Bài 19. Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X-XV

Chia sẻ bởi david Nguyen | Ngày 10/05/2019 | 36

Chia sẻ tài liệu: Bài 19. Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X-XV thuộc Lịch sử 10

Nội dung tài liệu:

Nhóm 1
KHỞI NGHĨA LAM SƠN
Bối cảnh lịch sử
Khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra trong bối cảnh rất khó khăn. Nhiều cuộc nổi dậy chống Minh. Liên tiếp 2 vua nhà Hồ, một vua nhà Hậu Trần bị bắt về Bắc. Trương Phụ tàn sát những người lính theo quân khởi nghĩa và cả dân thường rất tàn bạo (chặt đầu, đốt xác, cuốn ruột vào cây...) để khủng bố tinh thần người Việt. Trong bối cảnh đó, Lê Lợi đã đứng lên khởi nghĩa ở Lam Sơn. Ông vốn là một người có chí lớn và khảng khái, đến mức chính quyền đô hộ nhà Minh từng kêu gọi ông ra làm quan chức. Tuy nhiên, ông quyết không nghe theo, và luôn cho rằng: "Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người!". Do đó, ông cư ngụ ở nơi núi rừng, và tập hợp hào kiệt về. Cuộc khởi nghĩa mở đầu đúng như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên
Chính lúc quân thù đang mạnh
... Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu
DỰNG CỜ KHỞI NGHĨA
Lê Lợi (1385-1433) là một hào trưởng có uy tín lớn ở vùng Lam Sơn (Thanh Hóa). Trước cảnh nước mất nhân dân lầm than, ông đã dốc hết tài sản để chiêu tập nghĩa sĩ bí mật liện lạc với các hào kiệt xây dựng lực lượng, chọn Lam Sơn làm căn cứ
Tại sao Lê Lợi lại chọn Lam Sơn làm căn cứ ???   
Hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa

Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, ... tất cả 50 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn (trong đó 19 người đã từng tham gia hội thề Lũng Nhai, năm 1416), xưng là Bình Định Vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh cứu nước.
Bị quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn ba lần phải rút chạy lên núi Chí Linh . Giữa năm 1418 một lần bị quân Minh vây bắt ở núi Chí Linh quân sĩ hết lương thực. Lực lượng chưa đủ mạnh nên Lê Lợi thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, nhiều lần phải ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngựa chiến của mình để cho tướng sĩ ăn.
Trước tình thế hiểm nghèo, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1422. Đến năm 1423, khi thực lực được củng cố, lại thấy quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng hoà.  
Nhận xét : tinh thần chiến đấu dũng cảm , bất khuất, hy sinh, vượt gian khổ  của nghĩa quân và đường lối đúng đắn của bộ tham mưu , đứng đầu là Lê Lợi .
Theo kế của Nguyễn Chích, năm 1424 Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An.
Trên đường đi, quân Lam Sơn hạ thành Đa Căng (Bất Căng, Thọ Xuân) do Lương Nhữ Hốt giữ, đánh lui quân cứu viện của viên tù trưởng địa phương theo quân Minh là Cầm Bành. Sau đó quân Lam Sơn đánh thành Trà Lân. Tướng Minh là Trần Trí mang quân từ Nghệ An tới cứu Cầm Bành, bị quân Lam Sơn đánh lui. Lê Lợi vây Cầm Bành, Trí đóng ngoài xa không dám cứu. Bị vây ngặt lâu ngày, Bành phải đầu hàng.

Tiến quân vào Nghệ An, mở rộng vùng giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa (1424 - 1425)
Lê Lợi một mặt siết vòng vây quanh thành Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn, Lê Đa Bồ đem quân vào nam đánh Tân Bình, Thuận Hóa. Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Lê Lợi được chiếm đất Tân Bình, Thuận Hoá. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt.
Như vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành địch đều bị bao vây.
Ý nghĩa : giải phóng Nghệ An, Tân Bình , Thuận Hóa , lực lượng nghĩa quân đã trưởng thành , khu giải phóng dài từ Thanh Hóa đến Hải Vân , làm đà tiến công ra Bắc .
Tiến quân ra Bắc,mở rộng phạm vi hoạt động cuối năm 1426
Tháng 9-1426  nghĩa quân tiến ra Bắc bằng 3 đạo quân:
    * Đạo thứ nhất tiến ra giải phóng Tây Bắc  chặn viện binh địch từ Vân Nam sang .
    * Đạo thứ hai giải phóng hạ lưu sông Hồng , và chặn đường rút quân từ Nghệ An về Đông Quan , và chặn viện binh từ Quảng Tây sang .
   * Đạo thứ ba tiến thẳng ra Đông Quan .
-Nhiệm vụ giải phóng đất đai, thành lập chính quyền mới ,chặn viện binh địch ; đã tiêu diệt hàng ngàn tên địch, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan để cố thủ .
-Cuối 1426  tương quan lực lượng ta và địch có sự thay đổi :nghĩa quân hùng mạnh  giành thế chủ động  và phản công  ;quân Minh phải phòng ngự , cố thủ ở Đông Quan, xin viện binh  .
Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng cuối năm 1426-cuối 1427
1.Trận Tốt Động – Chúc Động  cuối 1426
  -Tháng 10- 1426  Vương Thông đem 5 vạn viện binh  kéo vào Đông Quan và mở cuộc phản công , đánh vào chủ lực ta  ở Cao Bộ để giành thế chủ động  .
   - Quân ta phục  binh sẵn ở Tốt Động và Chúc Động , quân địch lọt vào trận địa  bị dồn xuống cánh đồng lầy lội , ta tiêu diệt  5 vạn quân giặc , bắt sống 1 vạn tên, Vương Thông chạy về Đông Quan .Ta giành thế chủ động  vây Đông Quan , và giải phóng nhiều châu huyện ; quân Minh bị động  , một mặt xin  giả hòa , một mặt xin thêm viện binh .
Ý  nghĩa:
              Ninh Kiều máu chảy thành sông , tanh hôi vạn dặm
Tốt Động  thây chất đầy nội , nhơ để ngàn năm.
2. Trận Chi Lăng – Xương Giang  10- 1427 :
Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Vương Thông, sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Đây là hai tướng đã từng sang đánh Việt Nam thời nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Nghe tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đánh thành là hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông Quan.
Đầu tiên, ông ra lệnh dời người ở những vùng địch đi qua như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Hoá, Tuyên Quang, để đồng không để cô lập địch. Biết cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Nguyễn Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không đánh.
Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20, Thăng bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết.
Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua to nên kinh hồn, bèn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo giết được hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa.
Lê Lợi bàn việc với các tướng lĩnh
Hội thề Đông Quan
Vương Thông nghe tin hai đạo viện binh bị đánh tan, sợ hãi xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi đồng ý cho giảng hòa để quân Minh rút về nước. Ông cùng Vương Thông tiến hành làm lễ thề trong thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp âm lịch năm Đinh mùi (1427) rút quân về nước. Chiến tranh kết thúc, khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng.
3 .Nguyên nhân thắng lợi :
        -Nhân dân ủng hộ , lòng yêu nước của toàn quân dân .
       -Khối đoàn kết nhất trí của  quân dân .
      -Tài chỉ huy của Lê Lợi, Nguyễn Trãi , với đường lối chiến  lược, chiến thuật đúng đắn
4.Ý nghĩa lịch sử :
      -Đất nước  hoàn toàn giải phóng .
     -Giành độc lập tự chủ .
     - Mở ra thời kỳ phát triển mới thời Lê sơ.
Bình ngô đại cáo
NHỮNG SỰ KIỆN CHÍNH TRONG KHỞI NGHĨA LAM SƠN  1418- 1427 :
* Thời kỳ ở miền Tây Thanh Hóa  1418-1423.
* Giải phóng Nghệ An- Tân Bình- Thuận Hóa  và tiến quân ra Bắc  1424- 1426
* Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng  cuối năm  1426- 14 27 .
-Đầu năm  1416 : hội thề Lũng Nhai  gồm 19 người  trong bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa .
-Ngày 7-2-1418:  Lê Lợi  dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn ( Thanh Hóa) và tự xưng là Bình Định Vương .
-Giữa năm 1418 :  Giặc vây Chí Linh ,Lê Lai cải trang thành Lê Lợi và bị giết chết .
-Mùa hè năm 1423 : Lê Lợi tạm hoãn để tránh cuộc bao vây của địch và có thời gian củng cố  lực lượng.
-Cuối năm 1424  : quân Minh trở mặt tấn công Lam Sơn  .
-Năm 1425 giải phóng Tân Bình – Thuận Hóa .
-Tháng 9- 1426 tiến công ra Bắc .
-Cuối năm 1426  chiến thắng Tốt Động và Chúc Động .
-Tháng 10-1427  chiến thắng Chi  Lăng – Xương Giang .
-Ngày 10-12-1427 : hội thề Đông Quan , Vương Thông rút quân .
THE END
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: david Nguyen
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)