Bài 3. Các quốc gia cổ đại phương Đông
Chia sẻ bởi Duơng Khánh Ngọc |
Ngày 10/05/2019 |
37
Chia sẻ tài liệu: Bài 3. Các quốc gia cổ đại phương Đông thuộc Lịch sử 10
Nội dung tài liệu:
VĂN HOÁ
CỔ ĐẠI PHƯƠNG ĐÔNG
Lịch pháp và thiên văn học
Chữ viết
Toán học
Kiến trúc
Trường: THPT ĐAKRÔNG
Lớp: 10B1
Nhóm thực hiện: TỔ 2
Năm học: 2016- 2017
1.Lịch pháp và thiên văn học
Nguyên nhân ra đời : Do nhu cầu sản xuất nông nghiệp, cần biết thời tiết để cày cấy đúng thời vụ.
Thành tựu:
Cư dân cổ phương Đông đã biết sự chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Từ đó, họ sáng tạo ra lịch, gọi là nông lịch.
- Theo đó, một năm có 365 ngày được chia thành 12 tháng.
- Chu kì thời gian được tính bằng năm, tháng, tuần, ngày.
-Năm được chia thành mùa: mùa mưa là mùa nước lên, mùa khô là mùa nước xuống, mùa gieo trồng đất bãi.
Thời đó, con người còn biết đo thời gian bằng ánh sáng Mặt Trời và tính được mỗi ngày có 24 giờ.
Nguyên nhân ra đời : Do nhu cầu sản xuất nông nghiệp, cần biết thời tiết để cày cấy đúng thời vụ.
Thành tựu:
Cư dân cổ phương Đông đã biết sự chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Từ đó, họ sáng tạo ra lịch, gọi là nông lịch.
- Theo đó, một năm có 365 ngày được chia thành 12 tháng.
- Chu kì thời gian được tính bằng năm, tháng, tuần, ngày.
-Năm được chia thành mùa: mùa mưa là mùa nước lên, mùa khô là mùa nước xuống, mùa gieo trồng đất bãi.
Thời đó, con người còn biết đo thời gian bằng ánh sáng Mặt Trời và tính được mỗi ngày có 24 giờ.
Nguyên nhân ra đời
Do nhu cầu ghi chép và lưu giữ. Chữ viết đầu tiên xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng Hà vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN.
Thành tựu
Chữ viết đầu tiên là chữ tượng hình. Đó là hình vẽ những gì muốn nói, về sau sáng tạo thêm những kí hiệu để biểu hiện khái niệm trừu tượng.
Sau này, người ta cách điệu hóa chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo qui ước để phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý.
2.CHỮ VIẾT
Phương tiện ghi chép
Người Ai Cập làm giấy bằng vỏ cây papirút.
Người Sume ở Lưỡng Hà dùng một loại cây sậy vót nhọn làm bút viết lên những tấm đất sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô.
Người Trung Quốc lúc đầu khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên lụa.
Ý nghĩa: Chữ viết là một phát minh lớn của loài người.
Chữ tượng hình Lưỡng Hà
? : M?t tr?i
?: Nu?c
Ruộng
Núi
Cây
Rừng
Chữ tượng ý của người Trung Quốc
Chữ viết đầu tiên của người Trung Quốc là chữ giáp cốt (chữ khắc trên mai rùa, xương thú).
Chữ viết trên thẻ tre
- Chữ “Giáp cốt” Vào đời nhà Thương (TK XVII TCN), các quan “Vu sứ” chuyên làm nhiệm vụ bói toán đã lấy mai rùa, xương thú mài thật nhẵn bóng đem thui trong lửa rồi xem các vết nứt nẻ để đoán điều tốt xấu, lành dữ và sau khắc chữ lên mai rùa, xương thú để ghi lại kết quả bói toán hầu xem sự ứng nghiệm về sau. Dần dần, người đời Thương dùng chữ “giáp cốt”này để ghi các văn bản, cất trong hầm kín làm tài liệu lưu trữ. Chữ “giáp cốt” có hơn 3000 chữ đơn, được xem là thứ chữ viết xưa nhất của người Trung Quốc.
Miệng
Giỏ
Chân
Tay
Rắn lục
Chữ tượng hình Ai Cập (chữ CLÉOPATRA)
Cây papyrus
Giấy papyrus
3.TOÁN HỌC
Nguyên nhân ra đời: Do nhu cầu tính toán lại diện tích ruộng đất sau khi ngập nước, tính toán trong xây dựng…
Thành tựu: Biết chữ số từ 1 đến 1 triệu bằng những kí hiệu đơn giản.
Người Ai Cập cổ đại rất giỏi về hình học. Họ tính được số Pi = 3,16, tính được diện tích hình tròn, hình tam giác, thể tích hình cầu…
Người Lưỡng Hà giỏi số học, họ có thể làm các phép cộng, trừ, nhân, chia cho tới 1 triệu.
Người Ấn Độ phát minh ra số 0 và hệ chữ số mà hiện nay chúng ta đang dùng và quen gọi là số Ả Rập.
Ý nghĩa: Những hiểu biết về toán học của người xưa để lại nhiều kinh nghiệm quí, chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở thời sau.
Toán học
1 2 3 10 100 1000
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Kí hiệu toán học cổ đại
CÁCH VIẾT SỐ CỦA NGƯỜI AI CẬP CỔ ĐẠI
Kí hiệu toán học Ai Cập
4.KIẾN TRÚC
Thành tựu: Nghệ thuật kiến trúc phát triển phong phú, nhiều di tích cách đây hàng ngàn năm còn lưu lại như Kim tự tháp ở Ai Cập, những khu đền tháp ở Ấn Độ, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà…
Ý nghĩa: Những công trình kiến trúc cổ xưa là những kì tích về sức lao động và tài năng sáng tạo của con người.
KIM TỰ THÁP KÊ-ỐP
Kim Tự Tháp này được Pha-ra-ông Kê-ốp xây dựng vào khoảng năm 2560 tr.CN .Đáy hình vuông, mỗi cạnh dài 230m (sai số chỉ 0,1%).Cao: 146,6m - công trình cao nhất thế giới trong khoảng 43 thế kỷ. Độ nghiêng mặt bên: 51,5 độ.Bốn mặt của Kim Tự Tháp nhìn về 4 hướng: chính bắc, chính nam, chính đông và chính tây.
Để hoàn thành được Kim Tự Tháp Kê ốp, người ta đã phải sử dụng 2,6 triệu tảng đá được mài nhẵn, mỗi viên nặng trung bình 2,5 tấn (viên nhẹ nhất 2 tấn). Tổng khối lượng của Kim Tự Tháp Cheops vào khoảng 6,5 triệu tấn
Những người này chỉ phải xây dựng Kim Tự Tháp 3 tháng trong năm (mùa lũ của sông Nile) và kéo dài trong vòng 20 năm..)
Như Các Mác từng nói, Kim Tự Tháp là “kết quả vĩ đại” sinh ra từ những “hợp tác giản đơn”. “Bất cứ thứ gì cũng sợ thời gian, nhưng thời gian lại sợ Kim Tự Tháp”
KIẾN TRÚC KIM TỰ THÁP AI CẬP
Sử dụng những thanh gỗ tròn để kéo đá từ nơi khác đến xây dựng Kim tự tháp
Te-bơ nổi tiếng với các mộ chôn các Pha-ra-ông, trị vì vào những năm 1530-1085 TCN.
Đây là một phần bức tranh khắc trên tường hầm mộ diễn tả cảnh sinh hoạt trong cung
(Hình 2 - trang 14)
Quách vàng tạc hình vua Ai Cập Tu-tan-kha-môn (1361-1352 TCN).
Pha-ra-ông có nghĩa là “cái nhà lớn” có vị trí cao nhất, được quyền giữ xác vĩnh viễn tồn tại để cho linh hồn “Ka” cùng sống mãi. (Hình 3 – trang 16)
Người Ai Cập cổ coi kim tự tháp là nơi yên nghỉ cuối cùng của các hoàng đế. Họ tin rằng kim tự tháp là nơi mà các vị hoàng đế tiếp tục một cuộc sống mới sau cái chết
THÁP MỘ (STUPA)-TRỤ ĐÁ-CHÙA HANG A-GIAN TA Ở ẤN ĐỘ
Vườn treo babilon
Cổng thành Babilon
Cổng thành Ishtar – Babylon, nằm ở phía bắc của thành nội (Ishtar vốn là tên của nữ thần chiến tranh và thắng lợi) cao 12m, được xây bằng những viên gạch lưu li màu với những chạm khắc nổi hình thú vật như: bò rừng, rồng…
CỔNG I-SƠ-TA THÀNH BA-BI-LON
Chi tiết cổng thành Ba-bi-lon
Vạn Lý Trường Thành được xây từ năm 221 TCN khi nhà Tần thống nhất đất nước, và kết thúc vào thời nhà Minh, khoảng giữa năm 1368-1644. Bức tường thành trải dài trên 6 tỉnh từ đông sang tây, băng qua nhiều vùng sa mạc, đồng cỏ, núi non và uốn khúc như một con rồng có chiều dài tới 8.851 km.
Sơn Hải Quan
cánh cổng mở ra triều đại nhà Thanh
Cổng thành Trấn Đông Môn
của Sơn Hải Quan
Gia Dục Quan
Pháo đài đồ sộ xây từ 99.999 viên gạch
LĂNG MỘ TẦN THỦY HOÀNG NĂM 221 TCN
CỔ ĐẠI PHƯƠNG ĐÔNG
Lịch pháp và thiên văn học
Chữ viết
Toán học
Kiến trúc
Trường: THPT ĐAKRÔNG
Lớp: 10B1
Nhóm thực hiện: TỔ 2
Năm học: 2016- 2017
1.Lịch pháp và thiên văn học
Nguyên nhân ra đời : Do nhu cầu sản xuất nông nghiệp, cần biết thời tiết để cày cấy đúng thời vụ.
Thành tựu:
Cư dân cổ phương Đông đã biết sự chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Từ đó, họ sáng tạo ra lịch, gọi là nông lịch.
- Theo đó, một năm có 365 ngày được chia thành 12 tháng.
- Chu kì thời gian được tính bằng năm, tháng, tuần, ngày.
-Năm được chia thành mùa: mùa mưa là mùa nước lên, mùa khô là mùa nước xuống, mùa gieo trồng đất bãi.
Thời đó, con người còn biết đo thời gian bằng ánh sáng Mặt Trời và tính được mỗi ngày có 24 giờ.
Nguyên nhân ra đời : Do nhu cầu sản xuất nông nghiệp, cần biết thời tiết để cày cấy đúng thời vụ.
Thành tựu:
Cư dân cổ phương Đông đã biết sự chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Từ đó, họ sáng tạo ra lịch, gọi là nông lịch.
- Theo đó, một năm có 365 ngày được chia thành 12 tháng.
- Chu kì thời gian được tính bằng năm, tháng, tuần, ngày.
-Năm được chia thành mùa: mùa mưa là mùa nước lên, mùa khô là mùa nước xuống, mùa gieo trồng đất bãi.
Thời đó, con người còn biết đo thời gian bằng ánh sáng Mặt Trời và tính được mỗi ngày có 24 giờ.
Nguyên nhân ra đời
Do nhu cầu ghi chép và lưu giữ. Chữ viết đầu tiên xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng Hà vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN.
Thành tựu
Chữ viết đầu tiên là chữ tượng hình. Đó là hình vẽ những gì muốn nói, về sau sáng tạo thêm những kí hiệu để biểu hiện khái niệm trừu tượng.
Sau này, người ta cách điệu hóa chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo qui ước để phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý.
2.CHỮ VIẾT
Phương tiện ghi chép
Người Ai Cập làm giấy bằng vỏ cây papirút.
Người Sume ở Lưỡng Hà dùng một loại cây sậy vót nhọn làm bút viết lên những tấm đất sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô.
Người Trung Quốc lúc đầu khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên lụa.
Ý nghĩa: Chữ viết là một phát minh lớn của loài người.
Chữ tượng hình Lưỡng Hà
? : M?t tr?i
?: Nu?c
Ruộng
Núi
Cây
Rừng
Chữ tượng ý của người Trung Quốc
Chữ viết đầu tiên của người Trung Quốc là chữ giáp cốt (chữ khắc trên mai rùa, xương thú).
Chữ viết trên thẻ tre
- Chữ “Giáp cốt” Vào đời nhà Thương (TK XVII TCN), các quan “Vu sứ” chuyên làm nhiệm vụ bói toán đã lấy mai rùa, xương thú mài thật nhẵn bóng đem thui trong lửa rồi xem các vết nứt nẻ để đoán điều tốt xấu, lành dữ và sau khắc chữ lên mai rùa, xương thú để ghi lại kết quả bói toán hầu xem sự ứng nghiệm về sau. Dần dần, người đời Thương dùng chữ “giáp cốt”này để ghi các văn bản, cất trong hầm kín làm tài liệu lưu trữ. Chữ “giáp cốt” có hơn 3000 chữ đơn, được xem là thứ chữ viết xưa nhất của người Trung Quốc.
Miệng
Giỏ
Chân
Tay
Rắn lục
Chữ tượng hình Ai Cập (chữ CLÉOPATRA)
Cây papyrus
Giấy papyrus
3.TOÁN HỌC
Nguyên nhân ra đời: Do nhu cầu tính toán lại diện tích ruộng đất sau khi ngập nước, tính toán trong xây dựng…
Thành tựu: Biết chữ số từ 1 đến 1 triệu bằng những kí hiệu đơn giản.
Người Ai Cập cổ đại rất giỏi về hình học. Họ tính được số Pi = 3,16, tính được diện tích hình tròn, hình tam giác, thể tích hình cầu…
Người Lưỡng Hà giỏi số học, họ có thể làm các phép cộng, trừ, nhân, chia cho tới 1 triệu.
Người Ấn Độ phát minh ra số 0 và hệ chữ số mà hiện nay chúng ta đang dùng và quen gọi là số Ả Rập.
Ý nghĩa: Những hiểu biết về toán học của người xưa để lại nhiều kinh nghiệm quí, chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở thời sau.
Toán học
1 2 3 10 100 1000
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Kí hiệu toán học cổ đại
CÁCH VIẾT SỐ CỦA NGƯỜI AI CẬP CỔ ĐẠI
Kí hiệu toán học Ai Cập
4.KIẾN TRÚC
Thành tựu: Nghệ thuật kiến trúc phát triển phong phú, nhiều di tích cách đây hàng ngàn năm còn lưu lại như Kim tự tháp ở Ai Cập, những khu đền tháp ở Ấn Độ, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà…
Ý nghĩa: Những công trình kiến trúc cổ xưa là những kì tích về sức lao động và tài năng sáng tạo của con người.
KIM TỰ THÁP KÊ-ỐP
Kim Tự Tháp này được Pha-ra-ông Kê-ốp xây dựng vào khoảng năm 2560 tr.CN .Đáy hình vuông, mỗi cạnh dài 230m (sai số chỉ 0,1%).Cao: 146,6m - công trình cao nhất thế giới trong khoảng 43 thế kỷ. Độ nghiêng mặt bên: 51,5 độ.Bốn mặt của Kim Tự Tháp nhìn về 4 hướng: chính bắc, chính nam, chính đông và chính tây.
Để hoàn thành được Kim Tự Tháp Kê ốp, người ta đã phải sử dụng 2,6 triệu tảng đá được mài nhẵn, mỗi viên nặng trung bình 2,5 tấn (viên nhẹ nhất 2 tấn). Tổng khối lượng của Kim Tự Tháp Cheops vào khoảng 6,5 triệu tấn
Những người này chỉ phải xây dựng Kim Tự Tháp 3 tháng trong năm (mùa lũ của sông Nile) và kéo dài trong vòng 20 năm..)
Như Các Mác từng nói, Kim Tự Tháp là “kết quả vĩ đại” sinh ra từ những “hợp tác giản đơn”. “Bất cứ thứ gì cũng sợ thời gian, nhưng thời gian lại sợ Kim Tự Tháp”
KIẾN TRÚC KIM TỰ THÁP AI CẬP
Sử dụng những thanh gỗ tròn để kéo đá từ nơi khác đến xây dựng Kim tự tháp
Te-bơ nổi tiếng với các mộ chôn các Pha-ra-ông, trị vì vào những năm 1530-1085 TCN.
Đây là một phần bức tranh khắc trên tường hầm mộ diễn tả cảnh sinh hoạt trong cung
(Hình 2 - trang 14)
Quách vàng tạc hình vua Ai Cập Tu-tan-kha-môn (1361-1352 TCN).
Pha-ra-ông có nghĩa là “cái nhà lớn” có vị trí cao nhất, được quyền giữ xác vĩnh viễn tồn tại để cho linh hồn “Ka” cùng sống mãi. (Hình 3 – trang 16)
Người Ai Cập cổ coi kim tự tháp là nơi yên nghỉ cuối cùng của các hoàng đế. Họ tin rằng kim tự tháp là nơi mà các vị hoàng đế tiếp tục một cuộc sống mới sau cái chết
THÁP MỘ (STUPA)-TRỤ ĐÁ-CHÙA HANG A-GIAN TA Ở ẤN ĐỘ
Vườn treo babilon
Cổng thành Babilon
Cổng thành Ishtar – Babylon, nằm ở phía bắc của thành nội (Ishtar vốn là tên của nữ thần chiến tranh và thắng lợi) cao 12m, được xây bằng những viên gạch lưu li màu với những chạm khắc nổi hình thú vật như: bò rừng, rồng…
CỔNG I-SƠ-TA THÀNH BA-BI-LON
Chi tiết cổng thành Ba-bi-lon
Vạn Lý Trường Thành được xây từ năm 221 TCN khi nhà Tần thống nhất đất nước, và kết thúc vào thời nhà Minh, khoảng giữa năm 1368-1644. Bức tường thành trải dài trên 6 tỉnh từ đông sang tây, băng qua nhiều vùng sa mạc, đồng cỏ, núi non và uốn khúc như một con rồng có chiều dài tới 8.851 km.
Sơn Hải Quan
cánh cổng mở ra triều đại nhà Thanh
Cổng thành Trấn Đông Môn
của Sơn Hải Quan
Gia Dục Quan
Pháo đài đồ sộ xây từ 99.999 viên gạch
LĂNG MỘ TẦN THỦY HOÀNG NĂM 221 TCN
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Duơng Khánh Ngọc
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)