Bai giang le hoi du an den Hung

Chia sẻ bởi Trần Tác | Ngày 21/10/2018 | 57

Chia sẻ tài liệu: bai giang le hoi du an den Hung thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

           
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng tôi muốn tìm hiểu về Lễ hội Đền Hùng
Góp phần giúp mọi người hiểu thêm về Lễ hội Đền Hùng





Mục tiêu dự án
1- Đền Hùng có từ bao giờ, thờ ai?
2- Những hoạt động nào thường được diễn ra trong lễ hội Đền Hùng?


Lịch sử đền Hùng

Khu di tích Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích - xã Hy Cương - huyện Lâm Thao - tỉnh Phú Thọ
Là nơi thờ cúng các vua Hùng đã có công dựng nước, tổ tiên của dân tộc Việt Nam.
 Đền Hùng là di tích lịch sử văn hoá đặc biệt quan trọng của quốc gia, vốn là đất kế đô của Nhà nước Văn Lang 4.000 năm trước đây.
 Đền Hùng được xây dựng vào thế kỉ 15 trên núi Hùng (còn gọi là núi Cả hay còn có nhiều tên gọi khác nhau: Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn,…), có độ cao 175 m so với mặt nước biển. 


Quần thể di tích
    


      Đền Thượng

Lăng Vua Hùng
Đền Trung




Đền Hạ






Đền Tổ Đền Giếng
Mẫu Âu Cơ Bảo tàng Hùng Vương
      

     
Quần thể di tích
Đền Hạ: Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây
Đền Trung : Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu - người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh dày.
Đền Thượng: Nơi Vua Hùng thường tiến hành nghi lễ tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh.
  Đền Giếng: Tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này.
Lăng Hùng Vương : Tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam.

 
LỄ





Lễ vật Các nghi lễ




Lễ rước kiệu vua Lễ dâng hương
Quy trình lễ hội
Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần...
Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động trong những ngày này.
Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích.
Lễ vật
Một đám rước gồm ba cỗ kiệu đi liền nhau, kiệu được sơn son thếp vàng, đục chạm tinh xảo; thân kiệu là hai con rồng dài gần 4 m, do 16 người khiêng:
- Cỗ đi đầu bày hương hoa đèn nến, trầu cau, bình nước và nậm rượu.
Cỗ thứ hai rước nhang án bài vị, có lọng che. 
Cỗ thứ ba rước bánh chưng (hoặc xôi), thủ lợn luộc (hoặc cả con).
Các nghi lễ
Lễ hội là một sự kiện thực hiện rất nhiều nghi thức mang tính bắt buộc. Các nghi thức này được tiến hành theo một trình tự chặt chẽ, nghiêm ngặt từ khi chuẩn bị lễ hội cho đến khi hết hội. Thông thường một lễ hội có các nghi lễ: lễ mộc dục, lễ tế gia quan, lễ rước, lễ tế khai hội và tế giã đám.
Lễ mộc dục
Lễ mộc dục (lễ tắm tượng thần hay thần vị): lễ này thường được tiến hành vào nửa đêm hôm trước ngày khai hội. Trước khi làm lễ mộc dục, có nơi người ta tổ chức lễ rước nước. Trước khi thực hiện việc tắm tượng (lau chùi tượng thờ) phải làm lễ cáo thần. Sau lễ mộc dục là tế gia quan (mặc áo, đội mũ cho tượng thần). Nếu thần không có tượng mà chỉ có bài vị (thần vị) thì áo mũ đặt lên ngai. Sau đó tượng thần (hay thần vị, hoặc có khi chỉ là áo mũ) đặt lên kiệu, chuẩn bị cho đám rước thần sáng ngày khai hội.
Lễ rước
Trong một lễ hội thường có rước thần, rước thành hoàng, rước văn hay rước nước. Lễ rước thần hay rước thành hoàng thường cử hành trước khi vào lễ khai hội và kết thúc hội. Nội dung, ý nghĩa của lễ rước ở mỗi lễ hội đều có sự khác biệt về đối tượng rước, cách thức tiến hành, trình tự đoàn rước, thành phần người tham gia... Trong số các lễ rước thì rước thần và rước nước phổ biến hơn cả. 
Sau lễ rước sẽ là lễ tế thần và khai hội. Đặc biệt có nơi, trong dịp lễ hội ngày nào cũng có rước, lễ rước này không phải rước thần mà là rước sớ (rước văn), tức bài văn cúng thần. Mỗi ngày người ta cúng thần bằng một bài sớ riêng. Trong đám rước văn, bài sớ cũng được đặt lên kiệu rước, gọi là kiệu văn.  
Lễ rước trong các lễ hội truyền thống thường quy định người trực tiếp tham gia rước phải là nam giới tuổi từ 18 trở lên, không có phụ nữ.
Người tham gia rước (gọi là giai đô), là những người được dân làng lựa chọn, cắt cử. Họ là những chàng trai khoẻ mạnh, có tài có đức, không có điều tiếng đáng chê trách trong làng xóm. Ai được chọn trong đội rước là vinh dự cho bản thân và gia đình.
Lễ rước kiệu vua
Đám rước kiệu với màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá dưới những tán lá cây để tới đỉnh núi Thiêng.
Lễ dâng hương
Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương
H?i


Trò chơi Hội thi Hát xướng
dân gian dân gian





Hội thi dân gian
Gắn với truyền thuyết "Vua Hùng dạy dân cấy lúa“.Thuở xưa, nhân dân chưa biết cày cấy làm ra thóc gạo mà ăn, chỉ sống bằng thịt thú rừng, rễ cây, quả cây và các loại rau dại, lúa hoang nhặt được. Các vùng đất ven sông hàng năm được phù sa bồi thêm màu mỡ. Vua Hùng thấy đất ấy tốt mới gọi dân đến bảo tìm cách đắp bờ giữ nước cấy lúa.










Thi nấu cơm








Thi nấu xôi
Hội thi dân gian
Truyền thuyết "Bánh chưng, bánh dày" kể rằng: Lang Liêu, hoàng tử thứ 18, đã dùng gạo nếp để làm bánh dày và bánh chưng, tượng trưng cho trời tròn đất vuông. Vua Hùng ngợi khen là "bánh thì ngon, ý thì hay". Vua rất hài lòng và truyền ngôi cho Lang Liêu trở thành Hùng Vương thứ 7









Thi tài gói bánh chưng 










Thi giã bánh dày
Trò chơi dân gian
















Đu quay
Cây đu được trồng bởi bốn, sáu hay tám cây tre dài vững chắc để chịu đựng được sức nặng của hai người cùng với lực đẩy quán tính. Hai cây tre làm cần đu nhỏ vừa tay cầm.

Lên đu có thể là một hay hai người. Càng nhún mạnh, đu càng lên cao, cần đu đưa lên vun vút, bên nọ sang bên kia. Cần đu lên ngang với ngọn đu là hay nhất, nhiều khi đu bay ngang ngọn đu một vòng.

Nhiều nơi treo giải thưởng ở ngang ngọn đu để người đu giật giải. Nhún đu cũng là một sinh hoạt giao đãi tình cảm của trai gái.
Trò chơi dân gian









Cờ người
Cờ người là tên gọi cuộc chơi cờ tướng, gồm 32 quân (như cỗ bài tam cúc), mỗi phe 16 quân (trong mỗi phe có một Tướng. Tướng nam gọi là tướng Ông, trang phục đen hoặc xanh; tướng nữ còn gọi là tướng Bà, trang phục đỏ).  
Hát xướng
Lễ hội dân gian Phú Thọ - chính là cơ sở bảo tồn văn hóa làng xã và di sản văn hóa dân tộc. Lễ hội Phú Thọ mang nhiều yếu tố của lễ hội người Việt nhưng lại mang những sắc thái văn hóa cổ đặc sắc với nét văn hóa gốcTP Việt Trì).
Trong lễ hội hát xướng, hát ví, hát dân ca Xoan, Ghẹo được diễn ra thường xuyên.








Nghệ nhân phường Xoan An Thái biểu diễn trong ngày giỗ Tổ tại đình An Thái

Hát xướng












“ Lễ hội Linh tinh tình phộc” 
Tại khu vực Miếu Trò, người dân Tứ Xã, huyện Lâm Thao thường tổ chức Lễ hội.

Mỗi lần hai vật âm dương chạm nhau, chiêng trống lại nổi lên, dân làng đứng xung quanh miếu lại reo hò vui vẻ - không khí tĩnh mịch giữa đêm khuya được sống dậy tưng bừng.
KẾT LUẬN
Đền Hùng vừa là thắng cảnh, vừa là một di tích lịch sử-văn hoá đặc biệt quan trọng đối với người Việt Nam.
Về với đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của người dân Việt Nam.
Lễ hội Đền Hùng là dịp để con cháu Lạc Hồng tưởng nhớ đến công lao dựng nước của các vua Hùng, hiểu thêm về bản sắc văn hoá của dân tộc, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Trần Tác
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)