Bài 21. Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỷ XVI-XVIII
Chia sẻ bởi Lương Toàn Hoàng Long |
Ngày 10/05/2019 |
48
Chia sẻ tài liệu: Bài 21. Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỷ XVI-XVIII thuộc Lịch sử 10
Nội dung tài liệu:
VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN THẾ KỈ XVIII
Thành viên trong nhóm:
Đầu thế kỉ VXI, triều Lê suy sụp, các vua không còn quan tâm đến việc triều chính, quan lại địa chủ hoành hành, chiếm đoạt ruộng đất, các thế lực phong kiến tranh giành quyền lực.
Nổi trội hơn cả là Quốc công Thái phó Mạc Đăng Dung.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung bắt vua Lê nhường ngôi, lập ra triều đại mới – triều Mạc.
Mặc dù nhà Mạc những năm đầu cũng thi hành nhiều chính sách nhằm ổn định đất nước, nhưng chỉ một thời gian sau, triều đình nhà Mạc suy thoái dần.
Trong hoàn cảnh đó, trước lời phao tin của nhà Minh, nhà Mạc đã chấp nhận thuần phục nhà Minh.
Vương triều nhà Mạc không còn được sự tin tưởng của nhân dân nữa.
Điều đó góp phần vào sự sụp đổ của triều Mạc.
TÌNH HÌNH CHUNG
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
THÀNH NHÀ MẠC Ở LẠNG SƠN
ĐẤT NƯỚC BỊ CHIA CẮT
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Do không chấp nhận chính quyền nhà Mạc, một số quan lại cũ nhà Lê, đứng đầu là Nguyễn Kim, đã xây dựng một chính quyền mới, sử cũ gọi là Nam triều.
Chiến tranh Nam Bắc triều bùng nỗ.
Đến cuối thế kỉ XVI, nhà Mạc sụp đổ.
Đất nước được thống nhất không bao lâu, đến năm 1627, chiến tranh Trịnh-Nguyễn bùng nổ, kéo dài gần 50 năm
Đất nước bị chia cắt kéo dài đến cuối thế kỉ XIX
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
ĐÀNG NGOÀI
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Cuối thế kỉ XIX, nhà nước phong kiến phương Nam chuyển về Thăng Long, mặc dù do vua Lê đứng đầu nhưng quyền lực không nằm trong tay vua mà nằm trong tay tổng chỉ huy quân đội họ Trịnh.
Chính quyền Trung ương gồm hai bộ phận:
1. Triều dình đứng đầu là vua Lê
2. Phủ chúa gồm các quan văn. Quan võ và 6 phiên chỉ đạo các bộ.
Đàng Ngoài có 12 quận, đứng đầu là các Trấn thủ. Các cấp thấp hơn có phủ, huyện, châu, xã
Quân đội gồm:
1. Đội quân thường trực, được cấp nhiều ruộng đất và có nhiều ưu đãi nên còn được gọi là ưu binh
2. Ngoại binh được tuyển từ 4 trấn xung quanh
Quan lại không còn được cấp ruộng đất, nhà nước đặt ra lệ cho dân nộp tiền để được làm quan.
Về ngoại giao, ban đầu cho nhà Thanh xâm lấn một số vùng, sau thương lượng buộc họ phải trải lại một số vùng.
Bộ luật Quốc triều hình kuật tiếp tục được sử dụng
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
SƠ
ĐỒ
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
ĐÀNG TRONG
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Thế kỉ XVII, sau khi kết thúc chiến tranh Trịnh-Nguyễn, lãnh thổ Đàng Trong từng bước mở rộng vào phía Nam.
Đất nước chia thành 12 dinh, mỗi dinh có 2 đến 3 ti trông coi mọi việc.
Đến thế kỉ XVII, Phú Xuân (Huế) trở thành trung tâm của Đàng Trong.
Quân đội Đàng Trong là quân thường trực, trang bị vũ khí theo kiểu phương Tây.
Năm 1744, chúa Nguyễn xưng vương, đổi 3 ti thành 6 bộ, đặt thêm các chưa quan. Tuy nhiên cho đến cuối thế kỉ XVIII, triều đình Đàng Trong vẫn chưa hoàn chỉnh.
Tương tự như triều đình Đàng Ngoài, từ giữa thế kỉ XVIII, chính quyền Đàng Trong lâm vào tình trạng khủng hoảng.
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
SƠ
ĐỒ
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
Cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay tầng lớp thốnhg trị. Nhà nước không quan tâm đến sản xuất, cuộc sống nhân dân. Mất mùa, đói kém, khởi nghĩa nông dân nổ ra.
Nông nghiệp bị tàn phá đến cuối thế kỉ XVII mới dần ổn định.
Ở Đàng Ngoài, Đàng Trong nhân dân khai hoang ruộng đất làm cho diện tích đất tăng lên. Kinh nghiệm “nước, phân, cần, giống” được đúc kết.
Đặc biệt ở Nam Bộ do có điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất phát triển phục vụ thị trường, nâng cao đời sống người dân.
Nghề trồng vườn được phát triển với nhiều giống cây ăn quả.
Đây cũng chính là lúc ruộng đất tập trung vào tay địa chủ phong kiến.
NÔNG NGHIỆP
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
THỦ CÔNG NGHIỆP
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Các nghề thủ công nghiệp trong nhân dân như: làm gốm sứ, dệt, rèn sắt,… ngày càng phát triển với trình độ cao.
Bên cạnh đó, bắt đầu xuất hiện những ngành thủ công nghiệp mới như nghề khắc in bản gỗ, làm tranh sơn mài,…
Số làng nghề cũng tăng. Tại các làng nghề, cư dân vẫn làm ruộng nhưng những thợ giỏi nhất tập trung ra những đô thị, lập các phường, vừa sản xuất vừa bán hàng.
Ngành khai mỏ cũng phát triển trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở Đàng Ngoài. Một số người Hoa và người Việt giàu xin thầu, lượng kim loại bán ra thị trường hoặc phục vụ nhà nước với số lượng ngày càng lớn.
Nhiều nơi xuất hiện những làng buôn và trung tâm buôn bán lớn của vùng. Nhà nước lập các trạm thu thuế, buôn bán giữa miền ngược và miền xuôi tấp nập.
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
CẶP CHÂN ĐÈN GỐM HOA ĐẦU THẾ KỈ XVII
Lư hương gốm Bát Tràng ( sản xuất năm 1590)
BÌNH GỐM BÁT TRÀNG (SẢN XUẤT NĂM 1627)
NGOẠI THƯƠNG
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Do sự phát triển của giao lưu buôn bán trên thế giới và chính sách mở cửa của các chúa Trịnh, Nguyễn nên ngoại thương nhanh chóng phát triển.
Các thương nhân Trung Hoa, Nhật Bản, Xiêm, Gia-va, Bồ Đào Nhà, Hà Lan, Anh, Pháp đã đem vũ khí, thuốc súng, len, … để đổi lấy tơ lụa, đường, gốm, nông sản,…
Ngoại thương phát triển rầm rộ trong một thời gian, rồi vì nhiều lí do chẳng hạn như thuế khoá phức tạp, quan lại khám xét phiền phức, mua ít khi trả ngay,… đã làm cho ngoại thương suy yếu dần.
CÁC ĐÔ THỊ
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Kinh tế hàng hoá phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và hưng khởi của các đô thị.
Trong các thế kỉ XVI – XVIII, hàng loạt các đô thị ở miền Bắc, miền Nam ra đời: Kinh Kì, Phố Hiến, Kẻ Chợ, Hội An,…
Vào đầu thế kỉ XIX, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các đô thị suy tàn dần, thậm chí không còn được nhắc đến, trừ Thăng Long
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
THƯƠNG CẢNG HỘI AN (TRANH VẼ CUỐI THẾ KỈ XVIII)
CẢNH THĂNG LONG THẾ KỈ XVII
PHỐ CỔ HỘI AN
HỘI AN NGÀY NAY
PHONG TRÀO TÂY SƠN
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
Giữa thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Ngoài khủng hoảng sâu sắc. Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn thành lập triều đình riêng, nhưng rồi suy thoái, nhân dân cực khổ.
Năm 1771, một cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra ở ấp Tây Sơn do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo.
Sau nhiều năm, khởi nghĩa đánh đổ dược chính quyền chúa Nguyễn, làm chủ phần đất từ Quảng Nam trở vào.
Trong những năm 1786 – 1788, khởng nghĩa đánh đổ 2 tập đoàn phong kiến Trịnh, Lê.
Đất nước bước đầu dược thống nhất.
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
QUANG
TRUNG
NGUYỄN HUỆ
Tây Sơn làm chủ
Đàng Ngoài
Đàng Trong
Khởi nghĩa Tây Sơn
GHI CHÚ
LƯỢC ĐỒ PHONG TRÀO TÂY SƠN
Tây Sơn
KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN XIÊM (1785)
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
Đầu những năm 80 thế kỉ XVIII, một người cháu củng chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh đã sang Xiêm cầu cứu sau khi chính quyền chúa Nguyễn bị lật đổ.
5 vạn quân Xiêm tiến vào nước ta, chiếm được một nửa đất Gia Định, chúng ra sức cướp phá, chuẩn bị tấn công Tây Sơn.
Năm 1785, Nguyễn Huệ tổ chức trận Rạch Gầm-Xoài Mút, được sự ủng hộ của nhân dân, đánh tan quân xâm lược.
Nguyễn Ánh theo cánh tàn quân chạy thoát.
Miền Nam trở lại yên bình.
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN THANH (1789)
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
Sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại, vua Lê Chiêu Thống cử người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh.
Năm 1788, vua Thanh sai tướng đem 29 vạn quân và dân công tiến sang xâm lược nước ta, với danh nghĩa giúp nhà Lê đánh quân Tây Sơn giành lại chính quyền.
Chiếm được Thăng Long, Lê Chiêu Thống trở lại ngôi vua, bắt nhân dân đóng góp phục vụ quân xâm lược làm cho cảnh cướp bóc, hoành hành xảy ra khắp nơi.
Sau khi được cấp báo, Nguyễn Huệ quyết định làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, chỉ huy quân tiến ra bắc.
Đúng vào đêm 30 Tết (25/1/1789), quân ta được lệnh tấn công.
Sau 5 ngày, quân ta chiếm được Ngọc Hồi - Đống Đa, tiến vào Thăng Long, đánh bại hoàn toàn quân xâm lược.
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
NGỌC HỒI
Văn Điển
ĐẦM MỰC
ĐỐNG ĐA
THĂNG LONG
Đô đốc Long
Đô Đốc Bảo
Quang Trung
TÂY LONG
Quân Tây Sơn tập kết
Quâ nTây Sơn tấn công
Q Tây Sơn chặn đánh
Đại bản doanh địch
Đồn địch bị tiêu diệt
Cầu phao
Q.Thanh rút chạy
VƯƠNG TRIỀU
TÂY SƠN
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
Sau chiến thắng quân Thanh, Quang Trung Nguyễn Huệ chính thức xây dựng vương triều mới theo chế độ quân chủ chuyên chế, thống trị trên vùng đất từ Thuện Hoá trở ra Bắc.
Vua ban chiếu kêu gọi nhân dân khôi phục sản xuất, lập lại sổ hộ, tổ chức lại giáo dục thi cử.
Quân đội tổ chức qui củ và được trang bị vũ khí đầy đủ.
Về ngoại giao, vua Quang Trung đặt quan hệ hoà hảo với nhà Thanh. Quan hệ với Lào và Chân Lạp diễn ra tốt đẹp.
Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, triều đình Tây Sơn lục đục.
Năm 1802, vương triều Tây Sơn sụp đổ.
TƯ TƯỞNG, TÔN GIÁO
TÌNH HÌNH VĂN HOÁ Ở CÁC THẾ KỈ XVI – XVIII.
Nho giáo từng bước suy thoái mặc dù chính quyền Lê – Trịnh, Nguyễn ra sức củng cố.
Phật giáo, Đạo giáo khôi phục vị trí nhưng không được như thời Lý, Trần.
Từ thế kĩ XVI đến XVIII, nhiều giáo sĩ theo thuyền buôn phương Tây truyền Thiên Chúa giáo vào nước ta. Tuy nhiên về sau, do nhiều điểm khác biệt, hoạt động truyền giáo bị cấm đoá.
Thế kỉ XVII, chữ Quốc ngữ ra đời, dùng chủ yếu trong phạm vi hoạt động truyền giáo.
Các tín ngưỡng, truyền thống tốt đẹp được phát huy. Các chùa chiền, nhà thờ, đền thờ, lăng miếu được xây dựng ở nhiều nơi.
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
GIÁO
DỤC VĂN HỌC
TÌNH HÌNH VĂN HOÁ Ở CÁC THẾ KỈXVI – XVIII.
Giáo dục trong thời kì này vẫn được quan tâm, các kì thi vẫn tổ chức đều đặn như trước. Tuy nhiên, số người đi thi và đỗ đạt không nhiều.
Hình thức thi cử vẫn theo cách cũ. Mãi đến năm 1646, chúa Nguyễn mới mở khoa thi đầu tiên theo cách riêng.
Nội dung giáo dục chủ yếu vẫn là kinh sử, khoa học tự nhiên không đượ chú ý.
Về văn học, cùng với sự suy thoái của Nho giáo, từ thế kỉ XVI – XVII, văn học chữ Hán mất dần vị thế vốn có.
Chữ Nôm dần dần được sử dụng nhiều trong sáng tác văn học. Từ thế kỉ XVI – XVII, xuất hiện nhiều nhà thơ Nôm nổi tiếng.
Trong lúc văn học chính thống có phần suy thoái, văn học dân gian ngày càng phát triển rầm rộ..
Văn học dân gian phản ánh cuộc sống tinh thần và tâm linh của người dân, gồm các thể loại: ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện dân gian,… đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.
NGHỆ THUẬT
TÌNH HÌNH VĂN HOÁ Ở CÁC THẾ KỈXVI – XVIII.
Thế kỉ XVI – XVIII, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc tiếp tục phát triển với nhiều công trình có giá trị như: chù Thiên Mụ, tượng Phật Bà Quan Âm nghìn nghìn tay, tượng La Hán và các tranh vẽ chân dung.
Một trào lưu nghệ thuật mới được hình thành. Trên các vì, kèo, ở các ngôi đình làng, các nghệ nhân đã khắc lên những cảnh sinh hoạt hằng ngày.
Nghệ thuật sân khấu phát triển ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài,k phổ biến hàng loạt các làn điệu dân ca mang tính địa phương như quan họ, hát giậm, hò, vè,…
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
TOÀN CẢNH CHÙA THIÊN MỤ (HUẾ)
CHÙA KEO (THÁI BÌNH)
HÁT GIẬM
TÌNH HÌNH VĂN HOÁ Ở CÁC THẾ KỈXVI – XVIII.
Về sử học, ra đời nhiều bộ sử học của tư nhân như: Ô châu cận lục, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục,… và đặc biệt là bộ sử thi bằng chữ Nôm Thiên Nam ngữ lục.
Về địa lí có tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư.
Về quân sự có tập Hổ trướng khu cơ.
Về triết học có các tập thơ, sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quí Đôn.
Về y học có bộ sách y dược của Hải Thượng Lãn Ông
Về kĩ thuật, sáng tạo một số thành tựu như đúc súng đại bác, đóng thuyền chiến,…
CÁC LĨNH VỰC KHÁC
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
LÊ
QUÝ ĐÔN
HẢI THƯỢNG LÃN
ÔNG
Thành viên trong nhóm:
Đầu thế kỉ VXI, triều Lê suy sụp, các vua không còn quan tâm đến việc triều chính, quan lại địa chủ hoành hành, chiếm đoạt ruộng đất, các thế lực phong kiến tranh giành quyền lực.
Nổi trội hơn cả là Quốc công Thái phó Mạc Đăng Dung.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung bắt vua Lê nhường ngôi, lập ra triều đại mới – triều Mạc.
Mặc dù nhà Mạc những năm đầu cũng thi hành nhiều chính sách nhằm ổn định đất nước, nhưng chỉ một thời gian sau, triều đình nhà Mạc suy thoái dần.
Trong hoàn cảnh đó, trước lời phao tin của nhà Minh, nhà Mạc đã chấp nhận thuần phục nhà Minh.
Vương triều nhà Mạc không còn được sự tin tưởng của nhân dân nữa.
Điều đó góp phần vào sự sụp đổ của triều Mạc.
TÌNH HÌNH CHUNG
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
THÀNH NHÀ MẠC Ở LẠNG SƠN
ĐẤT NƯỚC BỊ CHIA CẮT
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Do không chấp nhận chính quyền nhà Mạc, một số quan lại cũ nhà Lê, đứng đầu là Nguyễn Kim, đã xây dựng một chính quyền mới, sử cũ gọi là Nam triều.
Chiến tranh Nam Bắc triều bùng nỗ.
Đến cuối thế kỉ XVI, nhà Mạc sụp đổ.
Đất nước được thống nhất không bao lâu, đến năm 1627, chiến tranh Trịnh-Nguyễn bùng nổ, kéo dài gần 50 năm
Đất nước bị chia cắt kéo dài đến cuối thế kỉ XIX
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
ĐÀNG NGOÀI
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Cuối thế kỉ XIX, nhà nước phong kiến phương Nam chuyển về Thăng Long, mặc dù do vua Lê đứng đầu nhưng quyền lực không nằm trong tay vua mà nằm trong tay tổng chỉ huy quân đội họ Trịnh.
Chính quyền Trung ương gồm hai bộ phận:
1. Triều dình đứng đầu là vua Lê
2. Phủ chúa gồm các quan văn. Quan võ và 6 phiên chỉ đạo các bộ.
Đàng Ngoài có 12 quận, đứng đầu là các Trấn thủ. Các cấp thấp hơn có phủ, huyện, châu, xã
Quân đội gồm:
1. Đội quân thường trực, được cấp nhiều ruộng đất và có nhiều ưu đãi nên còn được gọi là ưu binh
2. Ngoại binh được tuyển từ 4 trấn xung quanh
Quan lại không còn được cấp ruộng đất, nhà nước đặt ra lệ cho dân nộp tiền để được làm quan.
Về ngoại giao, ban đầu cho nhà Thanh xâm lấn một số vùng, sau thương lượng buộc họ phải trải lại một số vùng.
Bộ luật Quốc triều hình kuật tiếp tục được sử dụng
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
SƠ
ĐỒ
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
ĐÀNG TRONG
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Thế kỉ XVII, sau khi kết thúc chiến tranh Trịnh-Nguyễn, lãnh thổ Đàng Trong từng bước mở rộng vào phía Nam.
Đất nước chia thành 12 dinh, mỗi dinh có 2 đến 3 ti trông coi mọi việc.
Đến thế kỉ XVII, Phú Xuân (Huế) trở thành trung tâm của Đàng Trong.
Quân đội Đàng Trong là quân thường trực, trang bị vũ khí theo kiểu phương Tây.
Năm 1744, chúa Nguyễn xưng vương, đổi 3 ti thành 6 bộ, đặt thêm các chưa quan. Tuy nhiên cho đến cuối thế kỉ XVIII, triều đình Đàng Trong vẫn chưa hoàn chỉnh.
Tương tự như triều đình Đàng Ngoài, từ giữa thế kỉ XVIII, chính quyền Đàng Trong lâm vào tình trạng khủng hoảng.
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRONG CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
SƠ
ĐỒ
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
Cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay tầng lớp thốnhg trị. Nhà nước không quan tâm đến sản xuất, cuộc sống nhân dân. Mất mùa, đói kém, khởi nghĩa nông dân nổ ra.
Nông nghiệp bị tàn phá đến cuối thế kỉ XVII mới dần ổn định.
Ở Đàng Ngoài, Đàng Trong nhân dân khai hoang ruộng đất làm cho diện tích đất tăng lên. Kinh nghiệm “nước, phân, cần, giống” được đúc kết.
Đặc biệt ở Nam Bộ do có điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất phát triển phục vụ thị trường, nâng cao đời sống người dân.
Nghề trồng vườn được phát triển với nhiều giống cây ăn quả.
Đây cũng chính là lúc ruộng đất tập trung vào tay địa chủ phong kiến.
NÔNG NGHIỆP
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
THỦ CÔNG NGHIỆP
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Các nghề thủ công nghiệp trong nhân dân như: làm gốm sứ, dệt, rèn sắt,… ngày càng phát triển với trình độ cao.
Bên cạnh đó, bắt đầu xuất hiện những ngành thủ công nghiệp mới như nghề khắc in bản gỗ, làm tranh sơn mài,…
Số làng nghề cũng tăng. Tại các làng nghề, cư dân vẫn làm ruộng nhưng những thợ giỏi nhất tập trung ra những đô thị, lập các phường, vừa sản xuất vừa bán hàng.
Ngành khai mỏ cũng phát triển trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở Đàng Ngoài. Một số người Hoa và người Việt giàu xin thầu, lượng kim loại bán ra thị trường hoặc phục vụ nhà nước với số lượng ngày càng lớn.
Nhiều nơi xuất hiện những làng buôn và trung tâm buôn bán lớn của vùng. Nhà nước lập các trạm thu thuế, buôn bán giữa miền ngược và miền xuôi tấp nập.
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
CẶP CHÂN ĐÈN GỐM HOA ĐẦU THẾ KỈ XVII
Lư hương gốm Bát Tràng ( sản xuất năm 1590)
BÌNH GỐM BÁT TRÀNG (SẢN XUẤT NĂM 1627)
NGOẠI THƯƠNG
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Do sự phát triển của giao lưu buôn bán trên thế giới và chính sách mở cửa của các chúa Trịnh, Nguyễn nên ngoại thương nhanh chóng phát triển.
Các thương nhân Trung Hoa, Nhật Bản, Xiêm, Gia-va, Bồ Đào Nhà, Hà Lan, Anh, Pháp đã đem vũ khí, thuốc súng, len, … để đổi lấy tơ lụa, đường, gốm, nông sản,…
Ngoại thương phát triển rầm rộ trong một thời gian, rồi vì nhiều lí do chẳng hạn như thuế khoá phức tạp, quan lại khám xét phiền phức, mua ít khi trả ngay,… đã làm cho ngoại thương suy yếu dần.
CÁC ĐÔ THỊ
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
Kinh tế hàng hoá phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và hưng khởi của các đô thị.
Trong các thế kỉ XVI – XVIII, hàng loạt các đô thị ở miền Bắc, miền Nam ra đời: Kinh Kì, Phố Hiến, Kẻ Chợ, Hội An,…
Vào đầu thế kỉ XIX, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các đô thị suy tàn dần, thậm chí không còn được nhắc đến, trừ Thăng Long
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
THƯƠNG CẢNG HỘI AN (TRANH VẼ CUỐI THẾ KỈ XVIII)
CẢNH THĂNG LONG THẾ KỈ XVII
PHỐ CỔ HỘI AN
HỘI AN NGÀY NAY
PHONG TRÀO TÂY SƠN
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
Giữa thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Ngoài khủng hoảng sâu sắc. Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn thành lập triều đình riêng, nhưng rồi suy thoái, nhân dân cực khổ.
Năm 1771, một cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra ở ấp Tây Sơn do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo.
Sau nhiều năm, khởi nghĩa đánh đổ dược chính quyền chúa Nguyễn, làm chủ phần đất từ Quảng Nam trở vào.
Trong những năm 1786 – 1788, khởng nghĩa đánh đổ 2 tập đoàn phong kiến Trịnh, Lê.
Đất nước bước đầu dược thống nhất.
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
QUANG
TRUNG
NGUYỄN HUỆ
Tây Sơn làm chủ
Đàng Ngoài
Đàng Trong
Khởi nghĩa Tây Sơn
GHI CHÚ
LƯỢC ĐỒ PHONG TRÀO TÂY SƠN
Tây Sơn
KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN XIÊM (1785)
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
Đầu những năm 80 thế kỉ XVIII, một người cháu củng chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh đã sang Xiêm cầu cứu sau khi chính quyền chúa Nguyễn bị lật đổ.
5 vạn quân Xiêm tiến vào nước ta, chiếm được một nửa đất Gia Định, chúng ra sức cướp phá, chuẩn bị tấn công Tây Sơn.
Năm 1785, Nguyễn Huệ tổ chức trận Rạch Gầm-Xoài Mút, được sự ủng hộ của nhân dân, đánh tan quân xâm lược.
Nguyễn Ánh theo cánh tàn quân chạy thoát.
Miền Nam trở lại yên bình.
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN THANH (1789)
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
Sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại, vua Lê Chiêu Thống cử người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh.
Năm 1788, vua Thanh sai tướng đem 29 vạn quân và dân công tiến sang xâm lược nước ta, với danh nghĩa giúp nhà Lê đánh quân Tây Sơn giành lại chính quyền.
Chiếm được Thăng Long, Lê Chiêu Thống trở lại ngôi vua, bắt nhân dân đóng góp phục vụ quân xâm lược làm cho cảnh cướp bóc, hoành hành xảy ra khắp nơi.
Sau khi được cấp báo, Nguyễn Huệ quyết định làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, chỉ huy quân tiến ra bắc.
Đúng vào đêm 30 Tết (25/1/1789), quân ta được lệnh tấn công.
Sau 5 ngày, quân ta chiếm được Ngọc Hồi - Đống Đa, tiến vào Thăng Long, đánh bại hoàn toàn quân xâm lược.
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
NGỌC HỒI
Văn Điển
ĐẦM MỰC
ĐỐNG ĐA
THĂNG LONG
Đô đốc Long
Đô Đốc Bảo
Quang Trung
TÂY LONG
Quân Tây Sơn tập kết
Quâ nTây Sơn tấn công
Q Tây Sơn chặn đánh
Đại bản doanh địch
Đồn địch bị tiêu diệt
Cầu phao
Q.Thanh rút chạy
VƯƠNG TRIỀU
TÂY SƠN
PHONG TRÀO TÂY SƠN VÀ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT, BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
Sau chiến thắng quân Thanh, Quang Trung Nguyễn Huệ chính thức xây dựng vương triều mới theo chế độ quân chủ chuyên chế, thống trị trên vùng đất từ Thuện Hoá trở ra Bắc.
Vua ban chiếu kêu gọi nhân dân khôi phục sản xuất, lập lại sổ hộ, tổ chức lại giáo dục thi cử.
Quân đội tổ chức qui củ và được trang bị vũ khí đầy đủ.
Về ngoại giao, vua Quang Trung đặt quan hệ hoà hảo với nhà Thanh. Quan hệ với Lào và Chân Lạp diễn ra tốt đẹp.
Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, triều đình Tây Sơn lục đục.
Năm 1802, vương triều Tây Sơn sụp đổ.
TƯ TƯỞNG, TÔN GIÁO
TÌNH HÌNH VĂN HOÁ Ở CÁC THẾ KỈ XVI – XVIII.
Nho giáo từng bước suy thoái mặc dù chính quyền Lê – Trịnh, Nguyễn ra sức củng cố.
Phật giáo, Đạo giáo khôi phục vị trí nhưng không được như thời Lý, Trần.
Từ thế kĩ XVI đến XVIII, nhiều giáo sĩ theo thuyền buôn phương Tây truyền Thiên Chúa giáo vào nước ta. Tuy nhiên về sau, do nhiều điểm khác biệt, hoạt động truyền giáo bị cấm đoá.
Thế kỉ XVII, chữ Quốc ngữ ra đời, dùng chủ yếu trong phạm vi hoạt động truyền giáo.
Các tín ngưỡng, truyền thống tốt đẹp được phát huy. Các chùa chiền, nhà thờ, đền thờ, lăng miếu được xây dựng ở nhiều nơi.
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
GIÁO
DỤC VĂN HỌC
TÌNH HÌNH VĂN HOÁ Ở CÁC THẾ KỈXVI – XVIII.
Giáo dục trong thời kì này vẫn được quan tâm, các kì thi vẫn tổ chức đều đặn như trước. Tuy nhiên, số người đi thi và đỗ đạt không nhiều.
Hình thức thi cử vẫn theo cách cũ. Mãi đến năm 1646, chúa Nguyễn mới mở khoa thi đầu tiên theo cách riêng.
Nội dung giáo dục chủ yếu vẫn là kinh sử, khoa học tự nhiên không đượ chú ý.
Về văn học, cùng với sự suy thoái của Nho giáo, từ thế kỉ XVI – XVII, văn học chữ Hán mất dần vị thế vốn có.
Chữ Nôm dần dần được sử dụng nhiều trong sáng tác văn học. Từ thế kỉ XVI – XVII, xuất hiện nhiều nhà thơ Nôm nổi tiếng.
Trong lúc văn học chính thống có phần suy thoái, văn học dân gian ngày càng phát triển rầm rộ..
Văn học dân gian phản ánh cuộc sống tinh thần và tâm linh của người dân, gồm các thể loại: ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện dân gian,… đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.
NGHỆ THUẬT
TÌNH HÌNH VĂN HOÁ Ở CÁC THẾ KỈXVI – XVIII.
Thế kỉ XVI – XVIII, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc tiếp tục phát triển với nhiều công trình có giá trị như: chù Thiên Mụ, tượng Phật Bà Quan Âm nghìn nghìn tay, tượng La Hán và các tranh vẽ chân dung.
Một trào lưu nghệ thuật mới được hình thành. Trên các vì, kèo, ở các ngôi đình làng, các nghệ nhân đã khắc lên những cảnh sinh hoạt hằng ngày.
Nghệ thuật sân khấu phát triển ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài,k phổ biến hàng loạt các làn điệu dân ca mang tính địa phương như quan họ, hát giậm, hò, vè,…
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
TOÀN CẢNH CHÙA THIÊN MỤ (HUẾ)
CHÙA KEO (THÁI BÌNH)
HÁT GIẬM
TÌNH HÌNH VĂN HOÁ Ở CÁC THẾ KỈXVI – XVIII.
Về sử học, ra đời nhiều bộ sử học của tư nhân như: Ô châu cận lục, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục,… và đặc biệt là bộ sử thi bằng chữ Nôm Thiên Nam ngữ lục.
Về địa lí có tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư.
Về quân sự có tập Hổ trướng khu cơ.
Về triết học có các tập thơ, sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quí Đôn.
Về y học có bộ sách y dược của Hải Thượng Lãn Ông
Về kĩ thuật, sáng tạo một số thành tựu như đúc súng đại bác, đóng thuyền chiến,…
CÁC LĨNH VỰC KHÁC
TÌNH HÌNH KINH TẾ Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVIII
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
LÊ
QUÝ ĐÔN
HẢI THƯỢNG LÃN
ÔNG
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lương Toàn Hoàng Long
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)