Bài 30. Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918
Chia sẻ bởi Vũ Xuân Giang |
Ngày 24/10/2018 |
22
Chia sẻ tài liệu: Bài 30. Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918 thuộc Lịch sử 8
Nội dung tài liệu:
TIẾT 49. BÀI 30: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1918
Phong trào yêu nước trước chiến tranh thế giới thứ nhất
1. Phong trào Đông du (1905 – 1909)
Phan Bội Châu (tên cũ là Phan Văn San), hiệu Hải Thụ, sau lấy hiệu là Sào Nam (và nhiều bút danh khác) sinh ngày 26-12-1867, quê ở làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn, Nghệ An).
Năm 1900, ông đỗ thủ khoa trường Nghệ và chính thức bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng.
Năm 1904 ông cùng các nhà yêu nước sáng lập Hội Duy Tân. Đầu năm 1905, ông sang Nhật rồi quay về dấy lên một phong trào Đông Du vào năm 1905-1908.
Lãnh đạo phong trào Đông Du, Phan Bội Châu đã tổ chức Công hiếu hội, tập hợp 200 lưu học sinh Việt Nam sang Nhật học tập chính trị, khoa học, quân sự.
Khoảng tháng 3-1909, tổ chức Đông Du bị giải tán và Phan bị chính phủ Nhật trục xuất. Trở về ẩn náu tạm thời trên đất Trung Quốc.
Từ năm 1926 trở đi, Phan Bội Châu là người tù bị giam lỏng ở Bến Ngự (Huế). Đến đây, cuộc đời hoạt động cách mạng nguyện hiến dâng tất cả cho Tổ quốc của Phan Bội Châu phải bỏ dở.
Lương Văn Can (1854-1927), tên tự là Ôn Như, hiệu là Sơn Lão, là nhà cách mạng Việt Nam, là một trong những người sáng lập ra và làm hiệu trưởng trường Đông Kinh nghĩa thục năm 1907.
Ông quê ở làng Nhị Khê, bây giờ là xã Nhị Khê huyện Thường Tín, Hà Nội.
Năm 1875, ông thi đỗ Cử nhân . năm 25 tuổi (1879) ông mở trường dạy học tại số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội. Vì đỗ cử nhân, ông thường được gọi là "cụ Cử Can“.
Vào thời điểm này Việt Nam đang ở nằm trong thế suy vong và đứng trước họa xâm lăng của người Pháp. Là nhà nho yêu nước, ông đã học hỏi theo sách của các nhà tư tưởng tiến bộ của phương Đông như: Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, ... nhằm tìm con đường canh tân đất nước.
Khi thấy cuộc cải cách Minh Trị thành công trên đất Nhật Bản, học tập người Nhật, ông cùng bạn bè tìm cách thành lập một trường học, theo kiểu trường Khánh Ưng nghĩa thục của Phúc Trạch lập ở Nhật, để làm cuộc cách mạng về văn hóa, đồng thời tuyên truyền lòng yêu nước, tinh thần chống Pháp trong dân chúng Việt Nam. Với mục đích đó, năm 1907 trường Đông Kinh nghĩa thục ra đời ở 10 Hàng Đào, và căn nhà ông ở phố Hàng Đào cũng trở thành nơi học.
Từ trường Đông Kinh nghĩa thục này ở Hà Nội, phong trào Đông Kinh nghĩa thục lan đi rất nhanh và sâu rộng tới các tỉnh như: Hà Đông, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, ..., Quảng Nam,... làm thực dân Pháp lo sợ. Tháng 11 năm 1907 Đông Kinh nghĩa thục bị giải tán, ông bị bắt giam nhưng người Pháp không có chứng cớ kết tội nên phải thả. Năm 1913 ông bị kết án biệt xứ và phải đi đày ở Campuchia. Năm 1924ông được tha về và mất tại Hà Nội năm 1927.
Phan Chu Trinh, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh năm 1872 ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Năm 1900, Phan Chu Trinh đỗ cử nhân; năm sau (1901), ông đỗ phó bảng. Năm 1902, ông vào học trường Hậu bổ, rồi ra làm quan với chức quan Thừa biện bộ Lễ. Tại triều đình, ông được chứng kiến cảnh mục nát hủ bại của quan trường, nên sinh ra chán nản, có khi vài tháng không đến cơ quan. Nhưng chính vào thời gian đó, ông giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ, Vũ Phạm Hàm...
Tháng 7-1904, Phan Chu Trinh gặp Phan Bội Châu, hai người trở thành đôi bạn tâm đắc. Cuối năm đó, lấy cớ phải chăm lo việc thờ phụng tổ tiên thay anh cả đã mất, ông cáo quan về quê. Từ đó, ông dốc lòng vào công cuộc cứu nước. Khâm sứ Trung Kỳ nhờ Thống sứ Bắc Kỳ cho bắt Phan Chu Trinh tại Hà Nội ngày 31-3, sau đó giải về Huế giao cho Nam triều giam giữ. Hội đồng xét xử gồm các quan lại Nam triều, có Khâm sứ Trung Kỳ ngồi dự đã kết án chém. Nhưng do sự can thiệp kịp thời của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Liên minh nhân quyền tại Hà Nội, Phan Chu Trinh chỉ bị đày đi Côn Đảo.
Đầu mùa hè năm 1910, tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án được thiết lập, ông được "ân xá", nhưng buộc phải xuống ở Mỹ Tho để quản thúc. Ngày 31-10-1908 Chính phủ Pháp lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, Phan Chu Trinh cùng con trai là Phan Châu Dật đi theo đoàn này.
Trong những năm sống ở thủ đô Pháp, ông làm nghề sửa ảnh, sống thanh bạch. Năm 1926, ông về nước và mất ở Sài Gòn.
Đám tang Phan Châu Trinh
Phong trào yêu nước trước chiến tranh thế giới thứ nhất
1. Phong trào Đông du (1905 – 1909)
Phan Bội Châu (tên cũ là Phan Văn San), hiệu Hải Thụ, sau lấy hiệu là Sào Nam (và nhiều bút danh khác) sinh ngày 26-12-1867, quê ở làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn, Nghệ An).
Năm 1900, ông đỗ thủ khoa trường Nghệ và chính thức bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng.
Năm 1904 ông cùng các nhà yêu nước sáng lập Hội Duy Tân. Đầu năm 1905, ông sang Nhật rồi quay về dấy lên một phong trào Đông Du vào năm 1905-1908.
Lãnh đạo phong trào Đông Du, Phan Bội Châu đã tổ chức Công hiếu hội, tập hợp 200 lưu học sinh Việt Nam sang Nhật học tập chính trị, khoa học, quân sự.
Khoảng tháng 3-1909, tổ chức Đông Du bị giải tán và Phan bị chính phủ Nhật trục xuất. Trở về ẩn náu tạm thời trên đất Trung Quốc.
Từ năm 1926 trở đi, Phan Bội Châu là người tù bị giam lỏng ở Bến Ngự (Huế). Đến đây, cuộc đời hoạt động cách mạng nguyện hiến dâng tất cả cho Tổ quốc của Phan Bội Châu phải bỏ dở.
Lương Văn Can (1854-1927), tên tự là Ôn Như, hiệu là Sơn Lão, là nhà cách mạng Việt Nam, là một trong những người sáng lập ra và làm hiệu trưởng trường Đông Kinh nghĩa thục năm 1907.
Ông quê ở làng Nhị Khê, bây giờ là xã Nhị Khê huyện Thường Tín, Hà Nội.
Năm 1875, ông thi đỗ Cử nhân . năm 25 tuổi (1879) ông mở trường dạy học tại số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội. Vì đỗ cử nhân, ông thường được gọi là "cụ Cử Can“.
Vào thời điểm này Việt Nam đang ở nằm trong thế suy vong và đứng trước họa xâm lăng của người Pháp. Là nhà nho yêu nước, ông đã học hỏi theo sách của các nhà tư tưởng tiến bộ của phương Đông như: Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, ... nhằm tìm con đường canh tân đất nước.
Khi thấy cuộc cải cách Minh Trị thành công trên đất Nhật Bản, học tập người Nhật, ông cùng bạn bè tìm cách thành lập một trường học, theo kiểu trường Khánh Ưng nghĩa thục của Phúc Trạch lập ở Nhật, để làm cuộc cách mạng về văn hóa, đồng thời tuyên truyền lòng yêu nước, tinh thần chống Pháp trong dân chúng Việt Nam. Với mục đích đó, năm 1907 trường Đông Kinh nghĩa thục ra đời ở 10 Hàng Đào, và căn nhà ông ở phố Hàng Đào cũng trở thành nơi học.
Từ trường Đông Kinh nghĩa thục này ở Hà Nội, phong trào Đông Kinh nghĩa thục lan đi rất nhanh và sâu rộng tới các tỉnh như: Hà Đông, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, ..., Quảng Nam,... làm thực dân Pháp lo sợ. Tháng 11 năm 1907 Đông Kinh nghĩa thục bị giải tán, ông bị bắt giam nhưng người Pháp không có chứng cớ kết tội nên phải thả. Năm 1913 ông bị kết án biệt xứ và phải đi đày ở Campuchia. Năm 1924ông được tha về và mất tại Hà Nội năm 1927.
Phan Chu Trinh, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh năm 1872 ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Năm 1900, Phan Chu Trinh đỗ cử nhân; năm sau (1901), ông đỗ phó bảng. Năm 1902, ông vào học trường Hậu bổ, rồi ra làm quan với chức quan Thừa biện bộ Lễ. Tại triều đình, ông được chứng kiến cảnh mục nát hủ bại của quan trường, nên sinh ra chán nản, có khi vài tháng không đến cơ quan. Nhưng chính vào thời gian đó, ông giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ, Vũ Phạm Hàm...
Tháng 7-1904, Phan Chu Trinh gặp Phan Bội Châu, hai người trở thành đôi bạn tâm đắc. Cuối năm đó, lấy cớ phải chăm lo việc thờ phụng tổ tiên thay anh cả đã mất, ông cáo quan về quê. Từ đó, ông dốc lòng vào công cuộc cứu nước. Khâm sứ Trung Kỳ nhờ Thống sứ Bắc Kỳ cho bắt Phan Chu Trinh tại Hà Nội ngày 31-3, sau đó giải về Huế giao cho Nam triều giam giữ. Hội đồng xét xử gồm các quan lại Nam triều, có Khâm sứ Trung Kỳ ngồi dự đã kết án chém. Nhưng do sự can thiệp kịp thời của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Liên minh nhân quyền tại Hà Nội, Phan Chu Trinh chỉ bị đày đi Côn Đảo.
Đầu mùa hè năm 1910, tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án được thiết lập, ông được "ân xá", nhưng buộc phải xuống ở Mỹ Tho để quản thúc. Ngày 31-10-1908 Chính phủ Pháp lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, Phan Chu Trinh cùng con trai là Phan Châu Dật đi theo đoàn này.
Trong những năm sống ở thủ đô Pháp, ông làm nghề sửa ảnh, sống thanh bạch. Năm 1926, ông về nước và mất ở Sài Gòn.
Đám tang Phan Châu Trinh
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Vũ Xuân Giang
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)