Bai du thi "BINH DANG GIOI"
Chia sẻ bởi Phạm Thành Nhơn |
Ngày 25/04/2019 |
57
Chia sẻ tài liệu: Bai du thi "BINH DANG GIOI" thuộc Tin học 10
Nội dung tài liệu:
BÀI LÀM:
Trong xã hội phụ quyền, phụ nữ bị hạn chế không được tham gia các công việc xã hội không có nghĩa là họ chỉ làm việc trong gia đình. Họ vẫn phải làm các công việc như nam giới, như làm ruộng, buôn bán, làm dịch vụ nhưng không được công nhận là tham gia công việc xã hội. Đặc biệt phụ nữ bị hạn chế trong những hoạt động lãnh đạo và trí tuệ. Phụ nữ chỉ được học để phục vụ chồng, con và những người thân trong gia đình mà không được thi thố ngoài xã hội. Hiện tượng “ Gà mái gáy thay gà trống”, “Gái goá lo việc triều đình” là tối kỵ. Những phụ nữ là vợ vua chúa khi chồng chết trẻ, được phụ tá cho con trai là vua trẻ con nhưng chỉ được phép “buông rèm chấp chính” nghĩa là ngồi ở đàng sau chiếc rèm để phán quyết việc công mà không công khai trước mặt bá quan. Hiện tượng này không chỉ hàm ý khinh miệt sâu sắc nhân cách và trí tuệ của phụ nữ mà còn kìm hãm năng lực của họ trên cương vị lãnh đạo để phục vụ đất nước. Lịch sử Việt Nam chỉ ghi lại rất ít những nhân vật nữ tài năng lãnh đạo đất nước là bà Dương Vân Nga thời nhà Đinh; Bà Y Lan trong hai giai đoạn là vợ vua và mẹ vua đã quản lý đất nước để chồng yên tâm đi đánh giặc, đã đề các chính sách đúng đắn để bảo vệ trâu cày và giải phóng cho các cung nữ; bà Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung đã chỉ đạo sơ tán cả tôn thất triều đình ra khỏi thành Thăng Long trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất thực hiện chiến lược “Vườn không, nhà trống” của triều Trần; nữ tuớng tài ba và bất khuất Bùi Thị Xuân trong đội ngũ nghĩa quân Tây Sơn; Bà Nguyễn Thị Duệ, nữ trí thức thời Lê đã phải giả trai đi thi để đoạt bằng tiến sỹ. Những tấm guơng trên đã chứng tỏ rằng khi được có cơ hội thì phụ nữ cũng thể hiện tài năng không thua nam giới và mặc dù bị chịu sự bất công, phân biệt nhưng sự đóng góp của phụ nữ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc là vô cùng to lớn.
Tuy nhiên, xã hội Việt Nam thời trước Cách mạng tháng 8/1945 là một xã hội nghèo đói, chậm phát triển. Một trong những nguyên nhân của nó là tình trạng bất bình đẳng giới phổ biến. Một nửa dân số đất nước là phụ nữ bị kìm hãm, sống trong nghèo đói và thất học, bị hạn chế không được đóng góp trực tiếp vào sự phát triển. Họ không phải là nguồn nhân lực có chất lượng cao và sự tồn tại của họ gắn với các nhãn mác: ngu dốt và rẻ mạt. Không có nhà khoa học nổi tiếng nào là phụ nữ. Nữ trí thức nếu có chỉ dừng ở mức là học sinh trung học và hầu như hạn chế về sinh viên đại học.
Từ những vấn đề nêu trên, tôi quyết tâm tìm hiểu Luật Bình đẳng giới qua một số câu hỏi. Để nhằm tuyên truyền trong cơ quan mình làm việc, trên địa bàn dân cư mà mình sinh sống…
Luật số 73/2006/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 10. Thông qua Luật Bình đẳng giới như sau:
Luật Bình đẳng giới gồm 6 chương 44 điều, quy định: nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức...Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính... Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư… Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định...Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình, bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp, sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật... Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm: áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một
Trong xã hội phụ quyền, phụ nữ bị hạn chế không được tham gia các công việc xã hội không có nghĩa là họ chỉ làm việc trong gia đình. Họ vẫn phải làm các công việc như nam giới, như làm ruộng, buôn bán, làm dịch vụ nhưng không được công nhận là tham gia công việc xã hội. Đặc biệt phụ nữ bị hạn chế trong những hoạt động lãnh đạo và trí tuệ. Phụ nữ chỉ được học để phục vụ chồng, con và những người thân trong gia đình mà không được thi thố ngoài xã hội. Hiện tượng “ Gà mái gáy thay gà trống”, “Gái goá lo việc triều đình” là tối kỵ. Những phụ nữ là vợ vua chúa khi chồng chết trẻ, được phụ tá cho con trai là vua trẻ con nhưng chỉ được phép “buông rèm chấp chính” nghĩa là ngồi ở đàng sau chiếc rèm để phán quyết việc công mà không công khai trước mặt bá quan. Hiện tượng này không chỉ hàm ý khinh miệt sâu sắc nhân cách và trí tuệ của phụ nữ mà còn kìm hãm năng lực của họ trên cương vị lãnh đạo để phục vụ đất nước. Lịch sử Việt Nam chỉ ghi lại rất ít những nhân vật nữ tài năng lãnh đạo đất nước là bà Dương Vân Nga thời nhà Đinh; Bà Y Lan trong hai giai đoạn là vợ vua và mẹ vua đã quản lý đất nước để chồng yên tâm đi đánh giặc, đã đề các chính sách đúng đắn để bảo vệ trâu cày và giải phóng cho các cung nữ; bà Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung đã chỉ đạo sơ tán cả tôn thất triều đình ra khỏi thành Thăng Long trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất thực hiện chiến lược “Vườn không, nhà trống” của triều Trần; nữ tuớng tài ba và bất khuất Bùi Thị Xuân trong đội ngũ nghĩa quân Tây Sơn; Bà Nguyễn Thị Duệ, nữ trí thức thời Lê đã phải giả trai đi thi để đoạt bằng tiến sỹ. Những tấm guơng trên đã chứng tỏ rằng khi được có cơ hội thì phụ nữ cũng thể hiện tài năng không thua nam giới và mặc dù bị chịu sự bất công, phân biệt nhưng sự đóng góp của phụ nữ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc là vô cùng to lớn.
Tuy nhiên, xã hội Việt Nam thời trước Cách mạng tháng 8/1945 là một xã hội nghèo đói, chậm phát triển. Một trong những nguyên nhân của nó là tình trạng bất bình đẳng giới phổ biến. Một nửa dân số đất nước là phụ nữ bị kìm hãm, sống trong nghèo đói và thất học, bị hạn chế không được đóng góp trực tiếp vào sự phát triển. Họ không phải là nguồn nhân lực có chất lượng cao và sự tồn tại của họ gắn với các nhãn mác: ngu dốt và rẻ mạt. Không có nhà khoa học nổi tiếng nào là phụ nữ. Nữ trí thức nếu có chỉ dừng ở mức là học sinh trung học và hầu như hạn chế về sinh viên đại học.
Từ những vấn đề nêu trên, tôi quyết tâm tìm hiểu Luật Bình đẳng giới qua một số câu hỏi. Để nhằm tuyên truyền trong cơ quan mình làm việc, trên địa bàn dân cư mà mình sinh sống…
Luật số 73/2006/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 10. Thông qua Luật Bình đẳng giới như sau:
Luật Bình đẳng giới gồm 6 chương 44 điều, quy định: nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức...Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính... Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư… Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định...Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình, bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp, sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật... Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm: áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Thành Nhơn
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)