Bài 34. Các nước tư sản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa
Chia sẻ bởi Đặng Phúc |
Ngày 10/05/2019 |
30
Chia sẻ tài liệu: Bài 34. Các nước tư sản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thuộc Lịch sử 10
Nội dung tài liệu:
Bài 34
CÁC NƯỚC TƯ BẢN
CHUYỂN SANG GIAI ĐOẠN
ĐẾ QUỐC CHỦ NGHĨA
1. Những thành tựu về khoa học - kĩ thuật cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
Khoảng 30 năm cuối thế kỉ XIX, lực lượng sản xuất ở các nước tư bản đạt đến trình độ phát triển cao. Trong các lĩnh vực Vật lí, Hoá học, Sinh học., con người đã đi sâu vào nghiên cứu, khám phá được nguồn năng lượng vô tận của tự nhiên, phục vụ cho nhu cầu đời sống ngày càng cao.
Lĩnh vực
Vật lý
M. Pha-ra-đây (Anh)
(1791- 1867)
với phát minh về điện
J.J Thomson (Đức)
với Thuyết electron (Thuyết điện tử)
Hăng-ri Béc-cơ-ren (Pháp)(1852 - 1908) với việc phát hiện hiện tượng Phóng xạ
a) Về khoa học
Pi-e Quy-ri và Ma-ri Quy-ri đã đặt nền tảng cho việc tìm kiếm năng lượng hạt nhân
Ernest Rutherford (Anh)(1871 - 1937) - tìm hiểu cấu trúc vật chất
Và còn nhiều những đóng góp quan trọng: Các phát minh về điện của Ghê-oóc Xi-môn Ôm (Đức, 1789 - 1854), Giêmx Pre-xcốt Giun (Anh, 1818 - 1889), E-mi-li Khri-xchia-nô-vích Len-xơ (Nga, 1804 - 1865) đã mở ra khả năng ứng dụng một nguồn năng lượng mới; phát minh của nhà bác học Vin-hem Rơn-ghen(Đức, 1845 - 1923) về tia X trong y học.
Lĩnh vực
Hoá học
Nhà bác học Nga Dimitri Ivanovich Mendeleev (1834 - 1907) và định luật tuần hoàn đặt cơ sở cho sự phân hạng các nguyên tố hoá học.
Lĩnh vực
Sinh học
Lu-I Pa-xtơ (Pháp, 1822 - 1895) đã chế tạo thành công văcxin chống bệnh chó dại và phát hiện vi trùng
Charles Darwin (Anh) và học thuyết Tiến hoá
Ivan Petrovich Pavlov (Nga,1849-1936) với những thí nghiệm về phản xạ có điều kiện
b) Về kỹ thuật
- Trong công nghiệp:
+ Kỹ thuật luyện kim được cải tiến với việc sử dụng lò Bet-xme và lò Mác-tanh.
+ Dầu hoả được khai thác lắp sáng.
+ Công nghiệp hoá học ra đời phục vụ ngành nhuộm, phân bón và thuốc nổ.
- Trong thông tin liên lạc - giao thông vận tải:
+ Giữa thế kỉ XIX, phát minh ra máy điện tín.(phát minh quan trọng nhất trong lĩnh vực liên lạc)
+ Giữa thế kỉ XIX, ôtô được sản xuất và đưa vào sử dụng.
+ Tháng 12 - 1903, ngành hàng không ra đời.
- Trong nông nghiệp:
+ Máy kéo, máy gặt, máy đập được sử dụng rộng rãi.
+ Phương pháp canh tác được cải tiến.
+ Sử dụng phân bón hoá học đã đưa năng suất lao động tăng cao.
Anh em Vrai-tơ và chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới
2. Sự hình thành các tổ chức độc quyền:
a) Hoàn cảnh lịch sử:
- Cuối thế kỉ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp hoàn thành, cho nên việc sử dụng máy móc vào sản xuất trở nên phổ biến.
- Việc sử dụng năng lượng mới cũng như những tiến bộ về kỹ thuật đã tạo ra khả năng xây dựng các ngành công nghiệp trên qui mô lớn.
- Sự cạnh tranh giữa các ngành, các công ty công nghiệp lớn ngày càng tăng. Để tập trung nguồn vốn lớn đủ sức cạnh tranh, các nhà tư bản thành lập các công ty độc quyền. Các công ty nhỏ phá sản cũng bị thu hút vào các công ty lớn (hay còn gọi là tình trạng cá lớn nuốt cá bé). Nhiều tổ chức độc quyền ra đời trong hoàn cảnh đó, có vai trò lũng đoạn trong đời sống kinh tế ở các nước tư bản.
Vì sao lại có nhỉ?
b) Tư bản tài chính là gì ?
- Trong lĩnh vực ngân hàng, quá trình tập trung sản xuất diễn ra mạnh mẽ. Một số vốn ngân hàng khống chế mọi hoạt động kinh doanh trong cả nước. Với số vốn khổng lồ, nhiều chủ ngân hàng không chỉ là người cho vay mà còn tham gia vào hoạt động của các xí nghiệp.
- Mặt khác, nhiều ông chủ các công ty lớn làm ăn có lãi, đem tiền gửi vào ngân hàng để thu lợi nhuận.
- Sự kết hợp chặt chẽ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp đã tạo ra tầng lớp tư bản tài chính giàu kết xù, có thế lực nhất trong xã hội.
- Một số công ty độc quyền:
? Sự ra đời của các tổ chức độc quyền đã đánh dấu bước chuyển của chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
c) Sự xâm chiếm và tranh chấp thuộc địa của các nước đế quốc:
Đến cuối thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở châu Âu, đồng thời các cuộc cách mạng tư sản đều đã hoàn thành ở các nước này. Nền kinh tế TBCN vì thế ngày càng phát triển mạnh.
> Sự phát triển kinh tế dẫn đến những nhu cầu mới như: tiêu thụ hàng hoá của chính quốc, nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mạt. Các nước ở châu Á, châu Phi đông dân và giàu tài nguyên chính là đối tượng xâm lược chính của chủ nghĩa đế quốc.
> Các mâu thuẫn xã hội: giữa các nước đế quốc với nhau, giữa đế quốc với nhân dân thuộc địa, giữa giai cấp tư sản với công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản. càng trở nên sâu sắc. Tình hình đó dẫn đến những cuộc chiến tranh nhằm phân chia lại thuộc địa, nhiều cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội nhằm thủ tiêu ách áp bức, bóc lột, giải phóng nhân dân lao động.
HẾT
Cảm ơn các bạn đã quan tâm theo dõi.
Chúc các bạn học tốt !
1/ Hiện tượng phóng xạ:
Phóng xạ là hiện tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân (thường được gọi là các tia phóng xạ). Các nguyên tử có tính phóng xạ gọi là các đồng vị phóng xạ, còn các nguyên tử không phóng xạ gọi là các đồng vị bền.
Năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel và sau đó là ông bà Pierre Curie và Marie Curie phát hiện ra rằng các hợp chất của uranium có khả năng tự phát ra những tia không không nhìn thấy được, có thể xuyên qua những vật mà tia sáng thường không đi qua được gọi là các tia phóng xạ.
Tia phóng xạ có thể là chùm các hạt mang điện dương như hạt anpha, hạt proton; mang điện âm như chùm electron (phóng xạ beta); không mang điện như hạt nơtron, tia gamma (có bản chất giống như ánh sáng nhưng năng lượng lớn hơn nhiều). Sự tự biến đổi như vậy của hạt nhân nguyên tử, thường được gọi là sự phân rã phóng xạ hay phân rã hạt nhân.
Những nghiên cứu về bản chất của các hiện tượng phóng xạ chứng tỏ rằng hạt nhân của các nguyên tử phóng xạ không bền, tự phân hủy và phóng ra các hạt vật chất khác nhau như hạt anpha, beta kèm theo bức xạ điện từ như tia gamma. Đồng thời với hiện tượng phóng xạ tự nhiên, người ta cũng phát hiện một số loại nguyên tử của một số nguyên tố nhân tạo cũng có khả năng phóng xạ.
Ti?u s?
Dmitri Ivanovich Mendeleev sinh ngày 27 tháng 1 năm 1834 ở thành phố Tobolsk (Serbia) trong một gia đình hiệu trưởng trung học phổ thông. Sau khi tốt nghiệp trường Tobolsk, ông vào học trường Đại học sư phạm Saint-Peterburg và nhận huy chương vàng khi tốt nghiệp trường này năm 1855.
Kết quả hoạt động sáng tạo nhất của Mendeleev là sự phát minh ra hệ thống tuần hoàn của các nguyên tố vào năm 1869, lúc ông mới 35 tuổi. Trong các công trình khác của Mendeleev quan trọng nhất là "Nghiên cứu trọng lượng riêng của dung dịch nước", luận án tiến sĩ "về hợp chất của rượu với nước" và "quan niệm dung dịch như sự liên hợp". Những khái niệm cơ bản về thuyết hóa học hay hydrat hóa của dung dịch do ông nghiên cứu là phần quan trọng của thuyết hiện nay về dung dịch.
Công trình xuất sắc của Mendeleev là cuốn cơ sở hóa học, trong đó toàn bộ hóa học vô cơ được trình bày theo quan điểm định luật tuần hoàn. Ông mất ngày 2 tháng 2 năm 1907.
Học thuyết tiến hoá của Đacuyn
1. Biến dị
Đacuyn là người đầu tiên dùng khái niệm biến dị cá thể (gọi tắt là biến dị) để chỉ sự phát sinh những đặc điểm sai khác giữa các cá thể cùng loài trong quá trình sinh sản. Ông nhận xét rằng tác dụng trực tiếp của ngoại cảnh hay của tập quán hoạt động ở động vật chỉ gây ra những biển đổi đồng loạt theo 1 hướng xác định, tương ứng với điều kiện ngoại cảnh, ít có ý nghĩa trong chọn giống và trong tiến hoá. Biến dị xuất hiện trong quá trình sinh sản ở từng cá thể riêng lẻ và theo những hướng không xác định mới là nguồn nguyên liệu của chọn giống và tiến hoá.
2. Chọn lọc nhân tạo
Quá trình chọn lọc nhân tạo, bao gồm 2 mặt song song: vừa đa`o thải những biến dị bất lợi, vừa tích luỹ những biến dị có lợi phù hợp với mục tiêu sản xuất của con người. Chọn lọc nhân tạo là nhân tố chính qui định chiều hướng và tốc độ biến đổi của các giống vật nuôi cây trồng. Nó giải thích vì sao mỗi giống vật nuôi hay cây trồng đều thích nghi cao độ với một nhu cầu xác định của con người.
Trong mỗi loài vật nuôi hay cây trồng, sự chọn lọc có thể được tiến hành theo những hướng khác nhau. Trong mỗi hướng, con người đi sâu khai thác một đặc điểm có lợi ở sinh vật, giữ lại những dạng tốt nổi bật, loại bỏ những dạng trung gian không đáng chú ý. Kết quả là từ một dạng ban đầu đã dần dần phát sinh nhiều dạng khác nhau rõ rệt và khác xa dạng tổ tiên. Đó là quá trình phân li tính trạng, giải thích sự hình thành nhiều giống vật nuôi, cây trồng trong mỗi loài, xuất phát từ 1 hoặc vài dạng tổ tiên hoang dại.
Học thuyết tiến hoá của Đacuyn
3. Chọn lọc tự nhiên
Giữa các cá thể cùng loài sinh ra trong cùng 1 lứa, sống trong cùng 1 hoàn cảnh luôn luôn xuất hiện những biến dị cá thể rất phong phú. Nhưng sự tồn tại của mỗi sinh vật lại phụ thuộc vô số yếu tố phức tạp trong ngoại cảnh, vì vậy nó chịu sự chọn lọc. Tác nhân gây ra sự chọn lọc là những điều kiện khí hậu, đất đai, nguồn thức ăn, kẻ thù tiêu diệt, đối thủ cạnh tranh về thức ăn, chỗ ở. Những cá thể nào mang biến dị có lợi cho bản thân chúng sẽ được sống sót nhiều hơn, phát triển ưu thế, sinh sản nhiều, con cháu ngày càng đông. Trái lại những cá thể nào mang biến dị ít có lợi hoặc có hại cho bản thân chúng thì ít có khả năng tồn tại, phát triển, con cháu hiếm dần. Kết quả là chỉ những sinh vật nào thích nghi với điều kiện sống thì mới sống sót và phát triển được.Chọn lọc tự nhiên tác động thông qua đặc tính biến dị và di truyền đã là nhân tố chính trong quá trình hình thành các đặc điểm thích nghi trên cơ thể sinh vật.Trong chọn lọc tự nhiên, trên qui mô rộng lớn và thời gian lịch sử lâu dài, quá trình phân li tính trạng dẫn tới sự hình thành nhiều loài mới từ một loài ban đầu.
Theo Đacuyn loài mới được hình thành dần dần qua nhiều dạng trung gian, dưới tác dụng của chọn lọc tự nhiên theo con đường phân li tính trạng.
Với thuyết chọn lọc tự nhiên, Đacuyn đã giải thích khá thành công sự hình thành các đặc điểm thích nghi của sinh vật. Nếu Lamac xem thích nghi là kết quả sự biến đổi của cơ thể sinh vật tương ứng với sự thay đổi của ngoại cảnh thì Đacuyn coi đấy là quá trình chọn lọc các biến dị, đa`o thải các dạng kém thích nghi. Đacuyn cũng đã thành công trong việc xây dựng luận điểm về nguồn gốc thống nhất của các loài, chứng minh rằng toàn bộ sinh giới ngày nay là kết quả quá trình tiến hoá từ 1 nguồn gốc chung.
Xe có động cơ đầu tiên ở Đức (1886)
Karl Benz và chiếc xe ba bánh chạy bằng động cơ đốt trong đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1886.
Năm 1885, kỹ sư cơ khí người Đức Karl Benz đã thiết kế và chế tạo chiếc ô tô “thực sự” đầu tiên trên thế giới, sử dụng động cơ đốt trong phát triển dựa trên động cơ của Otto. Chiếc xe này là ô tô đúng nghĩa chứ không phải là xe ngựa gắn động cơ như sản phẩm của Daimler. Ngày 29/1/1886, ông Benz nhận được bằng sáng chế đầu tiên, mang số hiệu DRP No. 37435, cho chiếc xe ba bánh chạy bằng hơi đốt. Chiếc xe có bugi, bộ truyền động vi sai và bộ làm mát bằng nước
CÁC NƯỚC TƯ BẢN
CHUYỂN SANG GIAI ĐOẠN
ĐẾ QUỐC CHỦ NGHĨA
1. Những thành tựu về khoa học - kĩ thuật cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
Khoảng 30 năm cuối thế kỉ XIX, lực lượng sản xuất ở các nước tư bản đạt đến trình độ phát triển cao. Trong các lĩnh vực Vật lí, Hoá học, Sinh học., con người đã đi sâu vào nghiên cứu, khám phá được nguồn năng lượng vô tận của tự nhiên, phục vụ cho nhu cầu đời sống ngày càng cao.
Lĩnh vực
Vật lý
M. Pha-ra-đây (Anh)
(1791- 1867)
với phát minh về điện
J.J Thomson (Đức)
với Thuyết electron (Thuyết điện tử)
Hăng-ri Béc-cơ-ren (Pháp)(1852 - 1908) với việc phát hiện hiện tượng Phóng xạ
a) Về khoa học
Pi-e Quy-ri và Ma-ri Quy-ri đã đặt nền tảng cho việc tìm kiếm năng lượng hạt nhân
Ernest Rutherford (Anh)(1871 - 1937) - tìm hiểu cấu trúc vật chất
Và còn nhiều những đóng góp quan trọng: Các phát minh về điện của Ghê-oóc Xi-môn Ôm (Đức, 1789 - 1854), Giêmx Pre-xcốt Giun (Anh, 1818 - 1889), E-mi-li Khri-xchia-nô-vích Len-xơ (Nga, 1804 - 1865) đã mở ra khả năng ứng dụng một nguồn năng lượng mới; phát minh của nhà bác học Vin-hem Rơn-ghen(Đức, 1845 - 1923) về tia X trong y học.
Lĩnh vực
Hoá học
Nhà bác học Nga Dimitri Ivanovich Mendeleev (1834 - 1907) và định luật tuần hoàn đặt cơ sở cho sự phân hạng các nguyên tố hoá học.
Lĩnh vực
Sinh học
Lu-I Pa-xtơ (Pháp, 1822 - 1895) đã chế tạo thành công văcxin chống bệnh chó dại và phát hiện vi trùng
Charles Darwin (Anh) và học thuyết Tiến hoá
Ivan Petrovich Pavlov (Nga,1849-1936) với những thí nghiệm về phản xạ có điều kiện
b) Về kỹ thuật
- Trong công nghiệp:
+ Kỹ thuật luyện kim được cải tiến với việc sử dụng lò Bet-xme và lò Mác-tanh.
+ Dầu hoả được khai thác lắp sáng.
+ Công nghiệp hoá học ra đời phục vụ ngành nhuộm, phân bón và thuốc nổ.
- Trong thông tin liên lạc - giao thông vận tải:
+ Giữa thế kỉ XIX, phát minh ra máy điện tín.(phát minh quan trọng nhất trong lĩnh vực liên lạc)
+ Giữa thế kỉ XIX, ôtô được sản xuất và đưa vào sử dụng.
+ Tháng 12 - 1903, ngành hàng không ra đời.
- Trong nông nghiệp:
+ Máy kéo, máy gặt, máy đập được sử dụng rộng rãi.
+ Phương pháp canh tác được cải tiến.
+ Sử dụng phân bón hoá học đã đưa năng suất lao động tăng cao.
Anh em Vrai-tơ và chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới
2. Sự hình thành các tổ chức độc quyền:
a) Hoàn cảnh lịch sử:
- Cuối thế kỉ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp hoàn thành, cho nên việc sử dụng máy móc vào sản xuất trở nên phổ biến.
- Việc sử dụng năng lượng mới cũng như những tiến bộ về kỹ thuật đã tạo ra khả năng xây dựng các ngành công nghiệp trên qui mô lớn.
- Sự cạnh tranh giữa các ngành, các công ty công nghiệp lớn ngày càng tăng. Để tập trung nguồn vốn lớn đủ sức cạnh tranh, các nhà tư bản thành lập các công ty độc quyền. Các công ty nhỏ phá sản cũng bị thu hút vào các công ty lớn (hay còn gọi là tình trạng cá lớn nuốt cá bé). Nhiều tổ chức độc quyền ra đời trong hoàn cảnh đó, có vai trò lũng đoạn trong đời sống kinh tế ở các nước tư bản.
Vì sao lại có nhỉ?
b) Tư bản tài chính là gì ?
- Trong lĩnh vực ngân hàng, quá trình tập trung sản xuất diễn ra mạnh mẽ. Một số vốn ngân hàng khống chế mọi hoạt động kinh doanh trong cả nước. Với số vốn khổng lồ, nhiều chủ ngân hàng không chỉ là người cho vay mà còn tham gia vào hoạt động của các xí nghiệp.
- Mặt khác, nhiều ông chủ các công ty lớn làm ăn có lãi, đem tiền gửi vào ngân hàng để thu lợi nhuận.
- Sự kết hợp chặt chẽ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp đã tạo ra tầng lớp tư bản tài chính giàu kết xù, có thế lực nhất trong xã hội.
- Một số công ty độc quyền:
? Sự ra đời của các tổ chức độc quyền đã đánh dấu bước chuyển của chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
c) Sự xâm chiếm và tranh chấp thuộc địa của các nước đế quốc:
Đến cuối thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở châu Âu, đồng thời các cuộc cách mạng tư sản đều đã hoàn thành ở các nước này. Nền kinh tế TBCN vì thế ngày càng phát triển mạnh.
> Sự phát triển kinh tế dẫn đến những nhu cầu mới như: tiêu thụ hàng hoá của chính quốc, nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mạt. Các nước ở châu Á, châu Phi đông dân và giàu tài nguyên chính là đối tượng xâm lược chính của chủ nghĩa đế quốc.
> Các mâu thuẫn xã hội: giữa các nước đế quốc với nhau, giữa đế quốc với nhân dân thuộc địa, giữa giai cấp tư sản với công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản. càng trở nên sâu sắc. Tình hình đó dẫn đến những cuộc chiến tranh nhằm phân chia lại thuộc địa, nhiều cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội nhằm thủ tiêu ách áp bức, bóc lột, giải phóng nhân dân lao động.
HẾT
Cảm ơn các bạn đã quan tâm theo dõi.
Chúc các bạn học tốt !
1/ Hiện tượng phóng xạ:
Phóng xạ là hiện tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân (thường được gọi là các tia phóng xạ). Các nguyên tử có tính phóng xạ gọi là các đồng vị phóng xạ, còn các nguyên tử không phóng xạ gọi là các đồng vị bền.
Năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel và sau đó là ông bà Pierre Curie và Marie Curie phát hiện ra rằng các hợp chất của uranium có khả năng tự phát ra những tia không không nhìn thấy được, có thể xuyên qua những vật mà tia sáng thường không đi qua được gọi là các tia phóng xạ.
Tia phóng xạ có thể là chùm các hạt mang điện dương như hạt anpha, hạt proton; mang điện âm như chùm electron (phóng xạ beta); không mang điện như hạt nơtron, tia gamma (có bản chất giống như ánh sáng nhưng năng lượng lớn hơn nhiều). Sự tự biến đổi như vậy của hạt nhân nguyên tử, thường được gọi là sự phân rã phóng xạ hay phân rã hạt nhân.
Những nghiên cứu về bản chất của các hiện tượng phóng xạ chứng tỏ rằng hạt nhân của các nguyên tử phóng xạ không bền, tự phân hủy và phóng ra các hạt vật chất khác nhau như hạt anpha, beta kèm theo bức xạ điện từ như tia gamma. Đồng thời với hiện tượng phóng xạ tự nhiên, người ta cũng phát hiện một số loại nguyên tử của một số nguyên tố nhân tạo cũng có khả năng phóng xạ.
Ti?u s?
Dmitri Ivanovich Mendeleev sinh ngày 27 tháng 1 năm 1834 ở thành phố Tobolsk (Serbia) trong một gia đình hiệu trưởng trung học phổ thông. Sau khi tốt nghiệp trường Tobolsk, ông vào học trường Đại học sư phạm Saint-Peterburg và nhận huy chương vàng khi tốt nghiệp trường này năm 1855.
Kết quả hoạt động sáng tạo nhất của Mendeleev là sự phát minh ra hệ thống tuần hoàn của các nguyên tố vào năm 1869, lúc ông mới 35 tuổi. Trong các công trình khác của Mendeleev quan trọng nhất là "Nghiên cứu trọng lượng riêng của dung dịch nước", luận án tiến sĩ "về hợp chất của rượu với nước" và "quan niệm dung dịch như sự liên hợp". Những khái niệm cơ bản về thuyết hóa học hay hydrat hóa của dung dịch do ông nghiên cứu là phần quan trọng của thuyết hiện nay về dung dịch.
Công trình xuất sắc của Mendeleev là cuốn cơ sở hóa học, trong đó toàn bộ hóa học vô cơ được trình bày theo quan điểm định luật tuần hoàn. Ông mất ngày 2 tháng 2 năm 1907.
Học thuyết tiến hoá của Đacuyn
1. Biến dị
Đacuyn là người đầu tiên dùng khái niệm biến dị cá thể (gọi tắt là biến dị) để chỉ sự phát sinh những đặc điểm sai khác giữa các cá thể cùng loài trong quá trình sinh sản. Ông nhận xét rằng tác dụng trực tiếp của ngoại cảnh hay của tập quán hoạt động ở động vật chỉ gây ra những biển đổi đồng loạt theo 1 hướng xác định, tương ứng với điều kiện ngoại cảnh, ít có ý nghĩa trong chọn giống và trong tiến hoá. Biến dị xuất hiện trong quá trình sinh sản ở từng cá thể riêng lẻ và theo những hướng không xác định mới là nguồn nguyên liệu của chọn giống và tiến hoá.
2. Chọn lọc nhân tạo
Quá trình chọn lọc nhân tạo, bao gồm 2 mặt song song: vừa đa`o thải những biến dị bất lợi, vừa tích luỹ những biến dị có lợi phù hợp với mục tiêu sản xuất của con người. Chọn lọc nhân tạo là nhân tố chính qui định chiều hướng và tốc độ biến đổi của các giống vật nuôi cây trồng. Nó giải thích vì sao mỗi giống vật nuôi hay cây trồng đều thích nghi cao độ với một nhu cầu xác định của con người.
Trong mỗi loài vật nuôi hay cây trồng, sự chọn lọc có thể được tiến hành theo những hướng khác nhau. Trong mỗi hướng, con người đi sâu khai thác một đặc điểm có lợi ở sinh vật, giữ lại những dạng tốt nổi bật, loại bỏ những dạng trung gian không đáng chú ý. Kết quả là từ một dạng ban đầu đã dần dần phát sinh nhiều dạng khác nhau rõ rệt và khác xa dạng tổ tiên. Đó là quá trình phân li tính trạng, giải thích sự hình thành nhiều giống vật nuôi, cây trồng trong mỗi loài, xuất phát từ 1 hoặc vài dạng tổ tiên hoang dại.
Học thuyết tiến hoá của Đacuyn
3. Chọn lọc tự nhiên
Giữa các cá thể cùng loài sinh ra trong cùng 1 lứa, sống trong cùng 1 hoàn cảnh luôn luôn xuất hiện những biến dị cá thể rất phong phú. Nhưng sự tồn tại của mỗi sinh vật lại phụ thuộc vô số yếu tố phức tạp trong ngoại cảnh, vì vậy nó chịu sự chọn lọc. Tác nhân gây ra sự chọn lọc là những điều kiện khí hậu, đất đai, nguồn thức ăn, kẻ thù tiêu diệt, đối thủ cạnh tranh về thức ăn, chỗ ở. Những cá thể nào mang biến dị có lợi cho bản thân chúng sẽ được sống sót nhiều hơn, phát triển ưu thế, sinh sản nhiều, con cháu ngày càng đông. Trái lại những cá thể nào mang biến dị ít có lợi hoặc có hại cho bản thân chúng thì ít có khả năng tồn tại, phát triển, con cháu hiếm dần. Kết quả là chỉ những sinh vật nào thích nghi với điều kiện sống thì mới sống sót và phát triển được.Chọn lọc tự nhiên tác động thông qua đặc tính biến dị và di truyền đã là nhân tố chính trong quá trình hình thành các đặc điểm thích nghi trên cơ thể sinh vật.Trong chọn lọc tự nhiên, trên qui mô rộng lớn và thời gian lịch sử lâu dài, quá trình phân li tính trạng dẫn tới sự hình thành nhiều loài mới từ một loài ban đầu.
Theo Đacuyn loài mới được hình thành dần dần qua nhiều dạng trung gian, dưới tác dụng của chọn lọc tự nhiên theo con đường phân li tính trạng.
Với thuyết chọn lọc tự nhiên, Đacuyn đã giải thích khá thành công sự hình thành các đặc điểm thích nghi của sinh vật. Nếu Lamac xem thích nghi là kết quả sự biến đổi của cơ thể sinh vật tương ứng với sự thay đổi của ngoại cảnh thì Đacuyn coi đấy là quá trình chọn lọc các biến dị, đa`o thải các dạng kém thích nghi. Đacuyn cũng đã thành công trong việc xây dựng luận điểm về nguồn gốc thống nhất của các loài, chứng minh rằng toàn bộ sinh giới ngày nay là kết quả quá trình tiến hoá từ 1 nguồn gốc chung.
Xe có động cơ đầu tiên ở Đức (1886)
Karl Benz và chiếc xe ba bánh chạy bằng động cơ đốt trong đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1886.
Năm 1885, kỹ sư cơ khí người Đức Karl Benz đã thiết kế và chế tạo chiếc ô tô “thực sự” đầu tiên trên thế giới, sử dụng động cơ đốt trong phát triển dựa trên động cơ của Otto. Chiếc xe này là ô tô đúng nghĩa chứ không phải là xe ngựa gắn động cơ như sản phẩm của Daimler. Ngày 29/1/1886, ông Benz nhận được bằng sáng chế đầu tiên, mang số hiệu DRP No. 37435, cho chiếc xe ba bánh chạy bằng hơi đốt. Chiếc xe có bugi, bộ truyền động vi sai và bộ làm mát bằng nước
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Đặng Phúc
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)