Bài 7. Em bé thông minh
Chia sẻ bởi Nguyễn Tiến Dũng |
Ngày 21/10/2018 |
26
Chia sẻ tài liệu: Bài 7. Em bé thông minh thuộc Ngữ văn 6
Nội dung tài liệu:
Em bé thông minh
I, Tìm hiểu chung
II, Tìm hiểu tác phẩm
1. Hình thức đố chọn người tài
Hình thức đố tăng dần về mức độ, thể hiện
Sự phát triển của tình tiết và cốt truyện.
Hình thức đố tăng dần về mức độ, thể hiện
Sự phát triển của tình tiết và cốt truyện.
2. Các câu đố dành cho chú bé
Chú bé trải qua 4 lần thi tài:
Viên quan hỏi: Một ngày trâu cày được mấy ngày đường
Nhà vua bắt dân làng nuôi 3 con trâu đực sao cho một năm
chúng đẻ được 9 con nộp cho vua.
Vua bắt từ một con chim sẻ làm thành 3 mâm cỗ
Xứ thần nước ngoài bắt xâu một sợi chỉ qua ruột con ốc vặn
rất dài.
Về hình thức:
Đối tượng hỏi, đánh đố dần dần được nâng cao.
Lần đầu là viên quan, hai lần sau là vua, lần cuối
là sứ thần nước ngoài
Về nội dung:
3. Cách giải đố của chú bé
Lần thứ nhất
Chú bé đố lại viên quan: Một ngày ngựa quan đi
mấy bước.
Tương ứng với 4 lần thách đố là 4 lần chú bé giải đố thành công.
Đây là biện pháp dùng " Gậy
ông đập lưng ông" đẩy thế bí về
phía người đố. Sự thông minh của chú
bé không phải là tìm ra đáp án đúng mà chỉ
ra cho viên quan thấy việc hỏi như vậy là
không cần thiết. Cách hỏi lại rõ ràng
cho thấy sự cao tay và thái độ của
cậu bé thông minh.
Lần thứ hai:
Chú bé bày cách đi cùng cha đến gặp
nhà vua, chú khóc lóc để gây sự chú ý của
vua. Trong trường hợp này, chú đã chủ bụng
đưa nhà vua vào bẫy để nhà vua tự nhận ra sự vô lí
trong yêu cầu của mình: cha chú bé không
đẻ em bé được thì đương nhiên trâu đực
của nhà vua giao cho làng cũng không
đẻ được.
Lần thứ ba
Cậu bé vẫn dùng hình thức đố lại khiến
nhà vua không kịp trở tay.
Lần thứ tư
Chú bé khiến mọi người ngạc nhiên,
bất ngờ vì cách giải quyết vấn đề. Chú không
dựa vào sách vở mà dựa vào những mẹo vặt của
cuộc sống, những kinh nghiệm do quan sát, chứng
kiến thường ngày để thực hiện yêu cầu của
sứ thần.
Điều đặc biệt khiến chú bé có thể
giải đố mà những người khác thì không là
do chú không chú ý đến cách làm như thế nào (vì
thực ra trâu đực không thể đẻ, chim sứ không thể
làm ba mâm cỗ.) mà chú quan tâm đến kết quả.
Cách nhìn nhận hồn nhiên, ngây thơ nhưng cũng
hết sức lôgic của chú bé đã tìm ra
những lời giải đố.
4. ý nghĩa của truyện
Em bé được phong làm trạng nguyên, được nhà vua xây cho một dinh
thự bên trong hoàng cung. Đó là phần thưởng xứng đáng dành cho em
bé, dành cho sự thông minh tài giỏi của em.
Đây là truyện dân gian đích thực, là sản phẩm của nhân
dân lao động bình thường. Những câu đố trong truyện
cũng chính là những hình thức đó, những trò thi tài của
trẻ em nông thôn xưa. Nhân vật tài trí, thông minh ở
đây không thể hiện qua chữ nghĩa, văn chương mà qua
những kinh nghiệm của đời sống. Điều đó cho thấy sự
vận dụng những điều quan sát, khái quát từ cuộc sống
của nhân dân lao động. Truyện cũng đề cao những bài
học thực tế.
I, Tìm hiểu chung
II, Tìm hiểu tác phẩm
1. Hình thức đố chọn người tài
Hình thức đố tăng dần về mức độ, thể hiện
Sự phát triển của tình tiết và cốt truyện.
Hình thức đố tăng dần về mức độ, thể hiện
Sự phát triển của tình tiết và cốt truyện.
2. Các câu đố dành cho chú bé
Chú bé trải qua 4 lần thi tài:
Viên quan hỏi: Một ngày trâu cày được mấy ngày đường
Nhà vua bắt dân làng nuôi 3 con trâu đực sao cho một năm
chúng đẻ được 9 con nộp cho vua.
Vua bắt từ một con chim sẻ làm thành 3 mâm cỗ
Xứ thần nước ngoài bắt xâu một sợi chỉ qua ruột con ốc vặn
rất dài.
Về hình thức:
Đối tượng hỏi, đánh đố dần dần được nâng cao.
Lần đầu là viên quan, hai lần sau là vua, lần cuối
là sứ thần nước ngoài
Về nội dung:
3. Cách giải đố của chú bé
Lần thứ nhất
Chú bé đố lại viên quan: Một ngày ngựa quan đi
mấy bước.
Tương ứng với 4 lần thách đố là 4 lần chú bé giải đố thành công.
Đây là biện pháp dùng " Gậy
ông đập lưng ông" đẩy thế bí về
phía người đố. Sự thông minh của chú
bé không phải là tìm ra đáp án đúng mà chỉ
ra cho viên quan thấy việc hỏi như vậy là
không cần thiết. Cách hỏi lại rõ ràng
cho thấy sự cao tay và thái độ của
cậu bé thông minh.
Lần thứ hai:
Chú bé bày cách đi cùng cha đến gặp
nhà vua, chú khóc lóc để gây sự chú ý của
vua. Trong trường hợp này, chú đã chủ bụng
đưa nhà vua vào bẫy để nhà vua tự nhận ra sự vô lí
trong yêu cầu của mình: cha chú bé không
đẻ em bé được thì đương nhiên trâu đực
của nhà vua giao cho làng cũng không
đẻ được.
Lần thứ ba
Cậu bé vẫn dùng hình thức đố lại khiến
nhà vua không kịp trở tay.
Lần thứ tư
Chú bé khiến mọi người ngạc nhiên,
bất ngờ vì cách giải quyết vấn đề. Chú không
dựa vào sách vở mà dựa vào những mẹo vặt của
cuộc sống, những kinh nghiệm do quan sát, chứng
kiến thường ngày để thực hiện yêu cầu của
sứ thần.
Điều đặc biệt khiến chú bé có thể
giải đố mà những người khác thì không là
do chú không chú ý đến cách làm như thế nào (vì
thực ra trâu đực không thể đẻ, chim sứ không thể
làm ba mâm cỗ.) mà chú quan tâm đến kết quả.
Cách nhìn nhận hồn nhiên, ngây thơ nhưng cũng
hết sức lôgic của chú bé đã tìm ra
những lời giải đố.
4. ý nghĩa của truyện
Em bé được phong làm trạng nguyên, được nhà vua xây cho một dinh
thự bên trong hoàng cung. Đó là phần thưởng xứng đáng dành cho em
bé, dành cho sự thông minh tài giỏi của em.
Đây là truyện dân gian đích thực, là sản phẩm của nhân
dân lao động bình thường. Những câu đố trong truyện
cũng chính là những hình thức đó, những trò thi tài của
trẻ em nông thôn xưa. Nhân vật tài trí, thông minh ở
đây không thể hiện qua chữ nghĩa, văn chương mà qua
những kinh nghiệm của đời sống. Điều đó cho thấy sự
vận dụng những điều quan sát, khái quát từ cuộc sống
của nhân dân lao động. Truyện cũng đề cao những bài
học thực tế.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Tiến Dũng
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)