Bài 45 Ôn tập tiết 51

Chia sẻ bởi Trương Đăng Ngô | Ngày 22/10/2018 | 80

Chia sẻ tài liệu: Bài 45 Ôn tập tiết 51 thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

Một số bài tập học kì 2
Câu 3 trang 120
Nhận xét:
- Trong cơ cấu kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh năm 2002, tỉ trọng công nghiệp-xây dựng và dịch vụ chiếm tỉ lệ cao trong GDP. Khu vực dịch vụ (51.6%) ngày càng phát triển.
- Nông- lâm- ngư nghiệp chiếm tỉ trọng nhỏ nhưng giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu nông nghiệp.
Câu 3 trang 123
Nhận xét.
* Về diện tích vùng trọng điểm phía Nam chiếm hơn 1/3 tỉ trọng diện tích (39.3%) trong ba vùng kinh tế trọng điểm của cả nước.
* Về dân số vùng trọng điểm phía Nam chiếm hơn 1/3 tỉ trọng dân số (39.3%) trong ba vùng kinh tế trọng điểm của cả nước.
* Về GDP vùng trọng điểm phía Nam chiếm tỉ trọng hơn 2/3 tỉ trọng GDP (65.0%) trong ba vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Điều này nói lên được tiềm năng phát triển kinh tế của vùng rất phát triển và năng động. Là vùng có vai trò quan trọng không chỉ đối với Đông Nam Bộ mà còn đối với các tỉnh phía nam và cả nước.
Bài 34. Thực hành
Sản lượng thủy sản ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (nghìn tấn)
Vẽ biểu đồ cột thể hiện sản lượng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Nêu nhận xét.
Câu 3 trang 133
Nhận xét: Qua các thời kì, sản lượng thủy sản của Đồng bằng sông Cửu Long tăng nhanh, chiếm trên 51% sản lượng thủy sản cả nước.
*Tỉ trọng sản lượng cá biển khai thác, cá nuôi, tôm nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long luôn vượt xa Đồng bằng sông Hồng
* Đồng bằng sông Cửu Long là vùng giàu tiềm năng khai thác, sản xuất thủy sản lớn nhất cả nước. Tỉ trọng sản lượng các ngành đều rất cao, chiếm trên 50% sản lượng cả nước.Đặt biệt là tôm nuôi tỉ trọng sản lượng 76,6%.
Bài 37: Thực Hành
Bài 40 Thực hành.
Nhận xét:
- Nước ta có lượng dầu khí lớn, dầu mỏ là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong những năm qua, sản lượng dầu mỏ không ngừng tăng.
- Toàn bộ lượng dầu khai thác, xuất khẩu đều dưới dạng thô.
- Từ năm 1999-2002, sản lượng dầu thô khai thác và xuất khẩu đều tăng ( Khai thác 1999: 15.2 triệu tấn lên đến 16.9 triệu tấn năm 2002. Xuất khẩu cân bằng với khai thác 16.9 triệu tấn năm 2002). Điều này chứng tỏ công nghiệp chế biến dầu khí chưa phát triển. Đây là điểm yếu của ngành công nghiệp dầu khí của nước ta.
- Trong khi xuất khẩu dầu thô thì nước ta vẫn phải nhập lượng xăng dầu đã chế biến với số lượng ngày càng lớn ( 1999: 7.4 triệu tấn lên đến 10 triệu tấn năm 2002)
- Mặc dầu trong các năm qua lượng dầu thô xuất khẩu hằng năm (16.9 triệu tấn) lớn gần gấp đôi xăng dầu nhập khẩu (10 triệu tấn) nhưng thị trường giá xăng dầu trong nước vẫn bị biến động theo giá xăng dầu thế giới. Hiện nay, nhà máy lọc dầu Dung Quất đã đi vào hoạt động (22/2/2009) bước đầu đánh giá được sự phát triển ngành dầu khí nước ta so với các nước trong khu vực, cung ứng khoảng 30% lượng xăng dầu tiêu thụ trong nước và 1 số sản phẩm hóa dầu khác như hạt nhựa, nhựa đường …, đảm bảo được an ninh nguồn nhiên liệu dầu khí, bình ổn sự biến động giá cả thị trường xăng dầu trong nước là 1 thành tựu phát triển của đất nước trong 10 năm qua (1999-2009).
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Trương Đăng Ngô
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)