Bài 36 : Thăng Long thời Trần

Chia sẻ bởi Lê Quang phát | Ngày 27/04/2019 | 59

Chia sẻ tài liệu: Bài 36 : Thăng Long thời Trần thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

THĂNG LONG THỜI LÝ TRẦN
LỚP 7A
Tiết : 36
I : Danh nhân Thăng Long
Lý Công Uẩn là người ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp. Mẹ là Phạm Thị. Khi lên ba tuổi, mẹ ông đem ông cho sư Lý Khánh Văn, trụ trì chùa Cổ Pháp làm con nuôi và được đặt tên là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn đi tu từ đó. Lớn lên, với sự bảo hộ của sư Vạn Hạnh - anh trai sư Lý Khánh Văn, ông vào kinh đô Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê, thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Là người khoan thứ nhân từ, có lượng đế vương.
I : Danh nhân Thăng Long
Bà chúa Kho Bắc Giang (Đền Phủ cạnh trường Mẫu giáo Hoa Sen phường Hoàng Văn Thụ)
Tên bà là Lý Thị Châu, quê ở hương Cổ Pháp, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc, cha là Lý Quýnh giữ chức Điện hộ binh lương dưới triều Trần ở Thăng Long.
Mẹ con bà ở tại dinh quan Điện hộ phường Giảng Võ, thường theo giúp bố việc kho tàng, xuất nhập sổ sách.
Năm Châu Nương 18 tuổi thì bố mất, bà về quê chịu tang đến năm 22 tuổi lấy chồng là đốc bộ Hoan Châu Trần Thái Bảo.
I : Danh nhân Thăng Long
Tên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến. Một học giả người Tống là Thẩm Hoạt ghi lại là Lê Thị Yến Loan, nhưng giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho biết đó chỉ là cách phiên âm từ tên Ỷ Lan. Theo tài liệu truyện thơ của Trương Thị Ngọc Trong, một cung tần của chúa Trịnh Cương thì bà có tên là Lê Khiết Nương.
Nguyên quán của Ỷ Lan ở trại trang Thổ Lỗi, hương Siêu Loại, nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Yến Loan vốn là một thôn nữ, con gái ông Lê Công Thiết và bà Vũ Thị Tình, làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm. Năm Yến Loan 12 tuổi thì mẹ mất. Hai năm sau Lê Công Thiết lấy một người con gái họ Đồng làm vợ kế. Năm Yến Loan 16 tuổi, cha cũng qua đời, cô được mẹ kế nuôi dạy.
I : Danh nhân Thăng Long
Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn, là con trai của An Sinh vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú, sinh ra tại Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nguyên quán ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm sinh của ông là năm 1228.
Ông vốn có tài quân sự, lại là tôn thất nhà Trần, do đó trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên - Mông ra khỏi đất nước.
I : Danh nhân Thăng Long
Chu Văn An quê ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (Thanh Trì), nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt,huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Là người chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch, ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng Giáo vào Việt Nam.
I : Danh nhân Thăng Long
Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Lý Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn, là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của Sứ quân Ngô Xương Xí và cháu 5 đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập - hoàng tử trưởng của Ngô Quyền, người phường Thái Hòa, thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Có tài liệu lại nói quê ông là làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, huyện Gia Lâm ngày nay).
Sử sách Trung Quốc chép tên ông là Lý Thường Cát hoặc Lý Thượng Cát
II : Sự phát triển của Thăng Long
Tháng 7 năm Canh Tuất nhà Lý bắt đầu dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Việc tìm đất, nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn trương. Từ Hoa Lư về thành Đại La có thể đi theo đường bộ hoặc theo đường thuỷ. Sử cũ không ghi chép chi tiết nhà Lý dời đô bằng đường nào. Các nhà nghiên cứu đã kết luận: Nhà Lý dời đô bằng đường thuỷ. Và chỉ có dời đô bằng đường thuỷ thì mới an toàn và tải được cả bộ máy triều đình đông đảo cùng vật chất bảo đảm đồ sộ đi kèm
II : Sự phát triển của Thăng Long
Lê Thánh Tông đã cho vẽ bản đồ chi tiết và đầy đủ về lãnh thổ Đại Việt và bộ bản đồ các vương quốc trong vùng (gọi là Thiên hạ bản đồ ).
Bộ bản đồ Đại Việt được hoàn thành năm 1490, gồm 13 thừa tuyên (sau đó đổi làm xứ)
II : Sự phát triển của Thăng Long
Chùa Một Cột được khởi công xây dựng vào mùa đông tháng mười âm lịch năm 1049.
Chùa chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiên Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được nhà sư Thiên Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm toà sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu.
II : Sự phát triển của Thăng Long
Đền Đồng Cổ
Đền chính ở xã Đan Nê, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Khi xưa Lý Thái Tông, khi còn là Thái tử, phụng mệnh vua cha là Lý Thái Tổ, đem binh đi đánh Chiêm Thành (1020), đến Trường Châu, cho quân tạm nghỉ. Đêm hôm đó, Thái tử mơ thấy một người báo mộng rằng: “Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin Thái tử đi đánh phương Nam, tôi xin theo giúp để phá giặc lập công”. Quả nhiên, hôm sau quân ta đại thắng trong trận Chiêm thành.
II : Sự phát triển của Thăng Long
























Thạp gốm hoa nâu thời Trần
Đầu chim phượng thời Trần











II : Sự phát triển của Thăng Long











Nắp hộp thời Lý











Rồng thời Lý






















II : Sự phát triển của Thăng Long











Tháp Báo Thiên











Văn Miếu – Quốc Tử Giám
The end!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Lê Quang phát
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)