Bài 28. Trào lưu cải cách duy tân ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX
Chia sẻ bởi Hà Văn Tuân |
Ngày 10/05/2019 |
117
Chia sẻ tài liệu: Bài 28. Trào lưu cải cách duy tân ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX thuộc Lịch sử 8
Nội dung tài liệu:
A
B
Hãy nối thời gian ở cột A với sự kiện tương ứng ở cột B
Lược đồ Phong trào nông dân khởi nghĩa nửa cuối thế kỷ XIX
Khởi nghĩa nông dân ở Bắc Ninh do Nguyễn Thịnh (Cai tổng Vàng) lãnh đạo năm 1862.
Cuộc nổi dậy của đồng bào Thổ ở Tuyên Quang do Nông Hùng Thạc chỉ huy tháng 9/1862.
Nhóm thổ phỉ Lý Đại Xương, Hoàng Nhị Văn, Lưu Sĩ Anh… hoành hành phía bắc Thái Nguyên.
Khởi nghĩa của binh lính và dân phu do Đoàn Trưng, Đoàn Trực lãnh đạo ở Huế năm 1866.
Những sĩ phu, quan lại, cơ quan và những nội dung chính trong các đề nghị cải cách của họ.
1868
Trần Đình Túc
Nguyễn Huy Tế
Xin mở cửa biển Trà Lý (Nam Định)
Đinh Văn Điền
Xin đẩy mạnh việc khai khẩn ruông hoang, khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
1872
Viện Thương Bạc
(cơ quan ngọai giao)
Xin mở ba cửa biển ở miền Bắc và miền Trung để thông thương với bên ngoài.
1863-1871
Nguyễn Trường Tộ
Gửi lên triều đình 30 bản điều trần: chấn chỉnh bộ máy quan lại, phát triển công, thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục...
1877-1882
Nguyễn Lộ Trạch
Dâng 2 bản “Thời vụ sách”, đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.
Ngôi mộ của Nguyễn Trường Tộ tại thôn Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Yên, tỉnh Nghệ An, được xây dựng từ năm 1943
Từ năm 1863 đến năm 1871, Nguyễn Trường Tộ viết hàng loạt điều trần, luận văn, tờ bẩm, trình nhiều kiến nghị có tầm chiến lược nhằm canh tân đất nước, tạo thế vươn lên cho dân tộc để giữ nền độc lập một cách khôn khéo mà vững chắc.
Ông mất ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ 24, tức 23 tháng 11 năm 1871.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Trường Tộ Sinh năm 1828, ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Gia tô, học thông tứ thư ngũ kinh của Nho giáo. Năm 27 tuổi, ông được giám mục người Pháp đưa vào chủng viện Tân ấp thuộc xứ đạo Xã Đoài để dạy chữ Hán cho giám mục, và được giám mục dạy lại cho chữ Pháp cũng như kiến thức khoa học châu Âu. Năm 1858, giám mục người Pháp đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp để tạo điều kiện học tập, nâng cao kiến thức nhiều mặt.
Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Tổ quốc.
NGUYỄN LỘ TRẠCH
Nhà chiến lược cách tân cuối thế kỷ 19. Quê ở làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, thân phụ là Tiến sĩ giữ chức Tổng đốc hàm Thượng thư, nhạc phụ là Tiến sĩ Phụ chính Đại thần. Ông học rộng biết nhiều, ghét lối từ chương nên không đi thi, chỉ chú tâm vào con đường thực dụng. Ông thường giao du với những người có tư tưởng tiến bộ, chấp nhận cái mới, chịu ảnh hưởng chính trị của tân thư và của Nguyễn Trường Tộ.
Năm 1877, ông dâng một bản Thời vụ sách nêu lên những yêu cầu bức thiết của nước nhà. Năm 1882, ông lại dâng bản Thời vụ sách 2 gồm 5 điều cốt yếu để bảo vệ đất nước, trong đó có điểm dời đô về Thanh Hóa lấy chỗ hiểm yếu để giữ vững gốc nước. Triều đình Tự Đức vẫn không chấp nhận những ý kiến gan ruột của ông. Năm 1892 triều Thành Thái, Ông lại dâng lên bản Thiên hạ đại thế luận (Bàn chuyện lớn trong thiên hạ), nhưng vẫn bị bỏ qua. Tuy vậy bản Thiên hạ đại thế luận lại được sĩ phu và những người có tư tưởng cách tân nhiệt liệt hưởng ứng, bái phục tài năng xuất chúng của ông. Nguyễn Lộ Trạch được xem là nhà cách tân đất nước tiêu biểu của thế kỷ XIX. Ông mất ở tuổi 45 tại tỉnh Bình Định.
Những sĩ phu, quan lại, cơ quan và những nội dung chính trong các đề nghị cải cách của họ.
B
Hãy nối thời gian ở cột A với sự kiện tương ứng ở cột B
Lược đồ Phong trào nông dân khởi nghĩa nửa cuối thế kỷ XIX
Khởi nghĩa nông dân ở Bắc Ninh do Nguyễn Thịnh (Cai tổng Vàng) lãnh đạo năm 1862.
Cuộc nổi dậy của đồng bào Thổ ở Tuyên Quang do Nông Hùng Thạc chỉ huy tháng 9/1862.
Nhóm thổ phỉ Lý Đại Xương, Hoàng Nhị Văn, Lưu Sĩ Anh… hoành hành phía bắc Thái Nguyên.
Khởi nghĩa của binh lính và dân phu do Đoàn Trưng, Đoàn Trực lãnh đạo ở Huế năm 1866.
Những sĩ phu, quan lại, cơ quan và những nội dung chính trong các đề nghị cải cách của họ.
1868
Trần Đình Túc
Nguyễn Huy Tế
Xin mở cửa biển Trà Lý (Nam Định)
Đinh Văn Điền
Xin đẩy mạnh việc khai khẩn ruông hoang, khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
1872
Viện Thương Bạc
(cơ quan ngọai giao)
Xin mở ba cửa biển ở miền Bắc và miền Trung để thông thương với bên ngoài.
1863-1871
Nguyễn Trường Tộ
Gửi lên triều đình 30 bản điều trần: chấn chỉnh bộ máy quan lại, phát triển công, thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục...
1877-1882
Nguyễn Lộ Trạch
Dâng 2 bản “Thời vụ sách”, đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.
Ngôi mộ của Nguyễn Trường Tộ tại thôn Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Yên, tỉnh Nghệ An, được xây dựng từ năm 1943
Từ năm 1863 đến năm 1871, Nguyễn Trường Tộ viết hàng loạt điều trần, luận văn, tờ bẩm, trình nhiều kiến nghị có tầm chiến lược nhằm canh tân đất nước, tạo thế vươn lên cho dân tộc để giữ nền độc lập một cách khôn khéo mà vững chắc.
Ông mất ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ 24, tức 23 tháng 11 năm 1871.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Trường Tộ Sinh năm 1828, ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Gia tô, học thông tứ thư ngũ kinh của Nho giáo. Năm 27 tuổi, ông được giám mục người Pháp đưa vào chủng viện Tân ấp thuộc xứ đạo Xã Đoài để dạy chữ Hán cho giám mục, và được giám mục dạy lại cho chữ Pháp cũng như kiến thức khoa học châu Âu. Năm 1858, giám mục người Pháp đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp để tạo điều kiện học tập, nâng cao kiến thức nhiều mặt.
Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Tổ quốc.
NGUYỄN LỘ TRẠCH
Nhà chiến lược cách tân cuối thế kỷ 19. Quê ở làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, thân phụ là Tiến sĩ giữ chức Tổng đốc hàm Thượng thư, nhạc phụ là Tiến sĩ Phụ chính Đại thần. Ông học rộng biết nhiều, ghét lối từ chương nên không đi thi, chỉ chú tâm vào con đường thực dụng. Ông thường giao du với những người có tư tưởng tiến bộ, chấp nhận cái mới, chịu ảnh hưởng chính trị của tân thư và của Nguyễn Trường Tộ.
Năm 1877, ông dâng một bản Thời vụ sách nêu lên những yêu cầu bức thiết của nước nhà. Năm 1882, ông lại dâng bản Thời vụ sách 2 gồm 5 điều cốt yếu để bảo vệ đất nước, trong đó có điểm dời đô về Thanh Hóa lấy chỗ hiểm yếu để giữ vững gốc nước. Triều đình Tự Đức vẫn không chấp nhận những ý kiến gan ruột của ông. Năm 1892 triều Thành Thái, Ông lại dâng lên bản Thiên hạ đại thế luận (Bàn chuyện lớn trong thiên hạ), nhưng vẫn bị bỏ qua. Tuy vậy bản Thiên hạ đại thế luận lại được sĩ phu và những người có tư tưởng cách tân nhiệt liệt hưởng ứng, bái phục tài năng xuất chúng của ông. Nguyễn Lộ Trạch được xem là nhà cách tân đất nước tiêu biểu của thế kỷ XIX. Ông mất ở tuổi 45 tại tỉnh Bình Định.
Những sĩ phu, quan lại, cơ quan và những nội dung chính trong các đề nghị cải cách của họ.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hà Văn Tuân
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)