Bài 16. Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV
Chia sẻ bởi Nguyễn Hoàng Vân |
Ngày 29/04/2019 |
36
Chia sẻ tài liệu: Bài 16. Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
Lịch sử 7
Bài 16
SỰ SUY SỤP CỦA NHÀ TRẦN
CUỐI THẾ KỈ XIV
Những người thực hiện:
Nguyễn Hoàng Vân
I.Tình hình kinh tế và xã hội
1.Tình hình kinh tế
Nửa sau thế kỷ XIV xã hội Đại Việt đã lâm vào một cuộc khủng hoàng trầm trọng. Các điền trang ngày một phát triển, nhưng sản xuất lại trở nên trì trệ, đời sống các nông nô, nô tì trong đó bị bần cùng hoá. Mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra.
Để bảo đảm nguồn thu hoạch của Nhà nước, các nông dân làng xã đã phải chịu những nghĩa vụ tô thuế và lao dịch. Tô chủ yếu đánh vào ruộng công tính bằng thóc, theo diện tích `ruộng đất, hàm ý cày ruộng của nhà vua. Thuế chủ yếu đánh vào ruộng tư, tính bằng tiền theo đầu người, hàm ý đó là nghĩa vụ của người có ruộng. Năm 1378, Nhà nước bắt đầu đánh thuế thân, đồng loạt thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền.
Những người cày ruộng công trong làng xã hằng năm phải nộp thóc tô, với ý nghĩa cày ruộng của nhà vua. Hằng năm, tô ruộng mỗi mẫu phải nộp 100 thăng thóc, mức tô mà các sách sử sau này đánh giá là "quá nặng" (Việt sử thông giám cương mục).
Nô tì bị bán giá 1 quan tiền, tương đương 1 thăng (2 lít gạo), hoặc bị gán nợ , mua bán và bóc lột sức lao động rất nặng nề
2. Tình hình xã hội
Triều đình nhà Trần ngày một sa đọa. Nhiều đại thần mắc tệ nạn tham nhũng, rượu chè cờ bạc, tham ăn, hiếu sắc, Nhà vua ( Trần Dụ Tông) cũng ăn chơi xa xỉ trụy lạc. Chu Văn An đã từng dâng sớ Thất trảm, xin chém 7 gian thần, nhưng bị từ chối. Dương Nhật Lễ (con người phường chèo, cháu Dụ Tông) nối ngôi Dụ Tông, gây sự biến, muốn đổi họ, bị các triều thần lật đổ, gây nên khủng hoảng cung đình.
Bên ngoài, Champa nhiều lần gây xung đột, chiến tranh với Đại Việt, đem quân vào đánh phá Thăng Long. Duệ Tông đi đánh Champa, lâm nạn tại thành Đồ Bàn. Chỉ đến khi Chế Bồng Nga tử trận (1390), chiến tranh mới tạm yên. Tiếp đó, nhà Minh ở phương Bắc lại gây sức ép, hạch sách, đòi cống nạp, mượn đường, đe doạ xâm lược, càng làm cuộc khủng hoảng thêm sâu sắc, đe doạ sự tồn tại của vương triều.
Từ giữa thế kỉ XIV, nông dân, nô tì đã nổi dậy khởi nghĩa. Nông dân nổi dậy bạo động, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở núi Yên Phụ (Hải Dương) năm 1344- 1360.
2.Tình hình xã hội
Năm 1379, Nguyễn thanh tụ tập nông dân khởi nghĩa, tự xưng là Linh đức vương, hoạt động ở vùng sông Chu( Thanh Hóa). Nguyễn Kỵ cũng xưng vương, hoạt động ở Nông Cống. Cùng năm 0379, Nguyễn Bổ nổi dậy ở Bặc Giang.
Đầu năm 1390, nhà sư Phạm Sư Ôn hô hào nông dân nổi dậy đấu tranh ở Quốc Oai. Nghĩa quân hoạt động ở vùng Sơn Tây, lực lượng hùng hậu, đã kéo đến đánh chiếm kinh thành Thăng Long trong vòng 3 ngày. Vua Trần phải bỏ thành chạy trốn lên Bắc Giang. Sau đó cuộc khởi nghĩa đã bị triều đình đàn áp.
Năm 1399, Nguyễn Nhữ Cái nổi dậy khởi nghĩa, hoạt động ở vùng Sơn Yây, Tuyên Quang. Đến năm 1400, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp.
II.
Nhà Hồ
&
Cải cách của Hồ Quý Ly
1.Nhà Hồ thành lập
Một vài nét về Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly quê gốc Nghệ An, tổ 4 đời dời ra Thanh Hóa, đổi theo họ người cha nuôi họ Lê (khi lên ngôi, lấy lại họ Hồ).
Hồ Quý Ly có quan hệ họ ngoại khăng khít với các vua Trần, bản thân ông là con rể vua Trần Minh Tông.
Từng bước, Hồ Quý Ly đã tiến lên nắm giữ những chức vụ quan trọng về chính trị và quân sự như Khu mật sứ, Thống chế, Đồng bình chương sự.
Mặt khác, ông còn tìm cách đưa họ hàng và tay chân thân tín vào nắm giữ các trọng trách khác.
b) Nhà Hồ thành lập
Củng cố được thế lực, Hồ Quý Ly tiến hành các âm mưu phế lập và đàn áp ông tìm cách mưu hại các vua Trần (Đế Nghiễn, Thuận Tông), sát hại các quý tộc tông thất và quan liêu triều Trần. Trong hội thề Đôn Sơn (1399), 370 quý tộc quan liêu, đứng đầu là Trần Khát Chân, đã mưu giết Quý Ly. Việc không thành, tất cả đều bị giết hại.
Giữa lúc nhà Trần chuẩn bị sụp đổ, Hồ Quy Ly xuất hiện và giành lấy ngôi hoàng đế.
Năm 1400, Quý Ly ép Thiếu Đế phải nhường ngôi cho mình, lập nên triều Hồ, lấy niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu.
CUNG THÀNH NHÀ HỒ
2.Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
Trước và sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly đã tiến hành một loạt các biện pháp cải cách về nhiều mặt, thay đổi chính sách cũ, đề ra chính sách mới. Những biến pháp đó nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội Đại Việt, thủ tiêu những yếu tố cát cứ của quý tộc nhà Trần, xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế tập trung vững mạnh.
Về quân sự- chính trị
Hồ Quý Ly tìm cách chấn chỉnh và tăng cường quân đội, thải bớt người yếu, bổ sung những người khỏe mạnh, kể cả các sư tăng, tăng cường quân số và các lực lượng quân sự địa phương, cho xây dựng một kinh thành mới bằng đá kiên cố ở An Tôn (Vinh Lộc, Thanh Hóa) gọi là Tây Đô (phân biệt với Thăng Long, được đổi thành Đông Đô) thường gọi là Thành nhà Hồ
Cuối năm 1397, ép vua Trần dời về kinh đô mới. Nhà Hồ cũng chú ý cải tiến kỹ thuật quân sự. Hồ Nguyên Trừng (con cả Hồ Quý Ly) đã chế tạo ra những khí tài mới : súng lớn thần cơ, thuyền chiến Cổ Lâu đi biển. Tuy nhiên, tinh thần quân sĩ vẫn không được nâng cao. Chính Hồ Nguyên Trừng đã lo lắng về một đội quân "trăm vạn quân, trăm hạn lòng".
2.Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
b)Về tài chính- kinh tế
Biện pháp nổi bật là việc ban hành tiền giấy, gọi là "Thông bảo hội sao" năm 1396. Tiền giấy có nhiều loại, vẽ hình khác nhau: loại 10 đồng (vẽ hình rau tảo), 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền và 1 quan (vẽ hình rồng). Nhà nước, ra lệnh cho dân chúng không được tiêu tiền đồng, phải đổi ra tiền giấy (tỷ giá 1 quan tiền đồng: 1 quan 2 tiền giấy), cấm làm tiền giả.
Năm 1397, Hồ Quý Ly đặt ra phép hạn điền. Theo đó, trừ đại vương và trưởng công chúa (số này rất ít) còn tất cả mọi người, từ quý tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư (tối đa : 10 mẫu), cho phép lấy ruộng tư chuộc tội. Nhà nước tiến hành đo đạc lại ruộng đất, diện tích thừa sung công.
Năm 1402, Hồ Hán Thương cải cách thuế đinh nam, không đánh đồng loạt mà theo lũy tiến, người ít ruộng mức thuế nhẹ đi, không có ruộng và hạng cô quả không thu thuế.
2. Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
b) Tình hình tài chính- kinh tế
Phép hạn điền đã đánh mạnh vào thế lực của tầng lớp quý tộc điền trang và địa chủ tư hữu, tăng nguồn thu nhập sưu thuế cho nhà nước. Cùng với chính sách thuế, phép hạn điền phần nào có lợi cho những người nghèo không ruộng, mặt khác, chặn đứng xu thế phát triển tự nhiên của ruộng đất tư hữu.
Năm 1401, nhà Hồ ban hành phép hạn nô, các quý tộc bị hạn chế số nô tì, số thừa ra (những nô tì không có chúc thư 3 đời) bị sung công, bồi thường cho chủ 5 quan một người. Các loại gia nô phải thích dấu hiệu vào trán. Phép hạn nô đã chuyển một số lớn gia nô thành quan nô (nô tì nhà nước, họ có thay đổi về thân phận, nhưng vẫn không được giải phóng). Cùng với phép hạn điền, phép hạn nô về cơ bản đã làm suy sụp tầng lớp quý tộc cũ nhà Trần và nền kinh tế điền trang, tăng cường thế lực kinh tế của Nhà nước trung ương.
2. Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
c) Về văn hóa giáo dục
Hồ Quý Ly đã chấn chỉnh lại Phật giáo và Nho giáo. Nhìn chung, Hồ Quý Ly hạn chế Phật giáo, Đạo giáo, đề cao Nho giáo, nhưng là thứ Nho giáo thực dụng, chống giáo điều, kết hợp với tinh thần Pháp gia. Hồ Quý Ly đã cho sa thải các tăng đạo dưới 50 tuổi, bắt phải hoàn tục, tổ chức sát hạch kinh giáo.
Quý Ly soạn sách Minh đạo bàn về Nho giáo, nghi ngờ một số chỗ của sách Luận ngữ của Khổng Tử, phê phán thói giáo điều của các nhà Nho Hàn Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hiệu là "trộm Nho", "cóp nhặt văn chương" . Hồ Quý Ly đã đề cao chữ Nôm mang tính dân tộc, dịch thiên Vô dật trong Kinh thư ra chữ Nôm, soạn sách Thi nghĩa (giải thích Kinh thi ) bằng chữ Nôm, làm thơ Nôm.
2.Những biện pháp cải cách của hồ Quý Ly
c) Về văn hóa giáo dục
Ngay sau khi lên ngôi, ông mở khoa thi Hội (Thái học sinh) lấy đỗ 20 người, trong đó có Nguyễn Trãi. Quy chế và nội dung khoa cử cũng được cải tổ. Ấn định phép thi 4 trường, bỏ ám tả cổ văn thay vào kinh nghĩa. Năm 1404, Hồ Quý Ly lại đặt thêm kỳ thi viết chữ và thi toán.
Hồ Quý Ly rất quan tâm đến việc cải cách, nâng cao tính hiệu quả và thực tiễn của giáo dục, thi cử. Mở rộng hệ thống giáo dục ở địa phương, đặt các học quan, cấp học điền. ông cũng là người đầu tiên trong lịch sử đặt ra cấp thi Hương (từ 1396)
Bài 16
SỰ SUY SỤP CỦA NHÀ TRẦN
CUỐI THẾ KỈ XIV
Những người thực hiện:
Nguyễn Hoàng Vân
I.Tình hình kinh tế và xã hội
1.Tình hình kinh tế
Nửa sau thế kỷ XIV xã hội Đại Việt đã lâm vào một cuộc khủng hoàng trầm trọng. Các điền trang ngày một phát triển, nhưng sản xuất lại trở nên trì trệ, đời sống các nông nô, nô tì trong đó bị bần cùng hoá. Mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra.
Để bảo đảm nguồn thu hoạch của Nhà nước, các nông dân làng xã đã phải chịu những nghĩa vụ tô thuế và lao dịch. Tô chủ yếu đánh vào ruộng công tính bằng thóc, theo diện tích `ruộng đất, hàm ý cày ruộng của nhà vua. Thuế chủ yếu đánh vào ruộng tư, tính bằng tiền theo đầu người, hàm ý đó là nghĩa vụ của người có ruộng. Năm 1378, Nhà nước bắt đầu đánh thuế thân, đồng loạt thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền.
Những người cày ruộng công trong làng xã hằng năm phải nộp thóc tô, với ý nghĩa cày ruộng của nhà vua. Hằng năm, tô ruộng mỗi mẫu phải nộp 100 thăng thóc, mức tô mà các sách sử sau này đánh giá là "quá nặng" (Việt sử thông giám cương mục).
Nô tì bị bán giá 1 quan tiền, tương đương 1 thăng (2 lít gạo), hoặc bị gán nợ , mua bán và bóc lột sức lao động rất nặng nề
2. Tình hình xã hội
Triều đình nhà Trần ngày một sa đọa. Nhiều đại thần mắc tệ nạn tham nhũng, rượu chè cờ bạc, tham ăn, hiếu sắc, Nhà vua ( Trần Dụ Tông) cũng ăn chơi xa xỉ trụy lạc. Chu Văn An đã từng dâng sớ Thất trảm, xin chém 7 gian thần, nhưng bị từ chối. Dương Nhật Lễ (con người phường chèo, cháu Dụ Tông) nối ngôi Dụ Tông, gây sự biến, muốn đổi họ, bị các triều thần lật đổ, gây nên khủng hoảng cung đình.
Bên ngoài, Champa nhiều lần gây xung đột, chiến tranh với Đại Việt, đem quân vào đánh phá Thăng Long. Duệ Tông đi đánh Champa, lâm nạn tại thành Đồ Bàn. Chỉ đến khi Chế Bồng Nga tử trận (1390), chiến tranh mới tạm yên. Tiếp đó, nhà Minh ở phương Bắc lại gây sức ép, hạch sách, đòi cống nạp, mượn đường, đe doạ xâm lược, càng làm cuộc khủng hoảng thêm sâu sắc, đe doạ sự tồn tại của vương triều.
Từ giữa thế kỉ XIV, nông dân, nô tì đã nổi dậy khởi nghĩa. Nông dân nổi dậy bạo động, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở núi Yên Phụ (Hải Dương) năm 1344- 1360.
2.Tình hình xã hội
Năm 1379, Nguyễn thanh tụ tập nông dân khởi nghĩa, tự xưng là Linh đức vương, hoạt động ở vùng sông Chu( Thanh Hóa). Nguyễn Kỵ cũng xưng vương, hoạt động ở Nông Cống. Cùng năm 0379, Nguyễn Bổ nổi dậy ở Bặc Giang.
Đầu năm 1390, nhà sư Phạm Sư Ôn hô hào nông dân nổi dậy đấu tranh ở Quốc Oai. Nghĩa quân hoạt động ở vùng Sơn Tây, lực lượng hùng hậu, đã kéo đến đánh chiếm kinh thành Thăng Long trong vòng 3 ngày. Vua Trần phải bỏ thành chạy trốn lên Bắc Giang. Sau đó cuộc khởi nghĩa đã bị triều đình đàn áp.
Năm 1399, Nguyễn Nhữ Cái nổi dậy khởi nghĩa, hoạt động ở vùng Sơn Yây, Tuyên Quang. Đến năm 1400, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp.
II.
Nhà Hồ
&
Cải cách của Hồ Quý Ly
1.Nhà Hồ thành lập
Một vài nét về Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly quê gốc Nghệ An, tổ 4 đời dời ra Thanh Hóa, đổi theo họ người cha nuôi họ Lê (khi lên ngôi, lấy lại họ Hồ).
Hồ Quý Ly có quan hệ họ ngoại khăng khít với các vua Trần, bản thân ông là con rể vua Trần Minh Tông.
Từng bước, Hồ Quý Ly đã tiến lên nắm giữ những chức vụ quan trọng về chính trị và quân sự như Khu mật sứ, Thống chế, Đồng bình chương sự.
Mặt khác, ông còn tìm cách đưa họ hàng và tay chân thân tín vào nắm giữ các trọng trách khác.
b) Nhà Hồ thành lập
Củng cố được thế lực, Hồ Quý Ly tiến hành các âm mưu phế lập và đàn áp ông tìm cách mưu hại các vua Trần (Đế Nghiễn, Thuận Tông), sát hại các quý tộc tông thất và quan liêu triều Trần. Trong hội thề Đôn Sơn (1399), 370 quý tộc quan liêu, đứng đầu là Trần Khát Chân, đã mưu giết Quý Ly. Việc không thành, tất cả đều bị giết hại.
Giữa lúc nhà Trần chuẩn bị sụp đổ, Hồ Quy Ly xuất hiện và giành lấy ngôi hoàng đế.
Năm 1400, Quý Ly ép Thiếu Đế phải nhường ngôi cho mình, lập nên triều Hồ, lấy niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu.
CUNG THÀNH NHÀ HỒ
2.Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
Trước và sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly đã tiến hành một loạt các biện pháp cải cách về nhiều mặt, thay đổi chính sách cũ, đề ra chính sách mới. Những biến pháp đó nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội Đại Việt, thủ tiêu những yếu tố cát cứ của quý tộc nhà Trần, xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế tập trung vững mạnh.
Về quân sự- chính trị
Hồ Quý Ly tìm cách chấn chỉnh và tăng cường quân đội, thải bớt người yếu, bổ sung những người khỏe mạnh, kể cả các sư tăng, tăng cường quân số và các lực lượng quân sự địa phương, cho xây dựng một kinh thành mới bằng đá kiên cố ở An Tôn (Vinh Lộc, Thanh Hóa) gọi là Tây Đô (phân biệt với Thăng Long, được đổi thành Đông Đô) thường gọi là Thành nhà Hồ
Cuối năm 1397, ép vua Trần dời về kinh đô mới. Nhà Hồ cũng chú ý cải tiến kỹ thuật quân sự. Hồ Nguyên Trừng (con cả Hồ Quý Ly) đã chế tạo ra những khí tài mới : súng lớn thần cơ, thuyền chiến Cổ Lâu đi biển. Tuy nhiên, tinh thần quân sĩ vẫn không được nâng cao. Chính Hồ Nguyên Trừng đã lo lắng về một đội quân "trăm vạn quân, trăm hạn lòng".
2.Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
b)Về tài chính- kinh tế
Biện pháp nổi bật là việc ban hành tiền giấy, gọi là "Thông bảo hội sao" năm 1396. Tiền giấy có nhiều loại, vẽ hình khác nhau: loại 10 đồng (vẽ hình rau tảo), 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền và 1 quan (vẽ hình rồng). Nhà nước, ra lệnh cho dân chúng không được tiêu tiền đồng, phải đổi ra tiền giấy (tỷ giá 1 quan tiền đồng: 1 quan 2 tiền giấy), cấm làm tiền giả.
Năm 1397, Hồ Quý Ly đặt ra phép hạn điền. Theo đó, trừ đại vương và trưởng công chúa (số này rất ít) còn tất cả mọi người, từ quý tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư (tối đa : 10 mẫu), cho phép lấy ruộng tư chuộc tội. Nhà nước tiến hành đo đạc lại ruộng đất, diện tích thừa sung công.
Năm 1402, Hồ Hán Thương cải cách thuế đinh nam, không đánh đồng loạt mà theo lũy tiến, người ít ruộng mức thuế nhẹ đi, không có ruộng và hạng cô quả không thu thuế.
2. Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
b) Tình hình tài chính- kinh tế
Phép hạn điền đã đánh mạnh vào thế lực của tầng lớp quý tộc điền trang và địa chủ tư hữu, tăng nguồn thu nhập sưu thuế cho nhà nước. Cùng với chính sách thuế, phép hạn điền phần nào có lợi cho những người nghèo không ruộng, mặt khác, chặn đứng xu thế phát triển tự nhiên của ruộng đất tư hữu.
Năm 1401, nhà Hồ ban hành phép hạn nô, các quý tộc bị hạn chế số nô tì, số thừa ra (những nô tì không có chúc thư 3 đời) bị sung công, bồi thường cho chủ 5 quan một người. Các loại gia nô phải thích dấu hiệu vào trán. Phép hạn nô đã chuyển một số lớn gia nô thành quan nô (nô tì nhà nước, họ có thay đổi về thân phận, nhưng vẫn không được giải phóng). Cùng với phép hạn điền, phép hạn nô về cơ bản đã làm suy sụp tầng lớp quý tộc cũ nhà Trần và nền kinh tế điền trang, tăng cường thế lực kinh tế của Nhà nước trung ương.
2. Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
c) Về văn hóa giáo dục
Hồ Quý Ly đã chấn chỉnh lại Phật giáo và Nho giáo. Nhìn chung, Hồ Quý Ly hạn chế Phật giáo, Đạo giáo, đề cao Nho giáo, nhưng là thứ Nho giáo thực dụng, chống giáo điều, kết hợp với tinh thần Pháp gia. Hồ Quý Ly đã cho sa thải các tăng đạo dưới 50 tuổi, bắt phải hoàn tục, tổ chức sát hạch kinh giáo.
Quý Ly soạn sách Minh đạo bàn về Nho giáo, nghi ngờ một số chỗ của sách Luận ngữ của Khổng Tử, phê phán thói giáo điều của các nhà Nho Hàn Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hiệu là "trộm Nho", "cóp nhặt văn chương" . Hồ Quý Ly đã đề cao chữ Nôm mang tính dân tộc, dịch thiên Vô dật trong Kinh thư ra chữ Nôm, soạn sách Thi nghĩa (giải thích Kinh thi ) bằng chữ Nôm, làm thơ Nôm.
2.Những biện pháp cải cách của hồ Quý Ly
c) Về văn hóa giáo dục
Ngay sau khi lên ngôi, ông mở khoa thi Hội (Thái học sinh) lấy đỗ 20 người, trong đó có Nguyễn Trãi. Quy chế và nội dung khoa cử cũng được cải tổ. Ấn định phép thi 4 trường, bỏ ám tả cổ văn thay vào kinh nghĩa. Năm 1404, Hồ Quý Ly lại đặt thêm kỳ thi viết chữ và thi toán.
Hồ Quý Ly rất quan tâm đến việc cải cách, nâng cao tính hiệu quả và thực tiễn của giáo dục, thi cử. Mở rộng hệ thống giáo dục ở địa phương, đặt các học quan, cấp học điền. ông cũng là người đầu tiên trong lịch sử đặt ra cấp thi Hương (từ 1396)
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Hoàng Vân
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)