AP SUAT THAM THAU
Chia sẻ bởi Võ Phương Thảo |
Ngày 23/10/2018 |
63
Chia sẻ tài liệu: AP SUAT THAM THAU thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
SEMINA
LÝ SINH
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
GVHD: TS.VÕ VĂN TOÀN
LỚP:ĐHS-SINH 08B
Chuyên đề 6
Áp suất thẩm thấu và ứng dụng trong hệ thống sống
DANH SÁCH THÀNH VIÊN:
1.LÊ THỊ BÍCH DÂN
2.ĐỖ NGUYỄN NGỌC HUYỀN
3.LÊ THỊ THÚY HUỲNH
4.BÙI THANH QUỐC KHANH
5.NGUYỄN THỊ LIỄU
6.DƯƠNG THỊ CẨM TÚ
Thẩm thấu là quá trình vận chuyển dung môi qua một màng ngăn cách 2 dung dịch có thành phần khác nhau khi không chịu tác động của các lực ngoài như là lực điện từ, lực pittông. Động lực của quá trình thẩm thấu là áp suất thẩm thấu.
Động lực của quá trình thẩm thấu là sự chênh lệch của áp suất thẩm thấu. Dung môi sẻ di chuyển từ môi trường có áp suất thẩm thấu thấp sang môi trường có áp suất thẩm thấu cao.
I. KHÁI NIỆM ÁP SUẤT THẨM THẤU
Áp suất thẩm thấu sinh ra do sự có mặt các chất hòa tan trong dung dịch và có thể xác định áp suất thẩm thấu bằng phương trình của Clayperon – Mendeleep như sau:
p=(m/μVm)RT
Áp suất thẩm thấu là một trong những động lực vận chuyển chất qua màng một cách thụ động.
II. Ứng dụng
Màng tế bào để cho nước qua màng: vào hoặc ra và luôn luôn giữ thế cân bằng đối với môi trường. Nghĩa là màng giữ cho tế bào có áp suất thẩm thấu cố định. Tính chất thẩm thấu đó của màng gọi là tính thấm (osmos).
Đứng về quan điểm sinh học, Do sự chênh lệch áp suất thẩm thấu trong và ngoài màng, gây ra các hiện tượng ưu trương, nhược trương, đẳng trương.
a) Dung dịch đẳng trương (isotonic): có áp suất thẩm thấu bằng áp suất thẩm thấu của tế bào.
Ví dụ: nếu ta cho tế bào thực vật vào dung dịch đẳng trương thì tế bào chất không thay đổi.
b) Dung dịch nhược trương (hypotonic): có áp suất thẩm thấu thấp hơn áp suất thẩm thấu của tế bào.
Ví dụ: nếu cho tế bào thực vật vào dung dịch này thì nước sẽ đi vào tế bào, tế bào trương lên.
c) Dung dịch ưu trương (hypertonic): có áp suất thẩm thấu cao hơn áp suất thẩm thấu của tế bào.
Ví dụ: nếu cho tế bào thực vật vào dung dịch này thì nước từ tế bào đi ra và làm cho tế bào teo lại, tế bào chất tách khỏi màng cellulose.
Như vậy áp suất thẩm thấu đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động sống của tế bào.
Qua đây cho ta thấy rõ ý nghĩa của sinh vật thích nghi với môi trường. Các sinh vật sống trong nước ngọt có sự khác biệt rất lớn giữa nồng độ của môi trường bên trong và bên ngoài tế bào. Vì vậy, chúng phải hạn chế sự xâm nhập của nước vào bên trong tế bào, bằng cách có hằng số thẩm thấu rất nhỏ. Nếu không, chúng phải tiêu phí năng lượng dùng để tống nước ra khỏi tế bào, hoặc thể tích tế bào phải thay đổi phụ thuộc vào sự thay đổí áp suất thẩm thấu của môi trường. Ví dụ như trứng cầu gai hoạt động giống như một thẩm thấu kế, nghĩa là thể tích trứng cầu gai thay đổi tùy theo sự thay đổi của áp suất thẩm thấu của môi trường.
Nhờ hiện tượng thẩm thấu rễ cây có thể hút nước vào.
Nước từ đất vào lông hút rồi vào mạch gỗ của rễ theo cơ chế thẩm thấu, tức là từ nơi có áp suất thẩm thấu thấp đến nơi có áp suất thẩm thấu cao.
A. THỰC VẬT
Cây hấp thụ nước qua hệ thống rễ nhờ sự chênh lệch áp suất thẩm thấu (tăng dần từ đất đến mạch gỗ).
Nước bị đẩy từ rễ lên thân do một lực đẩy gọi là áp suất rễ thể hiện qua hiện tượng ứ giọt.
Cây lấy được nước và chất khoáng từ đất khi nồng độ muối tan trong đất nhỏ hơn nồng độ dịch bào của rễ, tức áp suất thẩm thấu và sức hút nước của rễ cây phải lớn hơn áp suất thẩm thấu và sức hút nước của đất. Nếu độ mặn của đất tăng cao đến mức sức hút nước của đất vượt quá sức hút nước của rễ thì chẳng những cây không lấy được nước trong đất mà còn mất nước vào đất.
Việc tăng áp suất thẩm thấu trong đất mặn quá mức là nguyên nhân quan trọng nhất gây hại cho cây trồng trên đất mặn.
Sự điều chỉnh thẩm thấu
Do áp suất thẩm thấu của cây thấp hơn của đất nên cây không hút được nước. Các thực vật chịu mặn có khả năng tự điều chỉnh thẩm thấu để làm tăng áp suất thẩm thấu trong tế bào vượt quá áp suất thẩm thấu của đất. Tốc độ và thời gian điều chỉnh thẩm thấu phụ thuộc vào loài thực vật.
Người ta đo được tốc độ điều chỉnh thẩm thấu trung bình là 1atm/ngày. Tốc độ này chỉ theo kịp các biến đổi xảy ra trong đất mặn. Tuỳ thuộc vào thực vật mà có cách điều chỉnh thẩm thấu khác nhau.
Một số thực vật có khả năng tổng hợp và tích luỹ một số chất hữu cơ đơn giản, có phân tử lượng thấp để tăng áp suất thẩm thấu. Các chất tích luỹ chủ yếu là các axit hữu cơ, axit amin, đường. Khi gặp môi trường mặn, trong cây lập tức tổng hợp các chất hữu cơ nhóm này để tự điều chỉnh áp suất thẩm thấu của chính mình. Ngoài ra, các hợp chất prolin, betain, putressin cũng được hình thành khi bị mặn.
Cá nước ngọt hấp thu hầu hết lượng nước mà chúng cần qua da nhờ cơ chế thẩm thấu bằng cách đái nhạt . Do vậy trong cơ thể cá trở nên ưu trương nên hấp thụ chủ động các chất muối khoáng thiết yếu từ môi trường xung quanh để bù lại lượng muối mất qua nước tiểu và khuyếch tán qua mang cá.
B. ĐỘNG VẬT
1. CÁ NƯỚC NGỌT
Hầu hết cá nước mặn (cá đuối, cá mập, cá mút đá- Hagfish có cơ chế điều hoà thẩm thấu khác) thực chất hấp thu nước khi chúng hô hấp, vì nước muối hút nước liên tục ra khỏi cơ thể cá ngược lại với quá trình hô hấp, do cơ thể cá nhược trương hơn so với môi trường xung quanh nên chúng phải lấy vào một lượng nước rất lớn và bài tiết chủ động các ion muối khác nhau (môi trường có độ thẩm thấu thấp).
2. CÁ NƯỚC MẶN
c. Lưỡng cư nước ngọt
Xét về phương diện điều hòa ASTT, sự điều hòa của lưỡng cư tương đối giống cá xương. Hầu hết các lưỡng cư sống ở nước ngọt và da của lưỡng cư trưởng thành là cơ quan điều hòa ASTT chính. Khi chúng sống dưới nước, có dòng nước thẩm thấu đi vào cơ thể. Nước này sau đó được loại ra ở nước tiểu.
Tuy nhiên có sự mất mát các chất hòa tan (solutes) ở cả nước tiểu và da. Để cân bằng sự mất mát này, lưỡng cư tích cực lấy muối từ môi trường có nồng độ muối rất loãng.
d. Lưỡng cư sống ở nước mặn
Thông thường thì các loài lưỡng cư không tồn tại được trong môi trường nước mặn trong vài giờ, tuy nhiên có ngoại lệ. Ngoại lệ này ở một loài ếch sống ở vùng Đông Nam Á là Rana cancrovora, một loài ếch ăn cua (crab-eating frog), có kích thước nhỏ, bề ngoài giống ếch, sống ở các đầm lầy nước lợ vùng ven biển. Chúng có thể bơi và kiếm thức ăn trong nước hoàn toàn chứa nước mặn.
Da của ếch thấm nước, do đó cách đơn giản hơn để ngăn chặn mất nước chính là duy trì một nồng độ thẩm thấu như với môi trường. Để ngăn chặn mất nước bằng cách tăng nồng độ muối bên trong cơ thể
3. ĐỐI VỚI CON NGƯỜI
Máu từ động mạch qua bơm để máu có áp lực cao , qua "quả lọc" hay "bộ lọc". Thay vì nước bên ngoài thẩm thấu vào bộ loc thì các chất thải bị "vắt" ra bên ngoài, khuếch tán vào dịch lọc vì bên trong là máu có áp lực cao.
Lợi dụng cơ chế áp suất thẩm thấu ngược chạy thận nhân tạo cho bệnh nhân
Hiện tượng ưu trương, nhược trương, đẳng trương ở hồng cầu do sự chênh lệch môi trường bên trong và bên ngoài tế bào
Tế bào hồng cầu chứa hệ thống thẩm thấu nên đóng vai trò quan trọng trong vận chuyển
- Nếu ASTT của hồng cầu và huyết tương là bằng nhau, thì hồng cầu vẫn giữ nguyên được các hình dạng và kích thước của nó.
- Nếu cho hồng cầu vào dung dịch muối NaCl có ASTT lớn hơn ASTT của hồng cầu, thì hồng cầu sẽ bị teo lại. Dung dịch muối NaCl được gọi là dung dịch ưu trương.
- Nếu bỏ hồng cầu vào dung dịch nhược trương có ASTT nhỏ hơn ASTT của hồng cầu, nước sẽ đi vào hồng cầu, hồng cầu sẽ được căng phồng dần lên và nếu căng phồng lên quá mức thì sẽ bị vỡ ra
- ASTT máu của con người và động vật có vú nói chung là gần tương đương với ASTT dung dịch muối NaCl có nồng độ 0,9% và được gọi là dung dịch nước muối sinh lý, đó là dung dịch đẳng trương.
Trong thực nghiệm sinh lý, người ta dùng các dung dịch sinh lý có áp suất thẩm thấu bằng áp suất thẩm thấu của máu động vật, ví dụ như dung dịch ringe.
THẨM THẤU NGƯỢC
Thẩm thấu ngược người ta dùng một áp lực đủ để đẩy ngược nước từ nơi có hàm lượng muối/ khoáng cao “thấm” qua một loại màng đặc biệt để đến nơi không có hoặc có ít muối/ khoáng hơn.
THE END
CẢM ƠN THẦY VÀ CÁC BẠN ĐÃ THEO DÕI!
LÝ SINH
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
GVHD: TS.VÕ VĂN TOÀN
LỚP:ĐHS-SINH 08B
Chuyên đề 6
Áp suất thẩm thấu và ứng dụng trong hệ thống sống
DANH SÁCH THÀNH VIÊN:
1.LÊ THỊ BÍCH DÂN
2.ĐỖ NGUYỄN NGỌC HUYỀN
3.LÊ THỊ THÚY HUỲNH
4.BÙI THANH QUỐC KHANH
5.NGUYỄN THỊ LIỄU
6.DƯƠNG THỊ CẨM TÚ
Thẩm thấu là quá trình vận chuyển dung môi qua một màng ngăn cách 2 dung dịch có thành phần khác nhau khi không chịu tác động của các lực ngoài như là lực điện từ, lực pittông. Động lực của quá trình thẩm thấu là áp suất thẩm thấu.
Động lực của quá trình thẩm thấu là sự chênh lệch của áp suất thẩm thấu. Dung môi sẻ di chuyển từ môi trường có áp suất thẩm thấu thấp sang môi trường có áp suất thẩm thấu cao.
I. KHÁI NIỆM ÁP SUẤT THẨM THẤU
Áp suất thẩm thấu sinh ra do sự có mặt các chất hòa tan trong dung dịch và có thể xác định áp suất thẩm thấu bằng phương trình của Clayperon – Mendeleep như sau:
p=(m/μVm)RT
Áp suất thẩm thấu là một trong những động lực vận chuyển chất qua màng một cách thụ động.
II. Ứng dụng
Màng tế bào để cho nước qua màng: vào hoặc ra và luôn luôn giữ thế cân bằng đối với môi trường. Nghĩa là màng giữ cho tế bào có áp suất thẩm thấu cố định. Tính chất thẩm thấu đó của màng gọi là tính thấm (osmos).
Đứng về quan điểm sinh học, Do sự chênh lệch áp suất thẩm thấu trong và ngoài màng, gây ra các hiện tượng ưu trương, nhược trương, đẳng trương.
a) Dung dịch đẳng trương (isotonic): có áp suất thẩm thấu bằng áp suất thẩm thấu của tế bào.
Ví dụ: nếu ta cho tế bào thực vật vào dung dịch đẳng trương thì tế bào chất không thay đổi.
b) Dung dịch nhược trương (hypotonic): có áp suất thẩm thấu thấp hơn áp suất thẩm thấu của tế bào.
Ví dụ: nếu cho tế bào thực vật vào dung dịch này thì nước sẽ đi vào tế bào, tế bào trương lên.
c) Dung dịch ưu trương (hypertonic): có áp suất thẩm thấu cao hơn áp suất thẩm thấu của tế bào.
Ví dụ: nếu cho tế bào thực vật vào dung dịch này thì nước từ tế bào đi ra và làm cho tế bào teo lại, tế bào chất tách khỏi màng cellulose.
Như vậy áp suất thẩm thấu đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động sống của tế bào.
Qua đây cho ta thấy rõ ý nghĩa của sinh vật thích nghi với môi trường. Các sinh vật sống trong nước ngọt có sự khác biệt rất lớn giữa nồng độ của môi trường bên trong và bên ngoài tế bào. Vì vậy, chúng phải hạn chế sự xâm nhập của nước vào bên trong tế bào, bằng cách có hằng số thẩm thấu rất nhỏ. Nếu không, chúng phải tiêu phí năng lượng dùng để tống nước ra khỏi tế bào, hoặc thể tích tế bào phải thay đổi phụ thuộc vào sự thay đổí áp suất thẩm thấu của môi trường. Ví dụ như trứng cầu gai hoạt động giống như một thẩm thấu kế, nghĩa là thể tích trứng cầu gai thay đổi tùy theo sự thay đổi của áp suất thẩm thấu của môi trường.
Nhờ hiện tượng thẩm thấu rễ cây có thể hút nước vào.
Nước từ đất vào lông hút rồi vào mạch gỗ của rễ theo cơ chế thẩm thấu, tức là từ nơi có áp suất thẩm thấu thấp đến nơi có áp suất thẩm thấu cao.
A. THỰC VẬT
Cây hấp thụ nước qua hệ thống rễ nhờ sự chênh lệch áp suất thẩm thấu (tăng dần từ đất đến mạch gỗ).
Nước bị đẩy từ rễ lên thân do một lực đẩy gọi là áp suất rễ thể hiện qua hiện tượng ứ giọt.
Cây lấy được nước và chất khoáng từ đất khi nồng độ muối tan trong đất nhỏ hơn nồng độ dịch bào của rễ, tức áp suất thẩm thấu và sức hút nước của rễ cây phải lớn hơn áp suất thẩm thấu và sức hút nước của đất. Nếu độ mặn của đất tăng cao đến mức sức hút nước của đất vượt quá sức hút nước của rễ thì chẳng những cây không lấy được nước trong đất mà còn mất nước vào đất.
Việc tăng áp suất thẩm thấu trong đất mặn quá mức là nguyên nhân quan trọng nhất gây hại cho cây trồng trên đất mặn.
Sự điều chỉnh thẩm thấu
Do áp suất thẩm thấu của cây thấp hơn của đất nên cây không hút được nước. Các thực vật chịu mặn có khả năng tự điều chỉnh thẩm thấu để làm tăng áp suất thẩm thấu trong tế bào vượt quá áp suất thẩm thấu của đất. Tốc độ và thời gian điều chỉnh thẩm thấu phụ thuộc vào loài thực vật.
Người ta đo được tốc độ điều chỉnh thẩm thấu trung bình là 1atm/ngày. Tốc độ này chỉ theo kịp các biến đổi xảy ra trong đất mặn. Tuỳ thuộc vào thực vật mà có cách điều chỉnh thẩm thấu khác nhau.
Một số thực vật có khả năng tổng hợp và tích luỹ một số chất hữu cơ đơn giản, có phân tử lượng thấp để tăng áp suất thẩm thấu. Các chất tích luỹ chủ yếu là các axit hữu cơ, axit amin, đường. Khi gặp môi trường mặn, trong cây lập tức tổng hợp các chất hữu cơ nhóm này để tự điều chỉnh áp suất thẩm thấu của chính mình. Ngoài ra, các hợp chất prolin, betain, putressin cũng được hình thành khi bị mặn.
Cá nước ngọt hấp thu hầu hết lượng nước mà chúng cần qua da nhờ cơ chế thẩm thấu bằng cách đái nhạt . Do vậy trong cơ thể cá trở nên ưu trương nên hấp thụ chủ động các chất muối khoáng thiết yếu từ môi trường xung quanh để bù lại lượng muối mất qua nước tiểu và khuyếch tán qua mang cá.
B. ĐỘNG VẬT
1. CÁ NƯỚC NGỌT
Hầu hết cá nước mặn (cá đuối, cá mập, cá mút đá- Hagfish có cơ chế điều hoà thẩm thấu khác) thực chất hấp thu nước khi chúng hô hấp, vì nước muối hút nước liên tục ra khỏi cơ thể cá ngược lại với quá trình hô hấp, do cơ thể cá nhược trương hơn so với môi trường xung quanh nên chúng phải lấy vào một lượng nước rất lớn và bài tiết chủ động các ion muối khác nhau (môi trường có độ thẩm thấu thấp).
2. CÁ NƯỚC MẶN
c. Lưỡng cư nước ngọt
Xét về phương diện điều hòa ASTT, sự điều hòa của lưỡng cư tương đối giống cá xương. Hầu hết các lưỡng cư sống ở nước ngọt và da của lưỡng cư trưởng thành là cơ quan điều hòa ASTT chính. Khi chúng sống dưới nước, có dòng nước thẩm thấu đi vào cơ thể. Nước này sau đó được loại ra ở nước tiểu.
Tuy nhiên có sự mất mát các chất hòa tan (solutes) ở cả nước tiểu và da. Để cân bằng sự mất mát này, lưỡng cư tích cực lấy muối từ môi trường có nồng độ muối rất loãng.
d. Lưỡng cư sống ở nước mặn
Thông thường thì các loài lưỡng cư không tồn tại được trong môi trường nước mặn trong vài giờ, tuy nhiên có ngoại lệ. Ngoại lệ này ở một loài ếch sống ở vùng Đông Nam Á là Rana cancrovora, một loài ếch ăn cua (crab-eating frog), có kích thước nhỏ, bề ngoài giống ếch, sống ở các đầm lầy nước lợ vùng ven biển. Chúng có thể bơi và kiếm thức ăn trong nước hoàn toàn chứa nước mặn.
Da của ếch thấm nước, do đó cách đơn giản hơn để ngăn chặn mất nước chính là duy trì một nồng độ thẩm thấu như với môi trường. Để ngăn chặn mất nước bằng cách tăng nồng độ muối bên trong cơ thể
3. ĐỐI VỚI CON NGƯỜI
Máu từ động mạch qua bơm để máu có áp lực cao , qua "quả lọc" hay "bộ lọc". Thay vì nước bên ngoài thẩm thấu vào bộ loc thì các chất thải bị "vắt" ra bên ngoài, khuếch tán vào dịch lọc vì bên trong là máu có áp lực cao.
Lợi dụng cơ chế áp suất thẩm thấu ngược chạy thận nhân tạo cho bệnh nhân
Hiện tượng ưu trương, nhược trương, đẳng trương ở hồng cầu do sự chênh lệch môi trường bên trong và bên ngoài tế bào
Tế bào hồng cầu chứa hệ thống thẩm thấu nên đóng vai trò quan trọng trong vận chuyển
- Nếu ASTT của hồng cầu và huyết tương là bằng nhau, thì hồng cầu vẫn giữ nguyên được các hình dạng và kích thước của nó.
- Nếu cho hồng cầu vào dung dịch muối NaCl có ASTT lớn hơn ASTT của hồng cầu, thì hồng cầu sẽ bị teo lại. Dung dịch muối NaCl được gọi là dung dịch ưu trương.
- Nếu bỏ hồng cầu vào dung dịch nhược trương có ASTT nhỏ hơn ASTT của hồng cầu, nước sẽ đi vào hồng cầu, hồng cầu sẽ được căng phồng dần lên và nếu căng phồng lên quá mức thì sẽ bị vỡ ra
- ASTT máu của con người và động vật có vú nói chung là gần tương đương với ASTT dung dịch muối NaCl có nồng độ 0,9% và được gọi là dung dịch nước muối sinh lý, đó là dung dịch đẳng trương.
Trong thực nghiệm sinh lý, người ta dùng các dung dịch sinh lý có áp suất thẩm thấu bằng áp suất thẩm thấu của máu động vật, ví dụ như dung dịch ringe.
THẨM THẤU NGƯỢC
Thẩm thấu ngược người ta dùng một áp lực đủ để đẩy ngược nước từ nơi có hàm lượng muối/ khoáng cao “thấm” qua một loại màng đặc biệt để đến nơi không có hoặc có ít muối/ khoáng hơn.
THE END
CẢM ƠN THẦY VÀ CÁC BẠN ĐÃ THEO DÕI!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Võ Phương Thảo
Dung lượng: |
Lượt tài: 2
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)