trong lịch sử ?
1. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học Hy Lạp cổ đại
- Đê mô cơ rít – Arixtốt cho rằng thuộc tính cái đẹp là cân xứng hài hoà, trật tự, số lượng, chất lượng, dẫn tới cái đẹp (dựa vào quan điểm vũ trụ luận - thuộc tính tự nhiên dẫn tới phẩm chất cái đẹp. Thước đo thế giới tự nhiên được con người đo cái đẹp của con người)
- Platon, ông cũng thừa nhận cái đẹp có phẩm chất: cân xứng hài hoà, trật tự, số lượng, hoàn thiện hoàn mĩ; tuy nhiên nó chỉ tồn tại ở thượng giới mà thôi.
2. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học Trung cổ phong kiến
- Xuất phát từ triết lí khắc kỉ giả dối, họ chia thế giới thành hai cõi tiên(sướng) cõi khổ (cõi trần)
Cuộc đời không có cái đẹp, nó như ngọn nến leo lét trước cơn gió mạnh, như con thuyền monh manh trước cơn sóng giữ.
- Khuyên con người ta hãy “cam chịu”, ngày ngày cầu kinh xám hối chờ khi rũ sạch bụi trần đến cõi cực lạc.
3. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học thời Phục Hưng
Con người nhận ra sự giả dối của triết lí khắc kỉ phong kiến.
Con người đòi xét lại các giá trị của cái đẹp (Bru nô lên dàn hoả thiêu vẫn giõng dạc tuyên bố “Trái đất tròn”; Con người tự nhiên sinh ra chứ không phải chúa trời sinh ra ông A Đam và bà E Va…)
- Cái đẹp phải được xem xét ở chân giá trị đích thực của nó, có tính khách quan và tính thực tiễn.
4. Quan niệm về cái đẹp của chủ nghĩa cổ điển(TK 17)
Sự hoà hoãn giữa tư sản – phong kiến(nước Pháp)
- Xếp lại vẻ đẹp tự do phóng khoáng của thời Phục Hưng, kêu gọi tuân thủ cái đẹp khắt khe theo chuẩn mực mà viện hàn lâm khoa học Pháp nêu lên(Luật tam duy nhất; đề cao nghĩa vụ với quốc gia)
5. Quan niệm thời kì khai sáng
Giai cấp Tư Sản lật nhào giai cấp phong kiến, thừa nhận cái đẹp trong sáng hoà điệu của tự nhiên là vẻ đẹp lí tưởng của con người
- Do vậy Đi Đrô nói chỉ có cái đẹp dựa trên sự liên hệ với những tạo vật của thiên nhiên thì mới sống lâu. Luận điểm này có tính siêu hình.
6. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học cổ điển Đức
6.1. I. Kant (1724 - 1804)
- Đề xuất tư tưởng mĩ học đề cao cái tôi “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại”
- Ông thừa nhận cái đẹp khách quan, nhưng chỉ do thị hiếu chủ quan của con người “Vẻ đẹp không ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà trong mắt kẻ si tình”
- Ông thừa nhận không có khoa học về nghệ thuật(cái đẹp), mà chỉ có phán đoán về nghệ thuật…
6.2. F. Hê ghen (1770 -1831)
- Ông đã đứng trên quan điểm lịch sử để giải quyết vấn đề cái đẹp.
- Thừa nhận cái đẹp theo quy luật khách quan, cái đẹp trong tự nhiên nhưng theo ông cho rằng nó mờ nhạt và thô thiển.
- Cái đẹp trong nghệ thuật, tức là ý niệm được thể hiện trong hình tượng, nghệ thuật là sự cụ thể hoá bằng hình tượng. Ông cho rằng chỉ có cái đẹp trong nghệ thuật mới đẹp thật sự, vì nó có cái đẹp tinh thần – “Ý niệm của thần linh”
- Quan niệm về cái đẹp của ông không nhất quán, mâu thuẫn với triết học – tôn giáo - nghệ thuật.
7. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học dân chủ Nga
Bêlinxki, Tsecnưsepxki, Đôbrôcliu bốp, đều cho rằng “cái đẹp là cuộc sống”, cái đẹp trong nghệ thuật phản ánh cái đẹp ngoài đời”.
- Cuộc sống đẹp thuộc về nhân dân, nghệ thuật đẹp thuộc về nghệ thuật đấu tranh cho lý tưởng cao quí hàng triệu người.
- Cái đẹp luôn biến đổi mang tính lịch sử, cái đẹp mang tính giai cấp.
- Hạn chế của mỹ học của các nhà mĩ học dân chủ Nga chỉ dừng lại “Tư tưởng cách mạng nông dân” chưa bắt nhịp với chiều hướng tất yếu của lịch sử”.
8. Quan niệm về cái đẹp của triết học cổ Phương Đông
Nho giáo (Khổng Tử - Mạnh Tử)
- Mỹ gắn với thiện “ Tận thiện, tận mỹ” yêu cầu cái đẹp.
- Tính thống nhất: Thiện - nội dung; Mỹ - hình thức “ Người có đức tất có lời, người có lời tất có đức”
- Mạnh Tử: cái thiện, tâm, tín sự thống nhất chân, thiện, mỹ (. Ông cho rằng: Làm cho đầy đặn gọi là đẹp - chỉ sự tu dưỡng cái tín, cái thiện, phù hợp với nghĩa và đạo).
- Tuân Tử: cái đẹp của con người ở sự tu dưỡng đạo đức, học tập không ngừng để tính ác đi vào quỹ đạo của cái thiện.
Quan niệm đạo giáo
- Vô thanh, vô ngôn, vô sắc “đạo” ở nguyên tắc trong tự nhiên. “Người theo phép đất, đất theo phép trời, trời theo phép đạo, đạo theo phép tự nhiên” (Lão tử)
- Đạo từ trong nhận thức chủ quan, hy vọng điều hoà những mâu thuẫn trong đời sống hiện thực để đi vào hư tĩnh (Đạo giáo: Cái đẹp của đạo chân chính, không đầy không vơi, không thành không mất, không có giới hạn giữa bộ phận và chỉnh thể. Còn Phác chỉ là cái bản nhiên nguyên thuỷ, cho nên đạo giáo chủ trương cái đẹp tự nhiên).
- Cái đẹp là đỉnh cao khí tuệ, tượng trưng ở toà sen
- Hướng con người tới cõi niết bàn siêu thực, siêu không gian thời gian, nơi mất giới hạn khách thể và chủ thể.
- Phật giáo phủ định hiện thế, tìm cái đẹp siêu thoát.
Quan niệm của đạo Phật
II. Đặc điểm của cái đẹp
1. Cái đẹp từ góc nhìn bản thể
- Cái đẹp trước hết do các phẩm chất các yếu tố kết cấu khách quan của sự vật hiện tượng (tính cân đối, hài hoà, tỉ lệ, nhịp điệu, nhạc điệu đem lại)
- Cái đẹp vừa thể hiện bên ngoài vừa cái đẹp tâm linh.
- Tính chất bản thể ta có thể tiếp cận có thể không tiếp cận, có thể gọi tên và không gọi tên được. Tính bản thể vừa đẹp tuyệt đối vừa tương đối.
- Trong mĩ học thường gọi là “độ” thiết diện vàng, đó là thước đo không xác định.
3. Đẹp trong chỉnh thể toàn vẹn
- Hài hoà trong chỉnh thể: bên ngoài – bên trong; hình thức - nội dung.
- Các bộ phận không cân xứng hài hoà nhưng được đặt trong tương quan nào đó của chỉnh thể, do vậy cũng tạo nên sự hài hoà thống nhất của các yếu tố tạo nên kết cấu. (ví dụ vẻ đẹp hình thể con người với đạo đức của họ)
2. Đẹp trong quy luật hài hoà
- Các yếu tố trong chỉnh thể có tỉ lệ nhất định rất uyển chuyển(mảng khối, số lượng - chất lượng; đầy - khuyết; lồi – lõm; thô - nhẵn; dài - ngắn; trong - đục; nhanh - chậm ; cong - thẳng…)
- Khái niệm hài hoà có thuộc tính: vừa trật tự hợp lí vừa lộn xộn. Hài hoà có yếu tố cân xứng, thế cân bằng. (ví dụ cánh hoa lan)
III. Cái đẹp trong thế giới tự nhiên
Thế giới tự nhiên tồn tại trước chúng ta – cái đẹp phải chăng có trước loài người?
- Tự nhiên tồn tại dưới hình thức “thống nhất của các mặt đối lập”(Lê nin)
- Thế giới tồn tại dưới hình thức thống nhất: Mặt trời - đất - mặt trăng – con người - vần thơ trăng dằm…
- Hình thái thống nhất ở tự nhiên từ nội dung đến hình thức: ong thụ phấn cho hoa – hoa nhiều hương sắc – ong đem mật ngọt cho đời
Nguyên lí liên hệ và nguyên tắc vận động không ngừng (Người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông – Hê ra clít), quy luật đấu tranh thống nhất và đào thải còn gọi là quy luật tự nhiên. Sự lựa chọ tự nhiên ngày càng được các vật tốt hơn và đẹp hơn.
- Cái đẹp tự nhiên xét về mặt cấu trúc: hình dáng, màu sắc, phẩm chất là cần thiết. Trong văn học thì quan trọng là cảnh và tình.
Kết luận
+ Cái đẹp trong tự nhiên tồn tại khách quan, ở dạng tiềm năng dự phóng.
+ Tác dụng gợi mở sự liên tưởng, sức sáng tạo và phát triển con người(khi nhân chứng, khi bạn tâm tình).
- Mọi vật trong tự nhiên liên kết với nhau, quy định lẫn nhau về không gian, thời gian, trên dưới, trước sau(Rễ cây đại thụ cần nhiều nước - nhờ loại nấm kí sinh bám vào rễ. Nấm nhờ rễ cây hút chất đạm cần thiết để tồn tại).
IV. Cái đẹp trong xã hội
Cơ sở đánh giá cái đẹp trong xã hội là lao động sản xuất
Con người đẹp là con người lao động sáng tạo.
Lao động bộc lộ phẩm chất sáng tạo của con người và thể hiện tính người nhất.
Hệ tiêu chí chân - thiện – mĩ.
1.1. Cái đẹp giúp ta phát hiện ra sự thật của đời sống, đúng ,sai, phải trái và giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn và xung đột xã hội.
- “Cái đẹp sẽ tăng lên gấp trăm lần, nếu nó đạt được sự thật quí báu” Sếch xpia.
- Hình thức đẹp đẽ nếu chứa đựng nội dung giả dối không đem lại cảm nhận về cái đẹp
1.2. Cái đẹp phải dựa trên cái thật và cái tốt.
- Tuy nhiên mọi cái thật cái tốt chưa phải là toàn bộ cái đẹp
- Cái đẹp có phẩm chất đặc biệt của thực tại(nó là phẩm chất tích tụ mọi phẩm chất quí giá của tự nhiên và xã hội)
- Kết luận: xét trong mối quan hệ tổng thể, cái đẹp phải là cái thật, cái tốt và là cái có ích.
1.3. Cái đẹp gắn với cái có ích
- Sự thật tấy cả những gì trái với lợi ích thực dụng của con người thường đồng nghĩa với cái không đẹp.
- Phát hiện nắm bắt phẩm chất tích cực có ích của thế giới khách quan là bước tiến của con người.
- Tuy nhiên cần xem xét cái có ích một cách toàn diện tránh có cái nhìn phiến diện, quá hẹp hòi và vụ lợi thô thiển (thái độ vụ lợi giết chết cái đẹp chân chính)
1.4. Kết luận
- Quan hệ xuôi: cái đẹp dựa vào cái đúng, tốt, ích, tách dời yếu tố trên trở thành cái giả tạo.
- Cái đẹp tách khỏi cái đạo đức dẫn tới cái xấu đội lốt cái đẹp trở thành cái lố bịch, buồn cười, hài kịch.
- Quan hệ ngược: Không phải mọi cái thật cái tốt cái có ích nào cũng là cái đẹp. Bởi ta chỉ thấy cái thật, cái tốt, cái có ích là đẹp trong thời điểm nào đấy, khi mọi biểu hiện ra sự vật toàn vẹn cụ thể đầy tính chất gợi cảm…
2. Hệ tiêu chí tính lịch sử tính giai cấp
- Mâu thuẫn xã hội mang tính lịch sử (Mâu thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn khác nảy sinh).
- Quan niệm về cái đẹp cũng thay đổi theo lịch sử và xã hội.
- Cái đẹp phơi phới đi lên của chủ nghĩa nhân văn thời Phục
- Giai cấp tư sản phản bội lại lợi ích của nhân dân, họ thâm thù, quay lưng lại với hiện tại do đó họ cho rằng buồn là đẹp.
Mọi tiêu chuẩn cái đẹp đều xuất phát từ thực tiễn mang tính giai cấp. Do đó trong thưởng ngoạn và sáng tạo cái đẹp cũng thể hiện nhu cầu và lợi ích giai cấp.
- Quan niêm về cái đẹp còn quyết định bởi tính dân tộc,. Vì lí tưởng thẩm mĩ của từng dân tộc khác nhau cho nên cái này dân tộc này cho là đẹp thì dân tộc khác cho là xấu và ngược lại.
- Tính nhân loại là tiêu chuẩn tổng quát có tính đồng đại. Về mặt lịch đại các chuẩn mực của tính nhân loại bị hạn chế trong thời đại nhất định.(Tiêu chuẩn cái đẹp của nền văn minh lúa nước khác nền văn minh trí thức hay văn minh tin học) (Ví dụ hình tượng ông giám đốc quá đát và ả Mộng Huyền – tên Hến ở nhà quê thường gọi, trong “Một cõi đi về” của nhà văn Đức Hậu, là bi kịch trược ngã không thể gượng dậy được…)
Ví dụ về cái đẹp trong nghệ thuật
Con sông huyền thoại
(Nguyễn Trọng Tạo)
Con sông mình hạc sương mai
Vàng son in bóng đền đài hoa khôi
Đến đây tôi gửi bóng tôi
Vớt lên thì vỡ tan rồi lại nguyên
Con sông ướt cỏ tóc tiên
Những đêm kĩ nữ bỏ quên nguyệt cầm
Vầng trăng loã thể ướt đầm
Sảy chân thi sĩ vớt nhầm mĩ nhân
Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên người
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch nửa chờ Khuất Nguyên.
(Sông Tương – Lí Bạch và sông Mịch La - Khuất Nguyên, đều nhảy xuống sông tự tử, Lí Bạch nhảy xuống ôm trăng)
Khác với cái đẹp khách quan tồn tại ngoài cuộc sống, cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ. Cái đẹp trong nghệ thuật không đối lập với cái đẹp khách quan, đó là sản phẩm của cái được phản ánh và sự phản ánh.
- Quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ phải sống và đánh giá một cách tích cực hiện tại và dự đoán tương lai.
- Nét đặc trưng cái đẹp trong nghệ thuật là tính điển hình của nó (nhà văn chọn lọc những sự vật hiện tượng, nhưng thuộc tính đẹp trong cuộc sống, rút tỉa những đặc điểm khái quát mang tính ưu đẳng để xây dựng hình tượng)
- Hình tượng vừa mang tính chung vừa mang tính cá thể sinh động; vừa mang tính thời sự vừa mang tính muôn thuở.
Cái đẹp trong nghệ thuật
Cái đẹp trong nghệ thuật vừa gắn liền với mọi chiều sâu thẳm vốn chưa được ý thức rõ ràng, vừa mang tính khát vọng căng thẳng đang yêu cầu giải đáp.
- Trong nghệ thuật khước từ cái đẹp bằng các khái niệm trừu tượng mà nó được biểu hiện bằng hình tượng và hệ thống hình tượng.
- Cái đẹp trong nghệ thuật là sự thống nhất giữ ND và HT đẹp, lấy cái thực để biểu hiện cái hư, sử dụng hình thức mơ hồ và đa nghĩa,
- Lý Trạch Hậu : Cái đẹp trong nghệ thuật từ bản thân bố cục, đường nét, màu sắc, hư thực, tỉ lệ tạo sức mạnh cho nghệ thuật.
Kết luận
- Nghệ thuật không đua chen với tự nhiên, nhưng tự nhiên phải nhường chỗ cho nghệ thuật ở chiều sâu nhân văn.
- Giá trị cái đẹp trong nghệ thuật là sự tổng hợp các giá trị mĩ học, đạo đức, triết học, chính trị, khoa học…
- Nghệ thuật làm nảy sinh ý nghĩa của con người, làm rung chuyển nền tảng thế giới tinh thần của con người khiến nó vận động theo hướng hoàn thiện hoàn mĩ.
VI. Định nghĩa về cái đẹp
Cái đẹp là phạm trù thẩm mĩ cơ bản, là trung tâm của các quan hệ thẩm mĩ, dùng để chỉ thực tại thẩm mĩ tích cực khách quan. Thực tại này chúng ta biết nhờ cảm xúc thảm mĩ phổ biến mang tính xã hội.
- Được chiếu rọi dưới ánh sáng của lí tưởng thẩm mĩ chân chính, cảm xúc thảm mĩ phản ánh thực tại cái đẹp.
- Đặc trưng ngôn ngữ của sự phản ánh là hình tượng
- Thành tựu cao nhất của sự phản ánh đó là nghệ thuật
- Tác dụng có sự cuốn hút, toả chiếu rung động, giúp con người định hướng đời sống theo quy luật hoàn thiện hoàn mĩ.
- Tác động cao nhất của cái đẹp là vô tư thanh cao, không vụ lợi thô thiển, theo quy luật hài hoà biện chứng tự thân bên trong tâm hồn con người, bên trong xã hội loài người.
chào thân ái hẹn gặp lại
CÁI ĐẸP
CÁI ĐẸP
Câu hỏi: Tìm hiểu
quan niệm cái đẹp trong lịch sử ?
1. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học Hy Lạp cổ đại
- Đê mô cơ rít – Arixtốt cho rằng thuộc tính cái đẹp là cân xứng hài hoà, trật tự, số lượng, chất lượng, dẫn tới cái đẹp (dựa vào quan điểm vũ trụ luận - thuộc tính tự nhiên dẫn tới phẩm chất cái đẹp. Thước đo thế giới tự nhiên được con người đo cái đẹp của con người)
- Platon, ông cũng thừa nhận cái đẹp có phẩm chất: cân xứng hài hoà, trật tự, số lượng, hoàn thiện hoàn mĩ; tuy nhiên nó chỉ tồn tại ở thượng giới mà thôi.
2. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học Trung cổ phong kiến
- Xuất phát từ triết lí khắc kỉ giả dối, họ chia thế giới thành hai cõi tiên(sướng) cõi khổ (cõi trần)
Cuộc đời không có cái đẹp, nó như ngọn nến leo lét trước cơn gió mạnh, như con thuyền monh manh trước cơn sóng giữ.
- Khuyên con người ta hãy “cam chịu”, ngày ngày cầu kinh xám hối chờ khi rũ sạch bụi trần đến cõi cực lạc.
3. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học thời Phục Hưng
Con người nhận ra sự giả dối của triết lí khắc kỉ phong kiến.
Con người đòi xét lại các giá trị của cái đẹp (Bru nô lên dàn hoả thiêu vẫn giõng dạc tuyên bố “Trái đất tròn”; Con người tự nhiên sinh ra chứ không phải chúa trời sinh ra ông A Đam và bà E Va…)
- Cái đẹp phải được xem xét ở chân giá trị đích thực của nó, có tính khách quan và tính thực tiễn.
4. Quan niệm về cái đẹp của chủ nghĩa cổ điển(TK 17)
Sự hoà hoãn giữa tư sản – phong kiến(nước Pháp)
- Xếp lại vẻ đẹp tự do phóng khoáng của thời Phục Hưng, kêu gọi tuân thủ cái đẹp khắt khe theo chuẩn mực mà viện hàn lâm khoa học Pháp nêu lên(Luật tam duy nhất; đề cao nghĩa vụ với quốc gia)
5. Quan niệm thời kì khai sáng
Giai cấp Tư Sản lật nhào giai cấp phong kiến, thừa nhận cái đẹp trong sáng hoà điệu của tự nhiên là vẻ đẹp lí tưởng của con người
- Do vậy Đi Đrô nói chỉ có cái đẹp dựa trên sự liên hệ với những tạo vật của thiên nhiên thì mới sống lâu. Luận điểm này có tính siêu hình.
6. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học cổ điển Đức
6.1. I. Kant (1724 - 1804)
- Đề xuất tư tưởng mĩ học đề cao cái tôi “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại”
- Ông thừa nhận cái đẹp khách quan, nhưng chỉ do thị hiếu chủ quan của con người “Vẻ đẹp không ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà trong mắt kẻ si tình”
- Ông thừa nhận không có khoa học về nghệ thuật(cái đẹp), mà chỉ có phán đoán về nghệ thuật…
6.2. F. Hê ghen (1770 -1831)
- Ông đã đứng trên quan điểm lịch sử để giải quyết vấn đề cái đẹp.
- Thừa nhận cái đẹp theo quy luật khách quan, cái đẹp trong tự nhiên nhưng theo ông cho rằng nó mờ nhạt và thô thiển.
- Cái đẹp trong nghệ thuật, tức là ý niệm được thể hiện trong hình tượng, nghệ thuật là sự cụ thể hoá bằng hình tượng. Ông cho rằng chỉ có cái đẹp trong nghệ thuật mới đẹp thật sự, vì nó có cái đẹp tinh thần – “Ý niệm của thần linh”
- Quan niệm về cái đẹp của ông không nhất quán, mâu thuẫn với triết học – tôn giáo - nghệ thuật.
7. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mĩ học dân chủ Nga
Bêlinxki, Tsecnưsepxki, Đôbrôcliu bốp, đều cho rằng “cái đẹp là cuộc sống”, cái đẹp trong nghệ thuật phản ánh cái đẹp ngoài đời”.
- Cuộc sống đẹp thuộc về nhân dân, nghệ thuật đẹp thuộc về nghệ thuật đấu tranh cho lý tưởng cao quí hàng triệu người.
- Cái đẹp luôn biến đổi mang tính lịch sử, cái đẹp mang tính giai cấp.
- Hạn chế của mỹ học của các nhà mĩ học dân chủ Nga chỉ dừng lại “Tư tưởng cách mạng nông dân” chưa bắt nhịp với chiều hướng tất yếu của lịch sử”.
8. Quan niệm về cái đẹp của triết học cổ Phương Đông
Nho giáo (Khổng Tử - Mạnh Tử)
- Mỹ gắn với thiện “ Tận thiện, tận mỹ” yêu cầu cái đẹp.
- Tính thống nhất: Thiện - nội dung; Mỹ - hình thức “ Người có đức tất có lời, người có lời tất có đức”
- Mạnh Tử: cái thiện, tâm, tín sự thống nhất chân, thiện, mỹ (. Ông cho rằng: Làm cho đầy đặn gọi là đẹp - chỉ sự tu dưỡng cái tín, cái thiện, phù hợp với nghĩa và đạo).
- Tuân Tử: cái đẹp của con người ở sự tu dưỡng đạo đức, học tập không ngừng để tính ác đi vào quỹ đạo của cái thiện.
Quan niệm đạo giáo
- Vô thanh, vô ngôn, vô sắc “đạo” ở nguyên tắc trong tự nhiên. “Người theo phép đất, đất theo phép trời, trời theo phép đạo, đạo theo phép tự nhiên” (Lão tử)
- Đạo từ trong nhận thức chủ quan, hy vọng điều hoà những mâu thuẫn trong đời sống hiện thực để đi vào hư tĩnh (Đạo giáo: Cái đẹp của đạo chân chính, không đầy không vơi, không thành không mất, không có giới hạn giữa bộ phận và chỉnh thể. Còn Phác chỉ là cái bản nhiên nguyên thuỷ, cho nên đạo giáo chủ trương cái đẹp tự nhiên).
- Cái đẹp là đỉnh cao khí tuệ, tượng trưng ở toà sen
- Hướng con người tới cõi niết bàn siêu thực, siêu không gian thời gian, nơi mất giới hạn khách thể và chủ thể.
- Phật giáo phủ định hiện thế, tìm cái đẹp siêu thoát.
Quan niệm của đạo Phật
II. Đặc điểm của cái đẹp
1. Cái đẹp từ góc nhìn bản thể
- Cái đẹp trước hết do các phẩm chất các yếu tố kết cấu khách quan của sự vật hiện tượng (tính cân đối, hài hoà, tỉ lệ, nhịp điệu, nhạc điệu đem lại)
- Cái đẹp vừa thể hiện bên ngoài vừa cái đẹp tâm linh.
- Tính chất bản thể ta có thể tiếp cận có thể không tiếp cận, có thể gọi tên và không gọi tên được. Tính bản thể vừa đẹp tuyệt đối vừa tương đối.
- Trong mĩ học thường gọi là “độ” thiết diện vàng, đó là thước đo không xác định.
3. Đẹp trong chỉnh thể toàn vẹn
- Hài hoà trong chỉnh thể: bên ngoài – bên trong; hình thức - nội dung.
- Các bộ phận không cân xứng hài hoà nhưng được đặt trong tương quan nào đó của chỉnh thể, do vậy cũng tạo nên sự hài hoà thống nhất của các yếu tố tạo nên kết cấu. (ví dụ vẻ đẹp hình thể con người với đạo đức của họ)
2. Đẹp trong quy luật hài hoà
- Các yếu tố trong chỉnh thể có tỉ lệ nhất định rất uyển chuyển(mảng khối, số lượng - chất lượng; đầy - khuyết; lồi – lõm; thô - nhẵn; dài - ngắn; trong - đục; nhanh - chậm ; cong - thẳng…)
- Khái niệm hài hoà có thuộc tính: vừa trật tự hợp lí vừa lộn xộn. Hài hoà có yếu tố cân xứng, thế cân bằng. (ví dụ cánh hoa lan)
III. Cái đẹp trong thế giới tự nhiên
Thế giới tự nhiên tồn tại trước chúng ta – cái đẹp phải chăng có trước loài người?
- Tự nhiên tồn tại dưới hình thức “thống nhất của các mặt đối lập”(Lê nin)
- Thế giới tồn tại dưới hình thức thống nhất: Mặt trời - đất - mặt trăng – con người - vần thơ trăng dằm…
- Hình thái thống nhất ở tự nhiên từ nội dung đến hình thức: ong thụ phấn cho hoa – hoa nhiều hương sắc – ong đem mật ngọt cho đời
Nguyên lí liên hệ và nguyên tắc vận động không ngừng (Người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông – Hê ra clít), quy luật đấu tranh thống nhất và đào thải còn gọi là quy luật tự nhiên. Sự lựa chọ tự nhiên ngày càng được các vật tốt hơn và đẹp hơn.
- Cái đẹp tự nhiên xét về mặt cấu trúc: hình dáng, màu sắc, phẩm chất là cần thiết. Trong văn học thì quan trọng là cảnh và tình.
Kết luận
+ Cái đẹp trong tự nhiên tồn tại khách quan, ở dạng tiềm năng dự phóng.
+ Tác dụng gợi mở sự liên tưởng, sức sáng tạo và phát triển con người(khi nhân chứng, khi bạn tâm tình).
- Mọi vật trong tự nhiên liên kết với nhau, quy định lẫn nhau về không gian, thời gian, trên dưới, trước sau(Rễ cây đại thụ cần nhiều nước - nhờ loại nấm kí sinh bám vào rễ. Nấm nhờ rễ cây hút chất đạm cần thiết để tồn tại).
IV. Cái đẹp trong xã hội
Cơ sở đánh giá cái đẹp trong xã hội là lao động sản xuất
Con người đẹp là con người lao động sáng tạo.
Lao động bộc lộ phẩm chất sáng tạo của con người và thể hiện tính người nhất.
Hệ tiêu chí chân - thiện – mĩ.
1.1. Cái đẹp giúp ta phát hiện ra sự thật của đời sống, đúng ,sai, phải trái và giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn và xung đột xã hội.
- “Cái đẹp sẽ tăng lên gấp trăm lần, nếu nó đạt được sự thật quí báu” Sếch xpia.
- Hình thức đẹp đẽ nếu chứa đựng nội dung giả dối không đem lại cảm nhận về cái đẹp
1.2. Cái đẹp phải dựa trên cái thật và cái tốt.
- Tuy nhiên mọi cái thật cái tốt chưa phải là toàn bộ cái đẹp
- Cái đẹp có phẩm chất đặc biệt của thực tại(nó là phẩm chất tích tụ mọi phẩm chất quí giá của tự nhiên và xã hội)
- Kết luận: xét trong mối quan hệ tổng thể, cái đẹp phải là cái thật, cái tốt và là cái có ích.
1.3. Cái đẹp gắn với cái có ích
- Sự thật tấy cả những gì trái với lợi ích thực dụng của con người thường đồng nghĩa với cái không đẹp.
- Phát hiện nắm bắt phẩm chất tích cực có ích của thế giới khách quan là bước tiến của con người.
- Tuy nhiên cần xem xét cái có ích một cách toàn diện tránh có cái nhìn phiến diện, quá hẹp hòi và vụ lợi thô thiển (thái độ vụ lợi giết chết cái đẹp chân chính)
1.4. Kết luận
- Quan hệ xuôi: cái đẹp dựa vào cái đúng, tốt, ích, tách dời yếu tố trên trở thành cái giả tạo.
- Cái đẹp tách khỏi cái đạo đức dẫn tới cái xấu đội lốt cái đẹp trở thành cái lố bịch, buồn cười, hài kịch.
- Quan hệ ngược: Không phải mọi cái thật cái tốt cái có ích nào cũng là cái đẹp. Bởi ta chỉ thấy cái thật, cái tốt, cái có ích là đẹp trong thời điểm nào đấy, khi mọi biểu hiện ra sự vật toàn vẹn cụ thể đầy tính chất gợi cảm…
2. Hệ tiêu chí tính lịch sử tính giai cấp
- Mâu thuẫn xã hội mang tính lịch sử (Mâu thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn khác nảy sinh).
- Quan niệm về cái đẹp cũng thay đổi theo lịch sử và xã hội.
- Cái đẹp phơi phới đi lên của chủ nghĩa nhân văn thời Phục
- Giai cấp tư sản phản bội lại lợi ích của nhân dân, họ thâm thù, quay lưng lại với hiện tại do đó họ cho rằng buồn là đẹp.
Mọi tiêu chuẩn cái đẹp đều xuất phát từ thực tiễn mang tính giai cấp. Do đó trong thưởng ngoạn và sáng tạo cái đẹp cũng thể hiện nhu cầu và lợi ích giai cấp.
- Quan niêm về cái đẹp còn quyết định bởi tính dân tộc,. Vì lí tưởng thẩm mĩ của từng dân tộc khác nhau cho nên cái này dân tộc này cho là đẹp thì dân tộc khác cho là xấu và ngược lại.
- Tính nhân loại là tiêu chuẩn tổng quát có tính đồng đại. Về mặt lịch đại các chuẩn mực của tính nhân loại bị hạn chế trong thời đại nhất định.(Tiêu chuẩn cái đẹp của nền văn minh lúa nước khác nền văn minh trí thức hay văn minh tin học) (Ví dụ hình tượng ông giám đốc quá đát và ả Mộng Huyền – tên Hến ở nhà quê thường gọi, trong “Một cõi đi về” của nhà văn Đức Hậu, là bi kịch trược ngã không thể gượng dậy được…)
Ví dụ về cái đẹp trong nghệ thuật
Con sông huyền thoại
(Nguyễn Trọng Tạo)
Con sông mình hạc sương mai
Vàng son in bóng đền đài hoa khôi
Đến đây tôi gửi bóng tôi
Vớt lên thì vỡ tan rồi lại nguyên
Con sông ướt cỏ tóc tiên
Những đêm kĩ nữ bỏ quên nguyệt cầm
Vầng trăng loã thể ướt đầm
Sảy chân thi sĩ vớt nhầm mĩ nhân
Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên người
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch nửa chờ Khuất Nguyên.
(Sông Tương – Lí Bạch và sông Mịch La - Khuất Nguyên, đều nhảy xuống sông tự tử, Lí Bạch nhảy xuống ôm trăng)
Khác với cái đẹp khách quan tồn tại ngoài cuộc sống, cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ. Cái đẹp trong nghệ thuật không đối lập với cái đẹp khách quan, đó là sản phẩm của cái được phản ánh và sự phản ánh.
- Quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ phải sống và đánh giá một cách tích cực hiện tại và dự đoán tương lai.
- Nét đặc trưng cái đẹp trong nghệ thuật là tính điển hình của nó (nhà văn chọn lọc những sự vật hiện tượng, nhưng thuộc tính đẹp trong cuộc sống, rút tỉa những đặc điểm khái quát mang tính ưu đẳng để xây dựng hình tượng)
- Hình tượng vừa mang tính chung vừa mang tính cá thể sinh động; vừa mang tính thời sự vừa mang tính muôn thuở.
Cái đẹp trong nghệ thuật
Cái đẹp trong nghệ thuật vừa gắn liền với mọi chiều sâu thẳm vốn chưa được ý thức rõ ràng, vừa mang tính khát vọng căng thẳng đang yêu cầu giải đáp.
- Trong nghệ thuật khước từ cái đẹp bằng các khái niệm trừu tượng mà nó được biểu hiện bằng hình tượng và hệ thống hình tượng.
- Cái đẹp trong nghệ thuật là sự thống nhất giữ ND và HT đẹp, lấy cái thực để biểu hiện cái hư, sử dụng hình thức mơ hồ và đa nghĩa,
- Lý Trạch Hậu : Cái đẹp trong nghệ thuật từ bản thân bố cục, đường nét, màu sắc, hư thực, tỉ lệ tạo sức mạnh cho nghệ thuật.
Kết luận
- Nghệ thuật không đua chen với tự nhiên, nhưng tự nhiên phải nhường chỗ cho nghệ thuật ở chiều sâu nhân văn.
- Giá trị cái đẹp trong nghệ thuật là sự tổng hợp các giá trị mĩ học, đạo đức, triết học, chính trị, khoa học…
- Nghệ thuật làm nảy sinh ý nghĩa của con người, làm rung chuyển nền tảng thế giới tinh thần của con người khiến nó vận động theo hướng hoàn thiện hoàn mĩ.
VI. Định nghĩa về cái đẹp
Cái đẹp là phạm trù thẩm mĩ cơ bản, là trung tâm của các quan hệ thẩm mĩ, dùng để chỉ thực tại thẩm mĩ tích cực khách quan. Thực tại này chúng ta biết nhờ cảm xúc thảm mĩ phổ biến mang tính xã hội.
- Được chiếu rọi dưới ánh sáng của lí tưởng thẩm mĩ chân chính, cảm xúc thảm mĩ phản ánh thực tại cái đẹp.
- Đặc trưng ngôn ngữ của sự phản ánh là hình tượng
- Thành tựu cao nhất của sự phản ánh đó là nghệ thuật
- Tác dụng có sự cuốn hút, toả chiếu rung động, giúp con người định hướng đời sống theo quy luật hoàn thiện hoàn mĩ.
- Tác động cao nhất của cái đẹp là vô tư thanh cao, không vụ lợi thô thiển, theo quy luật hài hoà biện chứng tự thân bên trong tâm hồn con người, bên trong xã hội loài người.
chào thân ái hẹn gặp lại
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Tác
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)